KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 78
Mời xem đoạn sau cùng này:
“Thị cố Địa Tạng! Bố thí nhân duyên kỳ sự như thị.”
(Này Địa-Tạng Bồ Tát! Những nhơn duyên công đức về sự bố thí như thế đó.)
Đức Phật ở chỗ này tổng kết, ý nghĩa không có cùng tận. Câu nói này nói rõ, nhân mà bạn tu và quả báo mà bạn nhận được, là đúng như lời trong kinh nói. Trong chú giải có mấy câu nói vô cùng cảm thán, chúng ta xem hàng thứ nhất trong chú giải, bắt đầu xem từ phía dưới. “Tổng chỉ vương thần nam nữ đẳng, sở tu chi nhân, sở đắc chi quả, cố vân kỳ sự như thị.” (Chỉ chung những người như vua, quan, nam, nữ, v.v., nhân mà họ đã làm, quả báo mà họ nhận được, cho nên nói rằng: sự việc ấy là như thế.)
Kỳ sự như thị chính là chỉ nghiệp nhân quả báo mà phần trước đã nói. “Vô nại thế nhân, tín giả thí bất tận lực, bất tín giả toàn bất năng hành.” (Tiếc rằng người trong thế gian kẻ tin được thì bố thí không hết sức, người không tin thì hoàn toàn không chịu bố thí). Hai câu nói này đã nói hết tướng chúng sanh. Đại chúng xã hội, người tin lời Phật nói, họ làm, nhưng chưa hết sức, làm chưa có hết lòng hết sức, cho nên được phước không giống như quả báo mà trong kinh đã nói. Tại sao vậy? Bạn làm chưa có hết sức. Chúng ta nhìn thấy có rất nhiều người, người tu phước, nhìn thấy họ có nghiệp chướng, họ không thể chuyển nghiệp chướng trở lại được, thế là khiến cho người khác hoài nghi. Nói họ thường hay làm việc từ thiện, nghiệp thiện, thường hay làm việc tốt, mà nghiệp chướng của bản thân họ không chuyển lại được, Phật Bồ Tát không có phù hộ họ. Trái lại khiến cho đại chúng xã hội mất hết niềm tin đối với việc tu học Phật Pháp. Tại sao họ tu phước mà không thể chuyển trở lại được? Chưa có hết sức. Họ có khả năng mười phần, mà chỉ dùng một phần khả năng để tu phước, vậy thì sao có thể chuyển trở lại được? Chúng ta nhìn thấy thế gian hiện nay có rất nhiều gia đình giàu có, những nhà doanh nghiệp lớn, đại tỉ phú trong xã hội. Trước đây tôi ở Đài Loan, có một khoảng thời gian, ông chủ tịch mỏ than Thụy Tam của Đài Loan mời tôi giảng kinh, giảng tại nhà ông, ông bố trí một phòng lớn trong nhà làm giảng đường, đại khái có thể chứa hơn một trăm người, là cư sĩ Lý Kiến Tân, rất nổi tiếng ở Đài Loan. Đến lúc tuổi già ông bị chứng sa sút trí tuệ, muốn sống không được, muốn chết cũng không xong, đại khái kéo dài đến mười mấy năm mới đi. Tại sao ông không thể chuyển trở lại được? Vì phước báo quá lớn, tiền của quá nhiều, làm một chút việc nhỏ này đối với ông mà nói chỉ giống như con trâu mất một sợi lông, huống gì làm mà không có tâm chân thành cung kính, cho nên nghiệp lực này không thể chuyển trở lại được. Nếu như làm giống như những gì trong kinh đức Phật nói, nếu bạn bố thí, cúng dường hết lòng hết sức, thì nghiệp chướng như thế nào đi nữa cũng tiêu mất. Bạn thử nghĩ xem, tiền của của bạn có phải thật sự thảy đều xả hết không? Là không thể xả hết, vì càng xả sẽ được càng nhiều. Người thế gian không tin. Tôi có tài sản một nghìn vạn, tôi xả một vạn là giỏi lắm rồi. Hôm nay tôi làm công đức một vạn rồi, chỉ một phần nghìn, họ đã cảm thấy rất đáng tự hào rồi, làm nhiều hơn người khác. Làm sao có thể chuyển được nghiệp của họ? Nếu họ đem toàn bộ tài sản, thảy đều xả hết để tu phước, thì tiền của sau đó lập tức liền đến ngay. Bạn muốn hỏi lời này có sự thật nào để làm chứng minh không? Có. Phạm Lãi thời Xuân Thu chính là một điển hình tốt, đây là vị đại thần của Việt Vương Câu Tiễn, là người thông minh tuyệt đỉnh. Ông giúp Việt Vương Câu Tiễn đánh bại