Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 64

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 64

  Mời xem kinh văn trang 134:

  “Phật cáo Địa Tạng Bồ Tát: “Nhữ kim dục hưng từ bi, cứu bạt nhất thiết tội khổ lục đạo chúng sanh, diễn bất tư nghị sự, kim chánh thị thời, duy đương tốc thuyết.”

  (Ðức Phật bảo Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát rằng: ‘Nay ông muốn khởi lòng từ bi cứu vớt tất cả chúng sanh mắc phải tội khổ trong sáu đường, mà diễn nói sự chẳng thể nghĩ bàn, bây giờ chính đã phải lúc, vậy ông nên nói ngay đi.)

  Ngài Địa Tạng Bồ-tát bạch với đức Phật. Không những đức Phật hứa khả, mà còn hối thúc phải nói mau. Tại sao vậy? Vì nó quá quan trọng với tất cả chúng sanh. Mấy câu nói phía trước này là khen ngợi: “Nhữ kim dục hưng từ bi.” Nay ông muốn khởi lòng từ bi) “Hưng” là phát khởi. Ông phát khởi tâm từ bi. Vì muốn: “Cứu bạt nhất thiết tội khổ lục đạo chúng sanh” (cứu vớt tất cả chúng sanh mắc phải tội khổ trong sáu đường.) Đây là việc lợi ích lớn. Tuy chúng sanh tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp, dù là đời này hay là đời quá khứ đã tạo tội nghiệp cực nặng, chỉ cần họ chưa có dứt hơi thở, chúng ta biết thảy đều có thể cứu được. Lúc này đầu óc họ tỉnh táo, một niệm quay đầu liền được cứu ngay, thật sự là quay đầu là bờ. Chúng ta xem thấy ở trong “Kinh A Xà Thế Vương”, vị quốc vương này ở thế gian có địa vị, có quyền lực, có uy thế, tạo tác tội nặng ngũ nghịch thập ác, chắc chắn đọa địa ngục A Tỳ. Dẫu sao người này vẫn là có thiện căn, lúc cuối đời giác ngộ, biết hành vi tạo tác của cả đời mình là sai lầm, quay đầu lại nương theo lời giáo huấn của Tam Bảo, lúc sắp mạng chung niệm Phật vãng sanh. Đức Phật nói cho chúng ta biết, phẩm vị vãng sanh của ông là thượng phẩm trung sanh, ông là nhờ sám hối mà vãng sanh. Nhìn từ sự việc điển hình này, dù tạo tội nghiệp cực nặng cũng không sợ, đều có thể được cứu. Chỉ cần họ chịu quay đầu, chỉ cần họ thật sự sám hối, sửa chữa lỗi lầm, thì vẫn có thành tựu rất thù thắng. Ngày nay chúng ta cũng phải học theo Bồ-tát Địa Tạng. Chúng ta xây đạo tràng ở nơi này, đạo tràng xây dựng có loại tạm thời, có loại lâu dài. Loại tạm thời là mượn một địa điểm, giảng ở nơi đây một ngày, hai ngày, ba ngày, địa điểm giảng kinh chính là đạo tràng, đây là đạo tràng tạm thời. Bất kể là tạm thời hay là dài lâu, tâm bạn phát ra ở nơi đó là tâm từ bi đích thực, chân thành, thanh tịnh, từ bi, giảng kinh thuyết pháp, khuyên bảo tất cả chúng sanh quay đầu là bờ, đều là công đức không thể nghĩ bàn. Người nghe rất nhiều, đương nhiên chúng ta không thể đoán trước người nào cũng có thể thành tựu, người nào cũng có thể quay đầu, đây là việc không thể làm nổi. Ở trong thính chúng chắc chắn có vài người có duyên. Xây dựng một đạo tràng, bạn có thể độ được một người ở đạo tràng này thì đạo tràng này cũng có vô lượng công đức. Bất kể là tạm thời hay là lâu dài, ở đạo tràng này nghe kinh, nghe pháp, được một người giác ngộ, được một người thật sự niệm Phật vãng sanh, thì đạo tràng này có vô lượng công đức. Cho nên đức Phật ở trong kinh này, trong “Kinh Địa Tạng” phần trước chúng ta cũng đã đọc qua, khuyên bạn xây đạo tràng, đắp tượng Phật, tu cúng dường đều nói công đức không thể nghĩ bàn, đạo lý là ở chỗ này. Chỉ cần có một người được độ thì công đức là không thể nghĩ bàn, huống chi là càng có nhiều người ở nơi này giác ngộ, quay đầu. Đây là đích thực cứu vớt tất cả chúng sanh tội khổ. Những chúng sanh tạo tác tội nghiệp này, tương lai chắc chắn đọa ác đạo. Khổ là ác đạo. Tội là tạo tác hiện tại. Tội là nhân, khổ là quả. Nhân quả đều phải cứu. Nhưng nhất định phải cứu trong lúc họ còn sống, chúng ta mới có biện pháp. Nếu như họ chết rồi đọa vào trong ác đạo, thì chúng ta đành phải bó tay, chắc chắn chúng ta không thể cứu được. Cho nên khi họ rơi vào ba ác đạo, thì chỉ có chư Phật Như-lai, pháp thân đại sĩ thị hiện cùng loại thân ở trong ác đạo để giúp đỡ họ, chứ chúng ta không có khả năng này. Chúng ta ngày nay có thể làm được là lúc họ chưa có dứt hơi thở. Đây là việc lớn. Hai câu dưới đây là đức Phật thúc giục Ngài: “Kim chánh thị thời, duy đương tốc thuyết.” (Bây giờ chính đã phải lúc, vậy ông nên nói ngay đi.) Hãy nói mau đi. Hôm nay chúng ta đọc đến đoạn kinh văn này, nói thực ra là giống như Phật Thích Ca Mâu Ni đang hối thúc chúng ta vậy. Chúng ta phải nhanh chóng làm việc này, hiện nay đúng là lúc. Cho nên hai câu nói này dùng cho chúng ta hiện nay là vô cùng xác đáng. Dưới đây đức Phật nói:

  “Ngô tức Niết Bàn, sử nhữ tảo tất thị nguyện, ngô diệc vô ưu hiện tại vị lai nhất thiết chúng sanh”.

  (Giả sử ông có thể sớm làm xong nguyện đó, Ta dầu có vào Niết Bàn, cũng không còn phải lo ngại gì đến tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai nữa’.)

  Câu kinh văn này, chúng ta đọc xong cảm nhận rất sâu sắc. Chúng ta học Phật bắt đầu học từ đâu? Bạn xem đức Phật Thích Ca Mâu Ni có tâm gì? Ở trong tâm Phật chỉ có tất cả chúng sanh hiện tại, vị lai, chứ không có mình, đây chính là tâm Phật. Trong mỗi niệm của đức Phật là phục vụ cho chúng sanh, là cứu vớt tất cả chúng sanh tội khổ. Bộ kinh này là do Phật Thích Ca Mâu Ni nói trước khi diệt độ, có thể nói là lời di giáo cuối cùng. Sau khi nói xong bộ kinh này, sau cùng là bộ “Kinh Niết Bàn”. Cho nên đây là một bộ kinh trước “Kinh Niết Bàn”, được xem là di giáo cuối cùng. “Ngô tức Niết bàn” (Ta dầu có vào Niết bàn) Niết-bàn là dịch âm theo tiếng Phạn, thông thường dịch là “Diệt độ”. Trong Tứ Đế là khổ, tập, diệt, đạo. Diệt chính là Niết bàn. Ở Trung Quốc dùng nhiều nhất là dịch thành “Viên tịch”. Viên là viên mãn, công đức viên mãn. Tịch là tịch diệt, thanh tịnh tịch diệt. Ở trong chú giải của Ngài: “Niết bàn, pháp sư Huyền Trang Tam Tạng dịch là viên tịch.” Là đại sư Huyền Trang, chỗ này trích dẫn rất hay: “Đức tròn đầy gọi là viên” công đức viên mãn, không có mảy may khiếm khuyết gọi là viên. “Hoàn toàn không có chướng ngại gọi là tịch” cũng hay, ý nghĩa rất hay. Chướng chính là tam chướng, nhị chướng. Nhị chướng là phiền não chướng và sở tri chướng. Tam chướng là hoặc, nghiệp, khổ, thảy đều dứt hết rồi, như vậy gọi là tịch. Từ đó cho thấy, Niết bàn, viên tịch không phải là danh từ đại biểu cho sự chết. Hiện nay mọi người đều xem nó là danh từ đại biểu cho sự chết. Khi người xuất gia chết, người ta thường nói: “Người nào đó viên tịch, người nào đó nhập Niết bàn”. Vậy thì tương lai có người nào không nhập Niết bàn đâu? Người nào cũng nhập Niết bàn, bất kể có học Phật hay không học Phật thảy đều nhập Niết bàn, quan niệm này là sai lầm! Nói thực ra Niết bàn là chứng được ngay lúc đang còn sống, chứ không phải danh từ đại biểu cho sự chết. Chỗ này nói: “Ngô tức Niết bàn” (Ta dầu có vào Niết bàn) là đức Phật ở trong khoảng thời gian này, duyên giáo hóa chúng sanh của Ngài đã hết rồi, công đức viên mãn rồi, đây là thị hiện rời khỏi thế gian này. Ở trong tám tướng thành đạo, tướng nhập Bát Niết Bàn là cuối cùng, là lấy cái ý này. Duyên hết rồi thì đức Phật sẽ không trụ thế nữa. Vì trụ thế không còn ý nghĩa. Người có duyên với Ngài cần được độ đều đã được độ rồi. Người chưa có được độ, mà đã gieo hạt giống Phật pháp với Ngài, nhưng hạt giống này hiện nay chưa thể chín muồi, nên đương nhiên Ngài phải rời đi. “Sử nhữ tảo tất thị nguyện” (Giả sử ông có thể sớm làm xong nguyện đó.) Ông phát tâm tiếp tục ra làm công việc này, tốt! Cho nên đức Phật không còn trụ thế, trước khi Bồ-tát Di Lặc vẫn chưa có thị hiện thành Phật, trong khoảng thời gian trống này, là Bồ-tát Địa Tạng thay thế đức Phật để giáo hóa. Trong tất cả Bồ-tát, thì Bồ-tát Địa Tạng là đại diện cho đức Phật. Vào lúc này thân phận, địa vị của Ngài rất đặc thù. Bồ-tát Địa Tạng đại diện cho đức Phật, đây lại là ý nghĩa gì? Vả lại trong kinh này nói: “Hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kinh sư trưởng”. Cương lĩnh của nền giáo dục hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kính sư trưởng là thay thế cho sự giáo hóa của Phật Đà ở trong khoảng thời gian này. Bởi vì nền giáo dục, giáo hóa của tất cả chư Phật Như-lai đều là dựa vào hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kính sư trưởng làm cơ sở. Đức Phật không còn ở đời nữa, chúng ta cần phải làm công việc này, là gìn giữ cơ sở dạy học. Dù không có năng lực nâng nền giáo dục này lên, nhưng cơ sở này nhất