Ngô Vương Phù Sai, phục hưng quốc gia của mình. Ông biết rất rõ con người của Câu Tiễn, người này có thể cùng hoạn nạn, chứ không thể cùng an vui. Khi quốc gia gặp nạn thì hợp tác mật thiết, khi không có tai nạn thì ông có tâm đố kỵ, không thể dung chứa người khác. Ông biết rõ, khi quốc gia vừa khôi phục, ông liền lén bỏ đi mất, thay đổi họ tên. Ông đổi tên thành Đào Chu Công, làm kinh doanh, buôn bán. Bắt đầu từ việc buôn bán nhỏ, chẳng bao lâu phát tài to. Sau khi phát tài thì đem toàn bộ tiền của đi cứu giúp người nghèo khổ, quyên hết toàn bộ. Rồi lại bắt đầu làm việc buôn bán nhỏ tiếp, chẳng bao lâu lại phát tài tiếp, ba lần tụ ba lần tan. Từ sự thật này đã chứng minh lời đức Phật nói là không có sai. Trong số mạng của bạn có bao nhiêu tiền của, xả thế nào cũng không xả hết được. Bạn xả sạch sẽ rồi, chẳng bao lâu nó lại đến, là trong số mạng có. Đâu thể xả hết được? Người thế gian ngày nay không tin lời đức Phật nói, cho rằng sau khi ta xả hết bao nhiêu tiền của như vậy, ngày mai ai cho tôi ăn cơm? Ngày mai ta sống như thế nào? Nghĩ đến ngày mai, nghĩ đến năm sau, nghĩ đến còn cả một đời, nghĩ đến còn có con cháu, thì một xu cũng không dám bỏ ra. Đây là tư tưởng sai lầm! Không chịu xả, thì phước báo sẽ hưởng hết rất nhanh. Sau khi hưởng hết, thì phía sau không còn nữa, đó mới là thật sự khổ. Họ không biết càng thí sẽ được càng nhiều. Những người tin Phật trong thế gian, nói thật ra người tin Phật rất kém cỏi. Tại sao kém như vậy? Đạo lý về Phật Pháp, bạn hiểu chưa đủ thấu triệt, thâm nhập chưa đủ, chưa xây dựng được niềm tin. Nguyên nhân này vẫn là do những người xuất gia hoằng pháp chúng ta chưa có làm tròn trách nhiệm, không có giảng rõ ràng, chưa có giảng minh bạch. Một người chưa hiểu rõ ràng, chưa hiểu minh bạch, nghe thấy pháp sư giảng liền tin ngay, điều đó khó! Là có chứ không phải không. Đó là thiện căn, phước đức, nhân duyên trong đời quá khứ chín muồi. Tuy không hiểu rõ, nhưng những gì sư phụ nói với tôi, tôi tin, tôi tin sư phụ. Họ chịu làm thật, hạng người này rất ít, không nhiều. Đại đa số đều là: “Tín giả thí bất tận lực, bất tín giả toàn bất năng hành.” (Người tin thì bố thí không hết sức, kẻ không tin thì hoàn toàn không chịu làm.) Chỉ hai câu là đã nói hết tướng chúng sanh thế gian rồi. Chúng ta nêu ra câu chuyện Phạm Lãi, đây là điển hình mà người Trung Quốc, người có ăn học đều biết. Thời trước đây ở Trung Quốc Đại Lục thờ thần tài. Thờ thần tài là thờ ai vậy? Thờ Phạm Lãi. Rất có đạo lý. Hiện nay thờ thần tài, tôi không biết là thờ ai? Có lẽ thần tài đã được thay đổi rồi. Ở Đài Loan xem Quan Công là thần tài, rất không có đạo lý. Quan Công có quan hệ gì với phát tài đâu? Không có đạo lý. Quan Công là nói đến nghĩa khí, thật sự là nghĩa khí ngút trời, là người biết ơn báo ơn, về phương diện này đáng được đề xướng, đáng được người đời tôn kính. Nói cúng bái Quan Công sẽ phát tài thì chưa chắc. Bởi vì khi nhìn vào lịch sử, đọc sách về ông, thấy dường như ông không có liên quan gì với phát tài cả, nên mời Cụ Quan Công làm bộ trưởng tài chánh, là sai rồi! Mời ông làm bộ trưởng quốc phòng thì được, chứ mời ông làm bộ trưởng tài chánh là sai rồi. Ông không phải người quản lý tài chánh. Mời Phạm Lãi làm thần tài là vô cùng có đạo lý. Ông thật sự là biết cách làm phát tài, ông có phương pháp. Phương pháp đó của ông với phương pháp đức Phật dạy không có sai khác, là cùng đạo lý. Chúng ta học Phật phải hiểu cho thấu triệt về lý, hiểu cho rõ ràng, sau đó xây dựng niềm tin, thật sự chịu làm, là để cầu nhiều phước cho mình. Cho nên bạn muốn có phước báo viên mãn, bạn chỉ cần tu học đúng như lý như pháp. Bạn bố thí tài thì bạn sẽ không bị thiếu tiền tài, cũng tức là bạn hưởng thụ vật chất, cho dù ở trong tai nạn lớn, bạn cũng không bị thiếu thốn. Bố thí pháp được thông minh trí tuệ, có trí tuệ. Bố thí vô úy được khỏe mạnh sống lâu. Đứng đầu trong bố thí vô úy là chọn ăn chay, ăn chay là bố thí vô úy, tuyệt đối không làm tổn hại tất cả chúng sanh hữu tình, không ăn thịt chúng sanh, để bồi dưỡng tâm từ bi, là bố thí vô úy. Tâm địa từ bi thì động vật nhỏ nhìn thấy bạn đều rất vui mừng, sẽ không làm tổn hại bạn, sẽ rất gần gũi với bạn. Thứ hai là phải thường xuyên giữ tâm niệm hết lòng hết sức giúp đỡ những người khổ nạn, đây cũng là thuộc về bố thí vô úy. Họ không có ăn, chúng ta cúng dường ăn uống cho họ, họ lìa khỏi sợ hãi, lìa khỏi lo lắng. Họ không có quần áo mặc, chúng ta tặng quần áo cho họ mặc, khiến cho họ được giữ ấm, không sợ bị giá rét, đây cũng là bố thí vô úy. Hễ là giúp chúng sanh thân tâm được yên ổn thì đều là thuộc về bố thí vô úy. Quả báo là mình được khỏe mạnh sống lâu. Ngày nay đồng bào bên Đại Lục gặp phải khổ nạn lớn như vậy chúng ta cần phải toàn tâm toàn lực làm, đừng sợ xả. Biết xả càng nhiều thì được phước sẽ càng nhiều. Trong chú giải ở phần sau cùng đếm ngược đến hàng thứ năm, câu sau cùng: “Hành đạo chi nhân bất đản trì giới thiền tụng, diệc đương bố thí tác phước” (Người hành đạo không những chỉ trì giới, thiền định, tụng niệm mà còn phải làm phước bố thí) Đây là lời đức Phật nói trong kinh, dạy học trò đệ tử đời sau. Các bạn đang hành đạo, tu hành, không những là phải trì giới, tham thiền, đọc tụng Đại Thừa, đây là thời khóa thường ngày của bạn. “Diệc đương bố thí tác phước.” (Còn phải làm phước bố thí) Bạn phải biết thường làm việc bố thí. Ba loại bố thí tài, pháp, vô úy đều phải làm. Chúng ta xem tiếp theo: “Đại Ái Đạo Kinh vân: Kim thế diệt tội, hậu thế đắc thân” (Kinh Đại Ái Đạo nói rằng: Đời này diệt tội, đời sau được rộng rãi hơn). Chữ thân nghĩa là mở rộng. “Hữu tài bất thí, thế thế thọ bần.” (Có tiền của mà không thí thì đời đời bị nghèo khổ.) Đây là gì vậy? Bỏn xẻn. Bỏn xẻn tiền của thì bị quả báo nghèo cùng, bỏn xẻn pháp thì bị quả báo ngu si. Bỏn xẻn việc bố thí vô úy thì sẽ bị quả báo tai nạn bệnh khổ. Đây là nguồn gốc của tất cả mọi thọ dụng của người thế gian làm sao mà có? Bạn có tin hay không? Có tin lời Phật dạy hay không? Nếu thật sự tin, hiện nay ta nghèo cùng thì hãy mau mau tu bố thí. Tại sao vậy? Mới có thể thoát khỏi nghèo cùng. Nghèo cùng, ta không có đồ gì để bố thí. Bạn nghĩ tiếp xem có hay không? Ngày nay ta ăn không đủ no, ăn không đủ no ta sẵn lòng bị đói một bữa, tiết kiệm một bữa ăn này của ta để bố thí cho người khác, là bạn cũng đã làm việc bố thí rồi. Đâu có chuyện không thể bố thí được? Thật sự có tâm bố thí cúng dường, còn việc bố thí cúng dường, phần trước nói rồi: “Nhất trần nhất mao, nhất sa, nhát trích.” (Bố thí bằng một hạt bụi, sợi lông, hạt cát, một giọt.) Bố thí rất ít, mà tâm rộng lớn, tâm chân thật, thì quả báo không thể nghĩ bàn. Cho nên đức Phật mở ra cho chúng ta một con đường. Người nghèo hèn cũng có thể tu bố thí được phước báo lớn, như vậy đạo trời mới công bằng. Tiếp theo nói: “Cố nhập đạo tất dĩ trí tuệ vi bổn, trí tuệ tất dĩ phước báo vi cơ” (Cho nên vào đạo phải lấy trí tuệ làm gốc, trí tuệ phải lấy phước đức làm nền tảng). Hai câu này nói rất hay, không được lệch về một bên. Thiên lệch về một bên trong kinh Phật có hai câu chuyện. Người tu hành một người