định phải duy trì, không được để mất đi, công việc này quan trọng biết bao. Đây là tinh thần mà bộ kinh này muốn hiển bày, tin sâu nhân quả, đoạn ác tu thiện, hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kính sư trưởng, đây là những gì trong “Kinh Địa Tạng” nói. Nếu như dựa theo giáo nghĩa của Tịnh Tông, cơ sở tu học của Tịnh Tông là “Tịnh nghiệp tam phước mà Thế Tôn nói trong “Quán Kinh”. Trước khi chưa có tu pháp môn niệm Phật, thì trước tiên phải đặt nền tảng này. Tịnh Tông là được xây dựng trên cơ sở này. Điều đầu tiên của cơ sở này là: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ, từ tâm không giết hại, tu thập thiện nghiệp.” Quí vị thử nghĩ xem bốn câu nói này có phải “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” hay không? Không sai. Điều thứ hai: “Thọ trì tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi”. Điều thứ ba là: “Phát tâm Bồ đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả.” Bảy câu trong hai điều sau cùng này là hoàn toàn tương ưng với năm phẩm sau cùng của “Kinh Địa Tạng”, từ phẩm này mãi cho đến kết thúc kinh, tổng cộng là mười ba phẩm kinh. Hay nói cách khác bộ “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” này tức là nói rõ tỉ mỉ về tịnh nghiệp tam phước. Không chỉ là cơ sở cho tu Tịnh Tông, ở trong Phật pháp bất kể là Đại Thừa hay Tiểu Thừa, bất kể là Tông Môn hay Giáo Hạ, Hiển Giáo hay Mật Giáo đều xây dựng ở trên cơ sở này. Đức Phật không còn ở đời, không có người nào hoằng dương giáo pháp, chúng ta có thể giữ gìn được cơ sở này là được rồi. Duy trì cơ sở này, là có thể cứu vớt tất cả chúng sanh tội khổ trong lục đạo. Cho nên thời kỳ Mạt Pháp, kiên định, giữ vững cơ sở này, khuyên người ta thật thà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, là thành công ngay, đây thật sự là việc không thể nghĩ bàn. Chúng ta muốn hoằng dương những kinh luận khác, mà mình chưa có khai ngộ, chưa có kiến tánh sợ giảng sai, rất khó đạt được sự thọ dụng chân thật. Chỉ có giữ vững cơ sở này, thật thà niệm Phật thì chắc chắn không sai. Cho dù chư Phật Như-lai thị hiện vào lúc này, thì việc giáo hóa chúng sanh cũng nhất định là như vậy. Cho nên chúng ta đọc đoạn kinh văn này, mới biết được trong tâm của chư Phật Như-lai nghĩ gì, việc các Ngài làm là gì, chúng ta cần phải học tập ở chỗ này. Chú giải của pháp sư Thanh Liên, trong đây có một đoạn chúng ta hãy đọc qua một lượt, trang một trăm ba mươi lăm đếm ngược đến hàng thứ tư. Chúng ta bắt đầu xem từ đầu: “Thử pháp chi diệu” (Chỗ nhiệm mầu của pháp ấy) Pháp này chính là những gì Bồ-tát Địa Tạng nói ở trong phẩm kinh này. Pháp gì vậy? Là pháp môn xưng danh hiệu Phật, pháp môn này là niệm Phật, pháp môn niệm Phật. “Ta dầu có nhập Niết Bàn, hoặc dầu ông đã sớm hoàn tất nguyện cứu độ chúng sanh rồi, ta cũng không lo cho hết thảy chúng sanh trong đời hiện tại hay vị lai. Vì sao? Đã có pháp môn Xưng Danh này thì ai cũng chẳng bị đọa vào cảnh khổ, đều cùng tu hành để sanh vào đường trời người cho đến rốt cuộc thành Phật không còn nghi ngờ chi nữa.” Ở đây nói rất hay. “Thể hội được tâm Phật, và rõ được ý Phật, khéo noi theo chí hướng và tiếp nối sự nghiệp ấy, thì không có người nào hơn đức từ tôn Địa Tạng vậy.” Bồ-tát Địa Tạng thật sự hiểu được ý của đức Phật, tiếp nối nguyện vọng của Phật. Chúng ta thường nói tiếp nối huệ mạng Phật. Bồ-tát Địa Tạng hiểu được ý này. Đức Phật không còn tại thế, thì Bồ-tát Địa Tạng ra làm tiếp. Dùng pháp môn gì vậy? Pháp môn xưng danh. Cho nên Thế Tôn khen ngợi Ngài, thúc giục Ngài hãy nói mau. Dưới đây là lời Bồ-tát Địa Tạng nói, ý nghĩa của lời nói rất sâu. Bồ-tát Địa Tạng ở chỗ này đã nói ra danh hiệu của mười vị Phật. Thứ tự của mười vị Phật này là từ gần đến xa. Về mặt thời gian mà nói vị gần với thời hiện đại chúng ta nói trước, càng nói càng xa. Mời xem kinh văn:

   “Địa Tạng Bồ Tát bạch Phật ngôn: “Thế Tôn, quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp”

  (Ngài Ðịa-Tạng bạch cùng Ðức Phật rằng: ‘Bạch đức Thế-Tôn! Vô lượng vô kiếp về thuở quá khứ.)

  Tuy là gần cũng không phải gần, đây là vị gần nhất cũng không phải gần.

  “Hữu Phật xuất thế, hiệu Vô Biên Thân Như Lai”

  (Có Ðức Phật ra đời hiệu là Vô Biên Thân Như Lai.)

  Đây là nói ra danh hiệu của đức Phật.

  “Nhược hữu nam tử nữ nhân, văn thị Phật danh tạm sanh cung kính, tức đắc siêu việt tứ thập kiếp sanh tử trọng tội. Hà huống tố họa hình tượng, cúng dường tán thán, kỳ nhân hoạch phước vô lượng vô biên.”

  (Như có người nam người nữ nào nghe danh hiệu của Ðức Phật đây mà tạm thời sanh lòng cung kính, liền đặng siêu việt tội nặng sanh tử trong bốn mươi kiếp, huống là vẽ đắp hình tượng cúng dường tán thán! Người này được vô lượng vô biên phước lợi.)

  Chúng ta đọc đoạn kinh văn này, nghe cách nói như vậy có thể tin được không? Lại có chúng sanh y giáo phụng hành, có phải họ thật sự được phước như vậy hay không? Rất khiến cho người ta nghi ngờ. Chúng ta làm theo phương pháp mà Bồ-tát Địa Tạng dạy cho chúng ta đây, sợ không được quả báo như vậy, tự mình vẫn phải gánh lấy tội nặng sinh tử, đáng đọa địa ngục thì vẫn phải đọa vào địa ngục. Vậy thì phải giải thích lời này như thế nào? Có phải là Bồ-tát Địa Tạng nói sai không? Bồ-tát Địa Tạng không có nói sai, mà do chúng ta xem kinh văn sai, chúng ta nghe sai rồi. Bồ-tát Địa Tạng ở chỗ này nói: “Văn thị Phật danh, tạm sanh cung kính.” (Nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, mà tạm thời sanh lòng cung kính) Ý nghĩa của hai câu nói này, chúng ta chưa có hiểu rõ ràng. Văn, trong tam tuệ của Bồ-tát, nói một chữ thì nhất định bao gồm cả hai chữ còn lại là: văn, tư, tu. Làm sao biết được? Nếu như không có tư, tu thì làm sao có thể tạm thời sanh cung kính được? Cung kính chính là tư, tu. “Tư” tức là trong tâm của bạn thật sự có Phật, một niệm tương ưng một niệm Phật, họ tương ưng rồi. Cung kính không phải là đắp tượng Phật ở đó rồi lễ bái cúng dường Ngài. Kiểu cung kính đó là hình thức, đó là giả, không có dùng được. Phải một niệm tương ưng. Niệm tương ưng rồi thì hạnh đương nhiên sẽ tương ưng. Tâm hạnh tương ưng rồi thì lời nói đương nhiên sẽ tương ưng. Ba nghiệp thân, khẩu, ý đều tương ưng. Thời gian ngắn đi nữa, chỉ cần tương ưng thì công đức là không thể nghĩ bàn. Đây chính là một niệm giác. Cho nên mới được lợi ích thù thắng như vậy: “Tức đắc siêu việt tứ thập kiếp sanh tử trọng tội” (Liền đặng siêu việt tội nặng sanh tử trong bốn mươi kiếp). Đức Phật hiệu là: “Vô Biên Thân Như-Lai”. Ở trong chú giải của pháp sư Thanh Liên chú giải rất rõ ràng. Bạn cần phải hiểu rõ, phải sáng tỏ về Phật hiệu. Nếu bạn không hiểu rõ, không sáng tỏ thì làm sao tương ưng được? Thế nào gọi là “vô biên thân”. Ở trong tiểu chú nói: “Ba thân đều có ý như vậy”. Ba thân là pháp thân, báo thân, ứng hóa thân. Pháp thân chính là tự tánh, pháp thân không có hình tướng. Pháp thân là lý, không phải sự tướng. Lý trùm khắp mọi nơi, đây là Vô Biên Thân. Chúng ta đọc thấy trong “Kinh Hoa Nghiêm” Phật Tỳ Lô Giá na. Tỳ Lô Giá Na là tiếng Phạn, nghĩa là “trùm khắp mọi nơi”, đây là bản thể, lý thể. Ở trong ” Hoa Nghiêm” cũng gọi là nhất chân pháp giới. Nhất chân pháp giới chính là pháp thân. Trong Tịnh Độ gọi nó là Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Thường Tịch Quang không có hình tướng. Trong bốn cõi của thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì Thường Tịch Quang là không có hình tướng. Thực Báo Độ chính là báo thân. Phương Tiện Độ, Đồng Cư Độ là ứng hóa thân. Ứng hóa thân tùy loại hóa thân, chúng sanh có cảm lập tức liền hiện tướng, cũng là vô lượng vô biên, bạn hiểu rõ ý nghĩa này. Chúng ta muốn hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni có nhập Bát Niết Bàn hay  không? Không có. Không những trên lý không có, mà trên sự cũng không có, đây là thật. Tại sao nói trên sự cũng không có? Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt, chuyển đổi xuất hiện qua một thân phận khác, không dùng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, không dùng thân tướng này. Tại sao không dùng thân tướng này? Phước của chúng sanh mỏng, cho nên đức Phật bèn hiện thân tướng khác. Phật Thích Ca Mâu Ni có thể hiện vô lượng vô biên thân tướng ở trong thế gian này, thị hiện thành già trẻ nam nữ, làm các ngành các nghề. Mỗi một vị Phật đều có thể hiện vô biên thân tướng. Đặc biệt là lúc chúng sanh gặp tai nạn lớn, lúc thọ khổ cùng cực, tạo tội nghiệp lớn, thì tâm từ bi của Phật Bồ-tát càng nhiều, chúng ta phải nhận thức, phải hiểu rõ. Làm thế nào bạn mới nhận thức? Làm sao mới có thể tiếp xúc được? Bạn hãy thử xem, xem tất cả chúng sanh như là cha mẹ trong quá khứ và chư Phật vị lai của mình, thì bạn sẽ tiếp xúc được. Bạn sẽ cảm nhận được chư Phật Bồ-tát vẫn đang ở thế giới này của chúng ta, chưa có rời khỏi chúng sanh tội khổ. Vào lúc này chúng ta một niệm tương ưng liền được cứu, liền được độ. Sau đó bạn mới hiểu được quả báo trong kinh nói là thật chứ không phải giả. Tâm cung kính đích thực của bạn mới có thể sinh khởi được. Cung kính không phải hình thức. Cung kính là hiểu rõ, sáng tỏ, giác ngộ, y giáo phụng hành, tuyệt đối không phải ở hình thức. Trên hình thức là biểu diễn cho những người ít thiện căn đó xem. Chúng ta đắp tạo hình tượng Phật Bồ-tát, mỗi ngày cung kính, lễ bái, cúng dường là diễn kịch, để cho những người chưa có học Phật, chưa có tiếp xúc Phật giáo đó xem. Họ xem xong thấy rất kỳ lạ, sẽ hỏi tại sao anh làm những động tác, những biểu hiện này trước tượng này? Họ có nghi hoặc họ đến hỏi bạn, bạn hãy nói, giải thích cho họ biết, công đức là ở chỗ này. Cái này hiện nay gọi là “Cơ hội giáo dục”. Hiện nay thực hiện cơ hội giáo dục phải nói là có hiệu quả thù thắng hơn thời xưa. Thời xưa người đến đạo tràng nhất định là đến để cầu pháp. Đúng như câu nói: “Không có chuyện thì không vào điện Tam Bảo”. Nhất là đạo tràng nhà Phật đều xây dựng ở trên núi sâu, nơi ít có dấu chân người đến. Khi bạn đi giao thông không thuận tiện, vô cùng khó khăn, họ không có việc gì thì đến đó làm chi? Đi đến đạo tràng nhất định là để cầu pháp, cho nên cơ hội giáo dục ít hơn hiện nay. Hiện nay giao thông thuận tiện, tham quan du lịch, những vị khách tham quan này muốn đến những nơi này để xem, để thưởng lãm. Những người xuất gia trong đạo tràng của chúng ta, mỗi ngày làm công tác cơ hội giáo dục. Có người ở trong chánh điện thắp hương, lễ lạy, làm nên những hình ảnh như vậy cho những vị khác tham quan này xem, họ chưa từng thấy, chưa từng tiếp xúc bao giờ, có người ở bên cạnh giải thích cho họ biết. Khi họ đi tham quan du lịch vô tình tiếp xúc được Phật pháp, vô tình đã gieo hạt giống Phật pháp vào trong họ rồi, họ sẽ học Phật thôi. Bạn nói công đức này bao lớn! Cho nên những đạo tràng này là cơ hội giáo dục, tiếp dẫn chúng sanh rộng lớn, đích thực là đang làm