lệch nặng về tu trí tuệ, còn một người lệch nặng về tu bố thí. Đời sau khi quả báo của hai người này hiện tiền, người lệch nặng về tu trí tuệ, tu thiền định, tu trí tuệ này chứng được quả A-La-Hán, vậy là khá rồi. Tuy chứng được quả A-La-Hán mà không có phước báo, thường hay ra ngoài để đi bát nhưng không có ai cúng dường, “La Hán đi bát về không”, bị đói, rất khổ! Ai biết bạn chứng được quả A-La-Hán? Người ta nhìn thấy bạn liền ghét ngay, không có duyên phận, không có người cúng dường cho ông ta. Người tu phước trái lại rất khá, nhưng rơi vào đường súc sanh, biến thành một con voi, đầu thai thành một con voi. Con voi này có phước báo, là được vua thích cưỡi đi nhất, vua đi đâu cũng đều cưỡi con voi này. Con voi này là đương nhiên sẽ được rất nhiều người cúng dường, hầu hạ nó, nuôi dưỡng nó, đi đâu cũng đeo anh lạc, châu báu đầy mình. “Tu phước mà không tu tuệ, thành voi đeo anh lạc.” Phước báo lớn rồi. Đức Phật dạy chúng ta phước tuệ song tu. Cho nên thành Phật, Phật được xưng là nhị túc tôn. Túc tức là đầy đủ, viên mãn. Nhị là hai loại; một cái là trí tuệ viên mãn, một cái là phước báo cũng viên mãn. Cho nên Phật là phước tuệ song tu. Đức Phật không có dạy chúng ta không tu phước. Nếu bạn cho rằng đức Phật dạy chúng ta không tu phước, là bạn hoàn toàn sai rồi. Vậy thì sao đức Phật được xưng là nhị túc tôn được? Nhưng đức Phật thường hay cảnh tỉnh chúng ta, cảnh cáo chúng ta tu phước không nên hưởng phước, sợ hưởng phước sẽ bị mê. Nếu như bạn hưởng phước mà không bị mê thì được! Vậy thì đức Phật cũng tán thành bạn hưởng phước. Cho nên đến khi nào có thể hưởng phước vậy? Sau khi minh tâm kiến tánh thì có thể hưởng phước. Tại sao vậy? Không bị mê. Kiến tánh là không còn mê nữa. Đây là điểm khác nhau giữa Đại Thừa với Tiểu Thừa. Bồ Tát Đại Thừa có thể hưởng phước, bậc thánh Tiểu Thừa không được phép hưởng phước, hưởng phước họ sẽ bị mê. Cho nên Tiểu Thừa, đức Phật tán thán khổ hạnh. Chúng ta có thể xem thấy trong số đệ tử của đức Phật, thì tôn giả Đại Ca Diếp tu khổ hạnh, “Hạnh đầu đà bậc nhất”, và tôn giả Ca Diếp vốn xuất thân trong gia đình trưởng giả rất giàu có, Ngài không phải là người nghèo cùng, sau khi xuất gia tu khổ hạnh, nếm những nỗi khổ mà con người không thể nếm được, Ngài hoan hỷ, Ngài vui vẻ, là tấm gương cho người mới học. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” chúng ta nhìn thấy Thiện Tài Đồng Tử, đó là người đại biểu cho Đại Thừa, là hưởng phước. Thiện Tài Đồng Tử ra đời, trong nhà ông, trong sân vườn ông, cỏ cây đều biến thành vàng bạc, lưu ly, bảy báu, đó là biểu thị cho pháp Đại Thừa. Đại Thừa có thể hưởng thụ, họ không mê. Cảnh giới của Đại Thừa và Tiểu Thừa khác nhau. Chúng ta là thuộc hạng căn cơ nào? Tuy là học pháp Đại Thừa, nhưng nói thực ra ngay cả căn cơ Tiểu Thừa chúng ta cũng không bằng, chúng ta hoàn toàn là phàm phu, điều này phải biết. Phàm phu nếu không niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, thì không còn đường nào để đi cả. Dứt khoát không được cho rằng đã học pháp Đại Thừa, liền tự cho mình là Bồ Tát, tự hào mình là Bồ Tát, đi đâu cũng kiêu ngạo, vậy thì chắc chắn đọa ác đạo. Đây là điều mình nhất định phải hiểu cho rõ ràng, nhất định phải sáng tỏ, mình quả thật sự là phàm phu. Kinh Đại Thừa chúng ta đã đọc, đã nghe rồi, tăng trưởng không ít kiến văn, nếu như thật sự nghe hiểu, thật sự giác ngộ, thì cần phải phát tâm chăm chỉ nỗ lực mà tu học, vậy là đúng rồi. Phần chánh tông của bản kinh chỉ giảng đến chỗ này. Kinh văn dưới đây là thuộc về phần lưu thông của bản kinh. Mời xem kinh văn, “Khoa chú” quyển hạ trang ba mươi mốt. Phẩm thứ mười một Địa Thần Hộ Pháp. Từ đây trở xuống là phần lưu thông của bản kinh. Trong phần lưu thông có ba phẩm kinh: “Địa Thần Hộ Pháp” lưu thông, “Kiến Văn Lợi Ích” lưu thông, “Chúc Lụy Nhân Thiên” lưu thông. Chúng ta thấy cách thức của “Kinh Địa Tạng”, kinh văn không dài lắm. Từ xưa đến nay bản kinh này có khi in thành một quyển, cũng có khi in thành hai quyển, ở đây được in thành ba quyển, là ba quyển thượng, trung, hạ. Kinh văn không dài lắm, nhưng về cách thức là cách thức của Đại Kinh. Chúng ta thấy thông thường kinh điển bình thường, Kinh Đại Thừa cũng không ngoại lệ, phần Lưu Thông chỉ có mấy hàng kinh văn mà thôi, phần Tựa cũng chỉ có vài hàng, phần Lưu Thông cũng chỉ có vài hàng. Chỉ có Đại Kinh thì phân lượng của ba phần Tựa, Chánh Tông, Lưu Thông là tương đối phong phú. Phần Tựa của bản kinh đã chiếm hết một phẩm. “Phẩm Thần Thông Trên Cung Trời Đao Lợi”. Phần lưu thông đã chiếm hết ba phẩm, đây là cách thức của Đại Kinh. Giống như cách thức của “Hoa Nghiêm”, “Pháp Hoa” vậy. “Kinh Vô Lượng Thọ” cũng là thuộc cách thức này. Chúng ta nhìn từ cách thức này liền biết, nó là kinh luận quan trọng nhất ở trong Đại Thừa. Có thể nói là Đại Thừa trong Đại Thừa, Nhất Thừa ở trong Nhất Thừa, quả thật là như vậy. Lưu Thông. Ý nghĩa của chữ lưu là nước. Nước là luôn trôi chảy, lưu truyền ba đời, thông đạt mười phương. Đức Phật dạy chúng ta, Phật Pháp phải lợi ích rộng rãi cho tất cả chúng sanh. Bất kỳ một người nào, hai chúng xuất gia, hai chúng tại gia, chỉ cần bạn quy y cửa Phật, làm đệ tử của Phật, bạn liền có sứ mệnh lưu thông Phật Pháp. Cho nên đức Phật ở phần sau cùng của mỗi bộ kinh, đều khuyên chúng ta lưu thông bộ kinh điển này, giữ gìn lưu truyền pháp môn này, đây là đại từ đại bi, giúp Như Lai rộng độ hữu tình. Nếu như chúng ta không thể làm tròn trách nhiệm này, cho dù mình tu rất tốt cũng có lỗi với Như Lai. Trong pháp thế gian coi trọng cái gọi là: “Bất hiếu có ba, không có người tiếp nối là tội lớn nhất.” Bản thân bạn hiếu dưỡng đối với cha mẹ tốt đi nữa, nhưng bạn không có người nối dõi, không có người tiếp tục hương khói, chỉ đến đời bạn là bị đoạn dứt rồi, đây gọi là đại bất hiếu. Phật Pháp cũng lại như vậy, tổ tổ truyền nhau, truyền đến ta, ta tu cũng rất khá, học cũng rất tốt. Nếu như không thể đem Phật Pháp truyền cho người khác, Phật Pháp đến đời ta bị đoạn dứt rồi, bạn tu tốt đi nữa cũng không thể thành Phật được, bạn cũng không thể thoát khỏi luân hồi. Tại sao vậy? Việc bạn làm có lỗi với chư Phật Bồ Tát, có lỗi với tổ sư đại đức truyền pháp. Sao có thể nhẫn tâm thấy cảnh đến đời bạn là bị gián đoạn rồi? Nhất định phải truyền pháp, mỗi đời đều có người, khiến cho Phật Pháp thường trụ ở thế gian không đến nỗi bị đoạn diệt, đây là thâm ý của lưu thông, chúng ta cần hiểu rõ. Trong tu học Phật Pháp, chúng ta đã đọc qua trong bộ kinh này, đã đọc qua phần Chánh Tông, vậy công đức gì là lớn nhất? Phước báo như thế nào là lớn nhất? Lưu thông. Phần trước đã nói với bạn, tu bổ chùa tháp cũ, tu bổ kinh sách cũ, đây đều thuộc về lưu thông. Thân hành, thân làm nên tấm gương cho người khác thấy, đây là dùng thân để lưu thông Phật Pháp, làm nên cho mọi người thấy, là thị hiện. Khẩu tuyên truyền, nói ra là lưu thông, đừng sợ khổ. Bạn thử xem Phật Thích Ca Mâu Ni, cả đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều là thị hiện cho chúng ta thấy, Ngài cũng thị hiện già, Ngài cũng thị hiện bệnh. Tuy già, bệnh nhưng đối với giảng kinh thuyết pháp chưa từng ngưng nghỉ bao giờ. Người khác khuyên Ngài ngưng nghỉ, nhưng Ngài không nghỉ, vì lợi ích chúng sanh. Những sự thị hiện này đều là để dạy cho người đời sau chúng ta, đừng nên cho rằng già, bệnh là có thể nghỉ ngơi, có thể về hưu rồi. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến lúc lâm chung còn giảng “Kinh Đại Niết Bàn”, bộ kinh này là được giảng trước lúc lâm chung ba tháng, là lời di giáo cuối cùng. Sau khi Ngài từ cung trời Đao Lợi trở về, giảng “Kinh Đại Niết Bàn” một ngày một đêm, rồi viên tịch. Nói cho chúng ta biết đến chết cũng không nghỉ ngơi. Đây là tinh thần gì vậy? Đức Phật làm nên tấm gương để cho chúng ta thấy. Không phải chỉ nói khơi khơi, khuyên bảo chúng ta mà thôi, không phải vậy. Thật sự làm nên tấm gương, đây là điểm chúng ta cần phải học tập, chúng ta phải ghi nhớ cho thật kỹ. Đặc biệt là phát tâm xuất gia, xuất gia thì phải học Phật, học đức Phật Thích Ca Mâu Ni, phải học giống y như Ngài vậy. Làm công việc hoằng pháp lợi sinh, lưu thông Phật Pháp cho đến hơi thở cuối cùng, vậy mới là đệ tử Phật chân chánh, là truyền nhân của chư Phật Như Lai. Mời xem kinh văn:
“Nhĩ thời, Kiên Lao địa thần bạch Phật ngôn: “Thế Tôn, ngã tùng tích lai, chiêm thị đảnh lễ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát, giai thị đại bất khả tư nghị thần thông trí huệ, quảng độ chúng sanh.”
(Lúc đó vị Kiên Lao Địa Thần bạch cùng Đức Phật rằng: ‘Bạch đức Thế-Tôn! Từ trước đến nay, con từng chiêm ngưỡng đảnh lễ vô lượng vị đại Bồ Tát, đều là những bực trí huệ thần thông lớn không thể nghĩ bàn độ khắp mọi loài chúng sanh.)
“Kiên Lao Địa Thần” là chỉ địa thần ở cõi Diêm Phù Đề. Địa Thần người thế gian chúng ta thường gọi là thần thổ địa, thần núi, đây đều là thuộc về loại địa thần. Thần thổ địa là vị thần nhỏ trong Địa Thần, cai quản khu vực rất nhỏ này, khoảng một phường xã, một thôn xóm. Kiên Lao Địa Thần là vị Địa Thần quản lý tất cả, cai quản cõi Diêm Phù Đề. Nếu dùng cách nói hiện nay của chúng ta để nói là cai quản trái đất này, đất đai của địa cầu do ông quản lý. Đất rất vững chắc nên gọi Ngài là Kiên Lao Địa Thần. Trong chú giải chú giải rất tường tận. Đây là trong “Kinh A Hàm” đức Phật dạy cho Tỳ Kheo biết có bốn thiên thần lớn: Thứ nhất là Thần Đất, thứ hai là Thần Nước, thứ ba là Thần Gió, thứ tư là Thần Lửa, là bốn loại đất, nước, lửa, gió này. Thần Đất cũng tham gia pháp hội lần này. Sau khi nghe đức Thế Tôn giảng kinh thuyết pháp xong, Ngài đứng ra thỉnh pháp với đức Phật. Trước tiên nói ra những trải nghiệm trong đời quá khứ của Ngài. Ngài nói “Ngã tùng tích lai” (Con từ xưa đến nay) Đây chính là những gì Ngài nhìn thấy từ trước cho đến nay. “Chiêm thị đảnh lễ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát” (Con từng chiêm ngưỡng đảnh lễ vô lượng vị đại Bồ Tát) Chúng ta hãy xem từ câu nói này. Thời gian tu hành của vị Địa Thần này rất dài. Từ chỗ này chúng ta cũng có thể nhận ra được, Kiên Lao Địa Thần cũng là do pháp thân đại sĩ thị hiện, Ngài ở trong đời quá khứ đã từng gặp vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát, Ngài đã từng gần gũi, bố thí, cúng dường, đã từng gần gũi Bồ Tát Ma Ha Tát nhiều như vậy. Ma Ha Tát là Bồ Tát địa thượng. Bồ Tát là Tam Hiền, Bồ Tát Tam Hiền Thập Thánh, Ngài đã từng gặp rồi, từng bố thí, cúng dường vô lượng vô số. “Giai thị đại bất khả tư nghị thần thông trí huệ, quảng độ chúng sanh.” (Đều là những bực trí huệ thần thông lớn không thể nghĩ bàn độ khắp mọi loài chúng sanh.) Đây là những vị Ngài đã từng gặp. Mời xem kinh văn dưới đây.
“Thị Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, ư chư Bồ Tát thệ nguyện thâm trọng. Thế Tôn! Thị Địa Tạng Bồ Tát ư Diêm Phù Đề hữu đại nhân duyên.”
(Ngài Địa-Tạng Bồ Tát đây so với các vị Bồ Tát chỗ thệ nguyện rất là sâu rộng. Bạch đức Thế-Tôn! Ngài Địa-Tạng Bồ Tát đây có nhơn duyên lớn với chúng sanh trong Diêm Phù Đề.)
Lời nói này là được nói ra từ miệng của ngài Kiên Lao Địa Thần, là người Ngài đã gặp. Bồ Tát Địa Tạng càng đáng khiến cho Địa Thần kính phục hơn so với những vị Bồ Tát khác. Tại sao vậy? Thệ nguyện của Ngài sâu rộng. Dưới đây Ngài sẽ nói rõ. “Ư Diêm Phù Đề hữu đại nhân duyên.” (Có nhơn duyên lớn với chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề.) Kiên Lao là Địa Thần của cõi Diêm Phù Đề, ngài biết Bồ Tát Địa Tạng đặc biệt có duyên phận với khu vực này. Lời nói này chúng ta phải hiểu, Bồ Tát Địa Tạng đối với bất kỳ nơi nào cũng đều có duyên phận. Duyên phận nhất định là bình đẳng, nhất định là không có thiên lệch. Tại sao Địa Thần lại nói như vậy? Là nói cho chúng ta nghe. Chúng ta xem thấy trong phẩm tựa ở phần trước, Bồ Tát Địa Tạng phân thân nghìn trăm ức. Ngài đi độ những chúng sanh khổ nhất trong cõi nước của tất cả chư Phật mười phương ba đời. Tâm của Bồ Tát là thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, đâu thể có thiên lệch được? Kiên Lao Địa Thần, cách nói này là ứng với căn cơ mà nói. Ngày nay chúng ta sinh ra trong cõi Diêm Phù Đề, hiện nay là chúng sanh cõi Diêm Phù Đề, cho nên Địa Thần nói cho chúng ta biết, Bồ Tát có nhân duyên lớn với chúng ta, khiến chúng ta có cảm giác thân thiết với Ngài hơn, dụng ý là ở chỗ này. Nói thực ra, khởi đầu học Phật là phải từ Địa Tạng, phần trước nói rồi, địa là tâm địa. Tạng là kho báu. Học Phật trước tiên là phải khai phá được kho báu tự tánh. Trong bộ kinh này, tất cả mọi sự chỉ dạy, đều là chỉ dạy chúng ta phương pháp khai phá kho báu tự tánh. Tự tánh có trí tuệ đức năng vô tận, có phước báo vô tận. Làm sao khai phá đây? Ở trong kinh đức Phật đã nói cho chúng ta rất rõ ràng, minh bạch rồi. Điểm mấu chốt hiện nay là chúng ta có tin sâu không nghi, có tu hành đúng như giáo hay không? Thật sự có thể tin sâu không nghi, y giáo tu hành, bạn liền được phước, trí tuệ của bạn liền mở, phước báo hiện tiền ngay. Vấn đề là chúng ta thật sự tin không đủ sâu, hiểu không đủ thấu triệt, cho nên vâng làm theo không có lực, không chịu chăm chỉ làm, chúng ta được lợi ích rất nhỏ nhoi, nhân tố đều ở tại chính mình, Phật không có lỗi, pháp cũng không có lỗi, cổ thánh tiên hiền không có lỗi. Các Ngài rất từ bi, sợ chúng ta xem kinh không thể hiểu được, nên đã chú giải rất tỉ mỉ. Chú giải chính là bố thí, cúng dường. Bản thân chúng ta có năng lực, tốt! Hãy giảng giải bộ kinh này, mình cũng có thể viết chú giải. Mình không có năng lực, thì cần phải đem những bản chú giải của tiền nhân, in sao lưu thông cúng dường đại chúng. Đây chính là ý trong kinh phía trước nói, người viết ra bản chú giải này họ là người dẫn đầu, họ là người phát khởi tu bố thí cúng dường. Chúng ta ngày nay nhìn thấy bản chú giải này, chúng ta hưởng ứng, chúng ta cũng phát tâm in sao, lưu thông kết duyên. Quả báo, họ là người phát khởi thì họ làm Chuyển Luân Thánh Vương, chúng ta tùy hỷ thì làm vua nước nhỏ. Quả báo chẳng phải đã nói rất rõ ràng sao? Tu phước, có khả năng thì làm một mình, không có khả năng thì khuyến hóa đại chúng cùng nhau làm, phước đừng lãng phí. Được phước bao nhiêu là ở sự dụng tâm của bạn? Tâm của bạn chân thành, thì bạn được phước báo là đích thực, chân thật. Tâm lượng của bạn lớn thì bạn được phước báo cũng lớn. Cho nên tu bố thí cúng dường, không phải nói người nào đó bỏ ra nhiều tiền thì họ sẽ được phước lớn, người bỏ ra tiền ít thì họ được phước nhỏ, không có đạo lý này. Người bỏ ra nhiều tiền, nếu như tâm họ không chân thành, không phải hết lòng hết sức, trái lại họ sẽ được phước báo nhỏ. Người bỏ ra rất ít tiền, giống như hiện nay chúng ta in bộ kinh này, đại khái là khoảng bảy chục đồng tiền Đài Loan, tương đương với hơn ba đồng Singapore, chưa đến bốn đồng. Họ chỉ in một bản, đây là sức bỏ ra ít. Nếu như tâm lượng của họ lớn, tu phước không phải vì mình, không phải vì gia đình mình, mà vì chúng sanh, vì Phật Pháp, hy vọng thế gian này có thêm một cuốn sách lưu thông. Phát tâm như vậy, họ được phước báo trái lại rất lớn. Tâm này rất thù thắng, rất hiếm có. Chúng ta xem kinh văn dưới đây:
“Như Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Di Lặc, diệc hóa bách thiên thân hình độ ư lục đạo, kỳ nguyện thượng hữu tất cánh. Thị Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa lục đạo nhất thiết chúng sanh sở phát thệ nguyện kiếp số như thiên bách ức Hằng Hà sa.”
(Như Ngài Văn Thù, Ngài Phổ Hiền, Ngài Quan Âm, Ngài Di Lặc cũng hóa hiện trăm nghìn thân hình để độ chúng sanh trong sáu đường, nhưng chỗ phát nguyện của các Ngài còn có lúc hoàn mãn. Còn Bồ Tát Địa Tạng đây Ngài phát thệ nguyện giáo hóa tất cả chúng sanh trong sáu đường trải qua nghìn trăm ức hằng hà sa số kiếp.)
Ở đây Địa Thần làm một cuộc so sánh. Những Bồ Tát khác phát nguyện không có lớn bằng nguyện của Bồ Tát Địa Tạng, vẫn còn có lúc cùng tận, còn nguyện của Bồ Tát Địa Tạng phát là không có cùng tận, “Địa ngục chẳng không, thề không thành Phật.” Địa ngục có thể trống không nổi không? Cho nên thử hỏi, Bồ Tát Địa Tạng có thể làm Phật không? Quý vị các bạn thử nghĩ xem, Bồ Tát Địa Tạng có thể làm Phật hay không? Người sáng suốt biết Bồ Tát Địa Tạng đã làm Phật từ lâu rồi. Tại sao vậy? Tất cả chư Phật Bồ Tát là một người, không phải rất nhiều người. Sao Ngài không làm Phật? Cần dùng thân gì được độ, liền hiện thân ấy. Cần dùng thân Bồ Tát Địa Tạng được độ bèn thị hiện thân Bồ Tát Địa Tạng, cần dùng thân Quan Âm Bồ Tát được độ bèn thị hiện thân Quan Âm Bồ Tát. Quan Âm Bồ Tát, Di Lặc vẫn là một người, đây là sự thật, đây là chân tướng sự thật. Chư Phật Như Lai tùy loại hóa thân, tùy cơ thuyết pháp. Chỗ này chỉ là nhấn mạnh, đối với người mới học thì Địa Tạng là quan trọng, bắt rễ từ pháp môn Địa Tạng. Địa Tạng dạy điều gì? Hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kính thầy tổ. Hiếu kính chính là tu phước, tu tuệ. Bạn có thể hiếu kính đây là phước, bạn hiểu rõ hiếu kính là tuệ, phước tuệ song tu. Kinh này là kinh hiếu của cửa Phật. Phật Pháp Đại Thừa, được xây dựng trên cơ sở của đạo hiếu. Cho nên hiếu đạo viên mãn tức là Phật đạo thành tựu viên mãn. Bồ Tát Đẳng Giác, vẫn còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, hiếu đạo vẫn chưa viên mãn. Cho nên Phật Pháp Đại Thừa là xây dựng ở trên cơ sở của hiếu đạo viên mãn. Đây là điều chúng ta cần phải biết. Trong kinh nói cho chúng ta biết những việc nào cần phải nên làm, những việc nào không được phép làm, đều là thuộc về hiếu kính. Người hiếu kính cha mẹ, tôn kính thầy tổ thật sự thì nhất định có thể hiểu được ý nghĩa này, biết y giáo phụng hành. Y Giáo phụng hành, thì cha mẹ vui mừng, vậy là tận hiếu rồi. Thầy tổ vui mừng, đây là tôn sư trọng đạo. Được rồi, hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến đây.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.