công việc cứu độ tất cả chúng sanh tội khổ, là đang làm sự nghiệp này. Cần phải có tấm lòng này của Phật, có tình cảm này của Phật, niệm niệm là luôn nghĩ đến tất cả chúng sanh tội khổ, tuyệt đối không phải vì mình. Khách tham quan đem lại thu nhập cho chúng ta, nếu như mục tiêu của chúng ta chỉ nhắm vào chỗ này là sai rồi, hoàn toàn sai rồi! Mục đích của chúng ta phải nhắm vào việc cứu độ tất cả chúng sanh tội khổ, làm cho họ nhận thức được Phật pháp, hiểu được Phật pháp, làm thay đổi nhân sinh quan và vũ trụ quan của họ, vậy là cứu độ họ. Phần cúng dường này của họ cho đạo tràng mới là công đức chân thật. Đây là nói tạm thời sinh tâm cung kính, tức là tạm thời có một niệm tương ưng. Niệm này thật sự tương ưng rồi, thì có thể liền được siêu việt tội nặng sanh tử trong bốn mươi kiếp. “Hà huống tố họa hình tượng, cúng dường tán thán.” (Huống là vẽ đắp hình tượng cúng dường tán thán.) Đây là đã nhập môn, đã nhập cảnh giới họ mới chịu làm như vậy. Tạo tượng Phật, hiện nay tạo tượng Phật dễ dàng, thuận tiện hơn trước đây quá nhiều. Trước đây tượng Phật, người hiện nay nói là đồ thủ công mỹ nghệ. Hiện nay tạo tượng Phật có thể đúc một cái khuôn, là có thể làm mấy nghìn bức, mấy vạn bức một cách nhanh chóng, lợi dụng máy móc để làm. Trước đây mỗi một bức tượng Phật đều phải do nhân công chạm khắc mới có. Quí vị ở Trung Quốc đại lục, bạn thấy những hang động ở Vân Cương, ở Đôn Hoàng đều là mấy chục năm, mấy trăm năm mới hoàn thành. Nếu hiện nay làm thì quá thuận tiện rồi. Hay nói cách khác người hiện nay tu phước thuận lợi hơn trước đây. Nhưng khó ở chỗ nào vậy? Là bốn chữ phía sau này: “Cúng dường, tán thán”. Cúng dường là gì? Y giáo tu hành. Trong “Phẩm Hạnh Nguyện Phổ Hiền” dạy chúng ta, ở trong “rộng tu cúng dường”, đặc biệt dạy chúng ta cúng dường pháp là quý nhất. Bồ-tát đã nói bảy loại cúng dường pháp: loại thứ nhất là “Cúng dường tu hành đúng như đã dạy”. Đức Phật dạy chúng ta làm như thế nào thì chúng ta nhất định phải làm như thế ấy, vậy mới là cúng dường. Nói một cách cạn cợt, đức Phật dạy chúng ta không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, chúng ta đều có thể làm theo được, vậy gọi là cúng dường. Tán thán tức là vì người diễn thuyết, đem Phật pháp giới thiệu cho người khác, tiến cử cho người khác gọi là tán thán. Cho nên tán thán là hoằng pháp lợi sinh. Cúng dường là tự mình y giáo phụng hành. Người ta có thể làm được như vậy, thì phước báo của họ đương nhiên sẽ rất lớn. “Kỳ nhân hoạch phước vô lượng vô biên” (Người này được vô lượng vô biên phước lợi.) Cho nên sau khi bạn hiểu rõ rồi, đọc đến kinh văn này thì chúng ta sẽ tin, sẽ không còn nghi ngờ. Hầu hết mọi người đọc kinh thường lơ là sơ ý, chỉ làm theo hình thức chứ không có nội dung thực tế. Tâm cảnh đều không tương ưng thì làm sao họ có phước được? Không có phước họ bèn khinh chê, phỉ báng kinh, nói lời Phật dạy trong kinh là giả, tôi làm theo như vậy mà không có cảm ứng. Phỉ báng Phật, phỉ báng pháp thì tội lỗi cực nặng. Không những không được lợi ích trái lại còn bị đọa lạc. Nói thực ra đức Phật nói trong kinh rất rõ ràng, nhưng bạn lại hiểu sai ý nghĩa, dùng ý của bản thân bạn để hiểu kinh Phật, giải thích sai kinh Phật, hiểu sai lời Phật nói. Lỗi lầm là do mình, chứ không phải ở kinh Phật. Cho nên trong “Kinh Kim Cang” dạy chúng ta: “Hiểu sâu nghĩa thú”. Bốn chữ này quan trọng biết bao! Phải hiểu chính xác, phải hiểu sâu, bạn mới có thể được thọ dụng chân thật. Xem tiếp vị thứ hai:

  “Hựu ư quá khứ Hằng hà sa kiếp, hữu Phật xuất thế hiệu Bảo Tánh Như Lai. Nhược hữu nam tử nữ nhân, văn thị Phật danh, nhất đàn chỉ khoảnh, phát tâm quy y, thị nhân ư vô thượng đạo vĩnh bất thoái chuyển.”

 (Lại hằng hà sa kiếp về thuở quá khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Bửu Tánh Như Lai. Như có người nam người nữ nào được nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, phát tâm quy y với Phật trong khoảng khảy móng tay, người này trọn hẳn không còn thối chuyển nơi đạo vô thượng chánh giác.)

  Phía trước là Vô Biên Thân Như-Lai, cách chúng ta là vô lượng a-tăng-kỳ-kiếp. Bảo Tánh Như-lai cách chúng ta là hằng hà sa kiếp, rất xa. Cho nên vừa mở đầu chú giải Ngài nói: “Hằng hà sa kiếp, giảo tiền cánh đa hĩ.” (Số kiếp nhiều như cát sông Hằng, còn nhiều hơn so với trước.)  Thời gian so với phía trước, là nhiều hơn, dài hơn. “Bảo Tánh Như-Lai”. Ở đây cũng có cách giải thích đơn giản, “Kinh Liên Hoa Diện” nói: “Chư Phật Như-lai thị chúng sanh bảo.” (Chư Phật Như-lai là báu vật của chúng sanh”. Dưới dây có bảy loại bảo, trong kinh Phật thường nói bảy loại báu. “Tánh” là dụ cho pháp thân, trong tiểu chú cũng có, quí vị xem sẽ biết, là dụ cho pháp thân. Thường, lạc, ngã, tịnh đây là bốn đức. Thường, lạc, ngã, tịnh gọi là tứ tịnh đức, là vốn sẵn đầy đủ ở trong tự tánh. Khi mê mất tự tánh thì bốn đức này đều mất hết, đây là mê mất rồi. Nếu như bạn giác ngộ, bạn kiến tánh rồi. Kiến tánh tức là tư tưởng, kiến giải, hành vi của chúng ta tương ưng với tự tánh, thì bốn đức này sẽ hiện tiền. Quả thật có Thường. “Thường” là bất sanh bất diệt. Trong Phật pháp thường nói là vô lượng thọ. Ý nghĩa của vô lượng chính là thường. Vô lượng đó là thật sự vô lượng chứ không phải giả, không phải là vô lượng so với hữu lượng, nó là thật sự vô lượng. “Tịnh” là thanh tịnh vô nhiễm, cả hai bên nhiễm tịnh đều không lập. “Ngã” là tự tại, là chủ tể. Chủ tể cái gì? Chủ tể của vũ trụ, chủ tể của pháp giới, chủ tể đích thực. “lạc” là chân lạc. Hai bên khổ lạc đều không còn mới là chân lạc. Nghĩa là tuyệt đối, nó không phải là tương đối. Bảo Tánh Như-Lai là ai vậy? Là chính mình, là pháp thân thanh tịnh của chính mình. Vô Biên Thân Như-Lai ở phía trước là ba thân của mình. Tương ưng với Phật tức là tương ưng với ba thân của tự tánh. Niệm danh hiệu của vị Phật Bảo Tánh Như-Lai này, một niệm tương ưng là tương ưng với tánh đức của tự tánh. Dưới đây nói: “Nhược hữu nam tử nữ nhân, văn thị Phật danh, nhất đàn chỉ khoảnh” (Như có người nam người nữ nào, nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây thoát qua lỗ tai) Đây là nói thời gian rất ngắn ngủi. Chứng tỏ công đức không thể nghĩ bàn. “Phát tâm quy y”. Ý nghĩa của hai chữ “Quy y” chúng ta phải hiểu. Quy là quay đầu, thật sự quay đầu. Y là nương tựa. Nương tựa cái gì? Nương tựa vào Bảo Tánh Như-lai, tức là nương tựa vào tánh đức của tự tánh, một niệm này tương ưng. Phía sau là nói họ đạt được lợi ích. “Thị nhân ư vô thượng đạo vĩnh bất thối chuyển.” (Người này trọn hẳn không còn thối chuyển nơi đạo vô thượng chánh giác) “Vô thượng đạo” là con đường thành Phật. Phàm phu chúng ta học Phật, tại sao phải trải qua vô lượng kiếp. Trong kinh nói: “Vô ương số kiếp”. Nguyên nhân chính là do thối chuyển. Nói thực ra tiến lên thì ít, mà thoái lui thì nhiều. Nếu quí vị suy nghĩ thật kỹ thì bạn sẽ hiểu được. Chúng ta trôi lăn trong lục đạo, cơ hội được thân người rất ít, cơ duyên nghe được Phật pháp càng ít hơn. Bạn không được thân người, không nghe được Phật pháp liền thối chuyển ngay. Không phải chỉ là một ngày nắng, mười ngày lạnh mà thôi đâu. Ví dụ chúng ta đời này được thân người, nghe Phật pháp, nếu như không thể thành tựu thì nhất định sẽ trôi lăn theo nghiệp. Trôi lăn theo nghiệp thì chắc chắn đọa ba ác đạo. Tại sao vậy? Chúng ta tự mình hãy thật bình tĩnh, thành thật suy nghĩ xem, không cần nghĩ đời quá khứ, chỉ nghĩ trong đời này thôi, chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói việc làm nếu tương ưng với tham sân si mạn chính là ba ác đạo, tương ưng với ngũ giới thập thiện thì sanh về cõi nhân thiên. Mỗi ngày chúng ta có bao nhiêu tâm niệm tương ưng với ngũ giới thập thiện? Có bao nhiêu tâm niệm tương ưng với tham sân si, mười nghiệp ác? Vậy chẳng phải rõ ràng rồi sao? Một khi rơi vào ác đạo, trong kinh này nói thời gian trong địa ngục đều là vô số kiếp. Ở cõi nhân gian, mấy chục năm ngắn ngủi được nghe Phật pháp, thoắt một cái là vô số kiếp không nghe được Phật pháp. Bạn mới biết mức độ thối chuyển quá lớn. Khổ báo trong vô số kiếp, sau khi báo hết rồi được lại thân người, được thân người lại chưa chắc có thể nghe được Phật pháp. Cho nên trong kinh Phật nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe” là thật chứ không phải giả. Thật sự rất khó! Bởi vì nguyên nhân này, cho nên học Phật muốn thành tựu mới phải trải qua vô ương số kiếp. Vô ương số kiếp bạn đạt được hiệu quả gì? Thoát khỏi lục đạo, thoát khỏi thập pháp giới, chứng được quả vị sơ trụ Bồ-tát, phải trải qua vô ương số kiếp. Từ sơ trụ Bồ-tát, muốn thành Phật quả cứu cánh viên mãn nữa, đây là thông thường nói là ba đại a-tăng-kỳ-kiếp. Con số này là có thể xác định được, còn con số phía trước là không cách gì xác định. Đến viên sơ trụ là giống như bạn nhập học, bạn học lớp một, có thể dự tính bao nhiêu năm bạn có thể tốt nghiệp, nhập học rồi, con số này có thể tin cậy được. Bình thường nói thành Phật phải ba đại a-tăng-kỳ-kiếp, quí vị phải biết là không phải nói đối với chúng ta, là nói đối với sơ trụ Bồ-tát đến Phật quả cứu cánh trong nhất chân pháp giới. Ở trong đây trải qua bốn mươi mốt cấp bậc: Thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác, bốn mươi mốt cấp bậc này, đây là ba đại a-tăng-kỳ-kiếp. Khó! Quá khó, quá khó! Nhưng khi bạn có một niệm quy y. Quy y là thật sự quy y, chứ không phải hình thức. Quy y này là nương bảo Bảo Tánh Như-Lai, là quy y tự tánh. Bảo Tánh Như-Lai là tự tánh Tam Bảo. Thật sự quy y tự tánh Tam Bảo, thì công đức này là lớn rồi. Tại sao vậy? Bạn niệm niệm xứng tánh. Niệm niệm xứng tánh thì đương nhiên không thối chuyển. Người nào mới có thể làm được? Sơ trụ Bồ-tát. Chúng ta xem thấy ở trong kinh điển “Đại Thừa Khởi Tín Luận” là cảnh giới của Bồ-tát sơ trụ. “Kinh Kim Cang” cũng là cảnh giới của Bồ-tát sơ trụ. Họ thật sự là quy y tự tánh Tam Bảo. Quy y tự tánh Tam Bảo, dựa theo tiêu chuẩn của “Kinh Kim Cang” mà nhìn, là lìa bốn tướng: “Không tướng ngã, không tướng nhân, không tướng chúng sanh, không tướng thọ giả.” Đó là quy y đích thực. Nếu còn bốn tướng thì chưa có quy y. Bạn chưa có quay đầu, cũng chưa có nương tựa. Đây là điều chúng ta nhất định phải hiểu rõ, phải sáng tỏ.

Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến chỗ này.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *