Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 24

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 24

  “Định Tự Tại Vương bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Nguyện bất hữu lự” (Ngài Định Tự Tại Vương bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Xin Phật chớ lo.”)

  Xin Ngài hãy yên tâm, xin Ngài đừng nên lo lắng.

“Ngã đẳng thiên vạn ức Bồ-tát Ma Ha Tát” (Nghìn muôn ức đại Bồ-tát chúng con.)

  Chúng Bồ-tát tham dự pháp hội rất nhiều. Dùng nghìn muôn ức để miêu tả. Bồ-tát là Bồ-tát quả vị Tam hiền. Ma Ha Tát là Bồ-tát quả vị thập thánh. Tam hiền, thập thánh.

  “Tất năng thừa Phật uy thần quảng diễn thị kinh ư Diêm Phù Đề lợi ích chúng sanh.” (Đều có thể nương oai thần của Phật mà tuyên lưu rộng kinh này nơi cõi Diêm Phù Đề để cho lợi ích chúng sanh.)

  Chỗ này chúng ta đặc biệt phải chú ý đến cụm từ “Diêm Phù Đề”, mười phương vô lượng vô biên thế giới đặc biệt nghiêng về cõi Diêm Phù Đề. Bồ-tát Định Tự Tại Vương đại biểu cho vô lượng đại chúng Bồ-tát tham dự pháp hội, ở trước mặt Thế Tôn tiếp nhận lời dặn dò của Phật Thích Ca Mâu Ni.

 “Tất năng thừa Phật uy thần” (Đều có thể nương oai thần của Phật)

  Câu nói này rất quan trọng, chúng ta không được xem qua một cách hời hợt, đây là biểu thị cho sự khiêm tốn. Bồ-tát giáo hóa chúng sanh nhất định được Phật lực gia trì, không phải mình có năng lực làm, được Phật lực gia trì. Nói thực ra đây đều là Bồ-tát đẳng giác, họ đương nhiên có thể giảng kinh, có thể thuyết pháp, có thể độ chúng sanh khổ nạn. Cách làm như vậy đều là làm cho chúng ta thấy, dạy chúng ta biết khiêm tốn, dạy chúng ta biết lễ kính, gần gũi tánh đức chân thật.

  “Quảng diễn thị kinh ư Diêm Phù Đề lợi ích chúng sanh” (Tuyên lưu rộng kinh này nơi cõi Diêm Phù Đề để cho lợi ích chúng sanh.)

  Nói thực ra phạm vi lợi ích của hoằng [dương] kinh [điển] là tận hư không khắp pháp giới, sao có thể chỉ giới hạn ở cõi Diêm Phù Đề chứ? Diêm Phù Đề là chỉ địa cầu của chúng ta ngày nay. Sao cái phạm vi này lại nhỏ như vậy? Nên biết Phật Thích Ca Mâu Ni lần này thị hiện tại cõi Diêm Phù Đề, nói Diêm Phù Đề chính là nói tận hư không khắp pháp giới. Thế nên việc quan tâm, yêu thương, giúp đỡ đối với những chúng sanh cõi Diêm Phù Đề này làkhông có khác gì so với quan tâm, yêu thương tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới khác, là rất bình đẳng, ý nghĩa là như vậy, chứ không phải tâm thiên vị, chỉ yêu thương cõi Diêm Phù Đề thôi, thế thì sai rồi! Nói đến chỗ này, cũng giống như lời đại sư Thiện Đạo nói là do gặp duyên khác nhau. Ngày nay vận số của chúng sanh cõi Diêm Phù Đề rất tốt, duyên rất tốt, gặp được rồi. Dứt khoát không phải Phật Bồ-tát có tâm thiên vị. Nơi này duyên chín muồi, duyên chín muồi thì đến độ trước. Giống như pháp duyên của (chúng)tôi cũng là như vậy. Tôi mấy chục năm nay, có thể nói từ khi mới vừa xuất gia đã yêu thích “Kinh Hoa Nghiêm” hơn. Bộ kinh sách tôi thỉnh đầu tiên chính là “Kinh Hoa Nghiêm Sớ Sao”, là do một vị lão cư sĩ cúng dường cho tôi. Vào lúc đó rất không đơn giản, giá tiền bộ sách này rất cao. Pháp sư Chí Khaithỉnh về một bộ từ phòng lưu thông kinh Phật ở Hồng Kông, 40 cuốn sách đóng buộc chỉ. Hiện nay in nó thành sách mà mọi người các bạn đều có. Bản gốc là sách đóng buộc chỉ gồm 40 cuốn, nó đã đến với tôi cũng  hơn 30 năm rồi. Bản gốc của sách này, tôi đã tặng cho Hội Quỹ Giáo Dục Phật Đà, cho họ làm bản gốc. Lần in này chữ rất rõ ràng, in rất tốt. Chỉ tiếc là, tôi không có ở Đài Loan, họ đã in thành sách đóng bìa thường. Nếu tôi ở Đài Loan nhất định sẽ in thành sách đóng bìa cứng. Nhưng vậy cũng là tốt rồi, có được bản đẹp như vậy. Ưa thích “Hoa Nghiêm”, ưa thích đọc “Hoa Nghiêm”, thích tương lai có duyên giảng “Kinh Hoa Nghiêm”. Nhưng duyên rốt cuộc chưa chín muồi. Ở Đài Loan đã giảng một thời gian, nhưng cứ bị gián đoạn hoài. Là do thường hay tiếp nhận lời mời của nước ngoài, khi xuất ngoại thì giảng kinh bị gián đoạn. Hơn nữa thường xuyên xuất ngoại, cho nên kinh này cứ bị gián đoạn hoài. Tôi ở Đài Bắc đã giảng 17 năm, chỉ giảng được một nửa. Không ngờ rằng ở nơi đây nhân duyên chín muồi, nghĩ thế nào cũng không thể nghĩ ra được? Nơi nào duyên chín muồi rồi, thì chúng ta ở nơi đó phải thật sự làm. Phật pháp cũng là pháp donhân duyên sanh, tâm của chúng tôi là thanh tịnh, bình đẳng. Ở trên toàn thế giới bất kỳ nơi nào duyên chín muồi rồi, chúng tôi cũng đều làm như vậy. Tuyệt đối không phải do thích nơi nào đó hơn, chúng tôi là bình đẳng, từ bi, bác ái. Yêu quý nơi này, loại nhiệt tâm này cũng giống nhưđối xử với những nơi khác duyên chưa chín muồi vậy. Tuyệt đối không có nói là nơi này nhiều hơn, nơi kia ít hơn, nhất định không có. Quý vị đồng tu các bạn tu học tương lai cũng là như vậy, nhất định phải xây dựng trên cơ sở thanh tịnh, bình đẳng, giác, để diễn rộng đại kinh. Nói thực ra ngày nay cái thật sự có thể cứu thế gian này chỉ có “Kinh Vô Lượng Thọ” và “Kinh Địa Tạng”, còn duyên của “Kinh Hoa Nghiêm” vô cùng vô cùng hiếm có, rất khó có được,chúng ta có thể học tập.Tương lai Phật pháp sẽ hưng thịnh, quốc gia hưng thịnh rồi, thì Phật pháp nhất định sẽ hưng thịnh. Phật pháp càng hưng thịnh, chúng tôi tin cơ duyên sẽ rất nhiều. Đến lúc đó phải có người tuyên giảng. Ở nơi đây chúng tôigiảng “Hoa Nghiêm” một lần để cung cấp cho quý vị làm tham khảo, để làm cơ sở. Quý vị tương lai có thể từ trên cơ sở này phát huy rộng rãi thêm, lợi ích tất cả chúng sanh. Thế Tôn dặn dò những vị đại Bồ-tát này, chúng ta phải có dũng khí ngay đó nhận lấy, chúng ta cũng phải vào pháp hội của họ, cũng phải trở thành một phần tử ở trong pháp hội, vậy là công đức vô lượng. Dứt khoát không nên cho mình là người ngoài cuộc, không có liên quan gì đến pháp hội, thế là chúng ta sai rồi, vậy thì công đức lợi ích thù thắng ở trong đây bạn không được một phần nào cả. Phải khẳng định mình là một phần tử ở trong đại hội. Phật Thích Ca Mâu Ni dặn dò những vị đại Bồ-tát nàycũng chính là dặn dò ta. Ta cũng là một trong các vị Bồ-tát. Giống như lời trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói, tuy phiền não chưa đoạn, nhưng ta là chúng sanh tâm lượng lớn, vậy ta chính là người đương cơ của “Hoa Nghiêm”. Trong hội Địa Tạng cũng vậy, nếu như chúng ta là phàm phu tâm lượng lớn, thì chúng ta cũng có thể gần gũi với Bồ-tát Ma Ha Tát, cũng có thể gia nhập đoàn thể của các Ngài rồi.

  “Định Tự Tại Vương Bồ-tát bạch Thế Tôn dĩ, hiệp chưởng cung kính tác lễ nhi thoái” (Ngài Định Tự Tại Vương Bồ-tát bạch với Đức Phật xong, bèn cung kính chắp tay lễ Phật mà lui ra.)

  Định Tự Tại Vương Bồ-tát thỉnh giáo với Phật Thích Ca Mâu Ni, đến chỗ này là viên mãn rồi, và cáo lui, lui về chỗ ngồi của mình. Xem tiếp kinh văn dưới đây.

  “Nhĩ thời tứ phương Thiên Vương câu tùng tòa khởi, hiệp chưởng cung kính.” (Bấy giờ, bốn ông Thiên Vương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chắp tay mà bạch cùng Đức Phật rằng:)

  Định Tự Tại Vương thỉnh giáo xong, trở về chỗ ngồi rồi, thì tiếp đó Tứ Đại Thiên Vương lại đến rồi. Tứ Đại Thiên Vương họ là một đoàn thể nhỏ, từ chỗ ngồi của mình đứng dậy, chắp tay cung kính thỉnh pháp với Phật. Trước tiên là hết sức cung kính đối với Phật. Người Trung Quốc chúng ta thường gọi Tứ Phương Thiên Vương là Tứ Đại Kim Cang. Giống như đạo tràng Cửu Hoa Sơn, vừa bước vào sơn môn liền có điện Thiên Vương, đây là công trình kiến trúc đầu tiên, trong đó là cúng dường Tứ Đại Thiên Vương. Ở giữa điện Thiên Vương cúng dường một bức tượng Bồ-tát Di Lặc. Tạo tượng Bồ-tát Di Lặc, hiện nay theo thói quen người ta đều tạo theo hình tượng của Bố Đại hòa thượng. Bố Đại hòa thượng là người triều Tống, là người khoảng năm đầu triều Nam Tống. Trong lịch sử Nam Tống, đã xuất hiện một vị anh hùng dân tộc, là Nhạc Phi. Hầu hết người Trung Quốc khi nhắc đến Nhạc Phi mọi người đều biết. Bố Đại hòa thượng là người cùng thời với Nhạc Phi. Ngài xuất hiện ở Phụng Hóa tỉnh Triết Giang. Người này rất lạ lùng, cũng chẳng có ai biết tên Ngài là gì, Ngài từ đâu đến cũng chẳng ai biết. Ngài chỉ đi du hóa ở cái vùng Phụng Hóa này,dáng người rất mập mạp, mỗi ngày cầm một cái túi vải lớn đi hóa duyên khắp nơi. Bất kể người ta cho Ngài cái gì, Ngài đều bỏ vào trong túi vải cả, rồi vác lên mà đi. Cho nên mọi người bèn gọi Ngài là Bố Đại hòa thượng. Bố Đại hòa thượng vì thế mà trở nên nổi tiếng. Khi Ngài viên tịch, bèn nói ra thân phận với mọi người, là do chính Ngài nói. Ngài là Bồ-tát Di Lặc tái lai. Sau khi nói xong Ngài liền đi ngay, không bệnh mà đi. Không phải nói xong mà vẫn không đi. Hiện nay có rất nhiều ngườinói họ là Phật, Bồ-tát gì đó tái lai. Nói xong lại không đi! Bố Đại hòa thượng nói xong liền đi ngay. Về sau chúng ta biết Ngài là Bồ-tát Di Lặc hóa thân, nên từ đó về saungười Trung Quốc tạo hình tượng Bồ-tát Di Lặc đều tạo theo hình tượng Bố Đại hòa thượng. Bố Đại hòa thượng lúc nào cũng tươi cười, thật sự là khiến cho chúng ta thường sinh tâm hoan hỷ, khiến chúng ta ai cũng thấy vui vẻ. Nên hình tượng đó của Ngài là vì người diễn thuyết, Ngài biểu diễn cho người ta thấy. Biểu hiện rõ ràng nhấtchính là thường sinh tâm hoan hỷ. Cho nên có người xưng Ngài là Phật Hoan Hỷ.Hình ảnh Ngài biểu thị là: Sinh tâm bình đẳng, hiện tướng vui vẻ. Tâm bình đẳng nhìn từ đâu vậy? Bất kỳ người nào cúng dường đồ cho Ngài, không kể sang hèn thảy đều bình đẳng, đều cho vào trong túi vải. Túi vải lớn bỏ đồ trong đó là biểu thị bình đẳng, không có phân biệt. Hiện tướng vui vẻ là hình ảnh của Ngài:khi gặp người thiện vui vẻ, gặp người ác cũng vui vẻ, khi gặp việc tốt vui vẻ, gặp việc xấu cũng vui vẻ, là thị hiện thanh tịnh, bình đẳng cho chúng ta thấy. Ở trong truyện ký có ghi chép, một lần nọ có người gặp Ngài ở trên đường, hỏi Ngài tu hành phải như thế nào? Ngài đem túi vải để xuống đất, hai tay mở rộng ra, chỉ biểu thị như vậy, chứ Ngài cũng không nói gì. Người ta thấy cái hình ảnh này, hiểu rồi. Đây là gì vậy? Buông xuống. Hiểu là buông xuống. Sau khi buông xuống rồi làm thế nào? Ngài lại cầm túi vải lên, vác lên vai rồi đi ngay, không nói một câu nào. Sau khi buông xuốngrồi thì nhấc lên và đi thôi. Cho nên buông xuống được và nhấc lên được. Buông xuống là gì vậy? Là buông xả tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Nhấc lên là gì vậy? Trên cầu Phật pháp, dưới hóa độ chúng sanh. Bồ-tát Di Lặc là dạy chúng ta điều này. Bên cạnh điện Thiên Vương cúng dường Tứ Đại Thiên Vương. Ở trong kinh điển Tứ Đại Thiên Vương đều có danh hiệu. Đông Phương Trì Quốc Thiên Vương, trì là bảo vệ. Trì quốc là bảo vệ đất nước. Chúng ta ngày nay gọi là yêu nước, thươngnhà, yêu nước, yêu quê hương. Đông phương Thiên Vương là đại biểu cho ý nghĩa này. Bảo vệ đất nước phải bắt đầu từ bảo vệ bản thân mình. Chúng ta ngày nay gọi là tự ái, tự trọng. Tự ái tự trọng chính là bảo vệ mình. Bảo vệ được mình thì bạn mới có thể bảo vệ được nhà. Bảo vệ được nhà thì bạn mới có thể bảo vệ được xã hội. Bảo vệ được xã hội thì bạn mới có thể bảo vệ được quốc gia. Bảo vệ được quốc gia thì bạn mới có thể bảo vệ được thế giới hòa bình. Ngài biểu thị cho cái ý nghĩa này. Tinh thần của thị hiện chính là chịu trách nhiệm, làm tròn trách nhiệm, Ngài dạy chúng ta điều này. Nếu bạn không chịu trách nhiệm, nếu không thể làm tròn bổn phận của mình, việc cần phải làm trong chức trách của bạn, bạn cũng không chịu đi làm, thì bạn sao có thể bảo vệ đất nước được? Người nào cũng có thể làm hết trách nhiệm. Bản thân ta là ở cương vị công tác nào, ta phải làm tốt công việc của mình, ta phải chịu trách nhiệm, ta phải nghiêm túc nỗ lực làm cho tốt, đây chính là bảo vệ đất nước. Ngài cầm trên tayđạo cụ, chúng ta hiện nay gọi là đạo cụ, Ngài cầm trên tay là cây đàn tỳ bà, là pháp tượng trưng. Tuyệt đối không phải vị Thiên Vương này ưa thích ca hát, nghĩ thế là bạn sai rồi! Đàn tỳ bà đại biểu cho trung đạo. Nho gia Trung Quốc chúng ta gọi là trung dung. Đàn tỳ bà là nhạc cụ bằng dây, nếu dây chùng thì nó không kêu, dây căng thì nó bị đứt, nhất định phải chỉnh đến vừa đúng, thì âm sắc sẽ rất hay. Đây chính là nói với chúng ta rằng, bất kể là chúng ta đối với người, với sự, với vật, nhất định phải hành trung đạo, phải làm đến mức vừa đúng tốt, không được dư thừa, cũng không được thiếu hụt, đây gọi là hành trung đạo. Là giống như chơi đàn vậy, chỉnh cái dây đàn này không được quá căng, cũng không được chùng, chỉnh đến mức vừa đúng tốt,là biểu thị ý nghĩa này. Trong nhà Nho gọi là đạo Trung Dung, ở trong Phật pháp gọi là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế. Nam Phương Thiên Vương gọi là Tăng Trưởng Thiên Vương, danh hiệu là Tăng Trưởng. Ý nghĩa của Tăng Trưởng là gì? Là tiến bộ. Trí tuệ của chúng ta phải tăng trưởng, đức hạnh của chúng ta phải tăng trưởng, đời sống của chúng ta cũng phải nâng cao mức sống mỗi ngày, hết thảy mọi thứ đều phải cầu mong tiến bộ. Bạn mới biết Phật pháp nói tinh tấn, nghĩa là cầu tiến bộ, chứ không có thoái lui. Có người đã từng nói với tôi,Phật pháp chúng ta phải theo kịp thời đại. Nói vậy là sai rồi! Mà phải là thời đại phải theo kịp Phật pháp, Phật pháp là lãnh đạo thời đại, vậy mới là chính xác. Nhưng mà ngày nay thì sao? Ngày nay Phật pháp rơi lại phía sau thời đại, thìthành ra thể thống gì nữa! Nó vốn dĩ là dẫn đầu, hiện nay biến thành cái đuôi, vậy thì quá sức điên đảo! Phật pháp là lãnh đạo thời đại này, chỉ đạo con người. Con người chúng ta nếu muốn đạt được hạnh phúc, gia đình đạt được mỹ mãn, sự nghiệp có thể thuận lợi thành công, xã hội vui vẻ hòa thuận, quốc gia giàu mạnh, thế giới hòa bình, thì Phật pháp phải ở vị trí lãnh đạo. Có thể dựa theo nguyên lý, nguyên tắc mà Phật pháp nói, thì nhất định có thể đạt được mục tiêu này. Chúng ta đừng quên những năm đầu triều Thanh: Khang Hy, Ung Chính, Càn Long thì Trung Quốc là một cường quốc đứng đầu thế giới. Những vị đế vương này dùng cái gì để hướng dẫn đại chúng vậy? Dùng “Kinh Vô Lượng Thọ”. Những vị đế vương triều Thanh này rất tuyệt vời, họ dùng “Kinh Vô Lượng Thọ” để đoàn kết vua tôi trên dưới trong cả nước thành một khối thống nhất. Nếu như cái phương pháp này của họ được kéo dài mãi xuống, thì triều Thanh không bị mất nước. Đương nhiên có rất nhiều nguyên nhân của mất nước. Nhưng việc hủy bỏ kinh điển này, chúng tôi tin đây là một nhân tố rất lớn. Người nào hủy bỏ vậy? Từ Hy Thái Hậu. Có lẽ Từ Hy Thái Hậu nghe những gì trong “Kinh Vô Lượng Thọ” nói đều là lỗi lầm của bà, nghe xong thấy không vui, nên hủy bỏ nó, không đọc nữa! Điều này có ảnh hưởng, không thể nói không có ảnh hưởng. Thời gian thịnh nhất của triều Thanh là dùng Phật pháp trị quốc, trên dưới hòa thuận với nhau,đây là điều chúng ta phải hiểu rõ. Phật pháp vĩnh viễn là đang cầu tiến bộ. Nho Gia cũng là như vậy. Nho Gia dạy học nói: “Cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” (Một ngày một mới, càng ngày càng mới thêm, càng ngày càng mới thêm nữa.) Đâycũng là mỗi ngày đang cầu tiến bộ. Ở trong sáu ba-la-mật của Phật pháp có tinh tấn ba-la-mật, chứ đâu có rơi lại phía sau người ta được? Đâu có loại đạo lý này. Cho nên Nam Phương Thiên Vương là đại biểu cho tiến thủ, hăng hái, biểu thị cái ý nghĩa này. Trên tay ngài cầm là thanh kiếm. Kiếm đại biểu cho trí tuệ. Tục ngữ của chúng ta nói: “Đao bén chặt sắn bìm.” Là lấy cái ý nghĩa này.Không phải ngài thích múa kiếm, không phải vậy, biểu thị cho trí tuệ. Chỉ có trí tuệ cao độ mới có thể dẫn dắt tiến bộ, chỉ có trí tuệ cao độ mới có thể đem lại hạnh phúc mỹ mãn đích thực, đây là Nam Phương Thiên Vương. Tây phương Thiên Vương gọi là Quảng Mục. Danh xưng của tiếng Phạn cũng dịch là Tạp Ngữ. TâyPhương Thiên Vương rất giỏi về ăn nói, có thể nói đủ thứ ngôn ngữ khác nhau. Chúng ta ngày nay nói thiên tài về ngôn ngữ,Quảng Mục.Thiên Vương Phương Bắc gọi là đa văn. Hai vị Thiên Vương này là đại biểu cho điều gì? Đại biểu cho phương pháp. Hai vị Thiên Vương phía trước là đại biểu cho mục tiêu. Mục tiêu của chúng ta là phải bảo vệ quốc gia, là phải có trí tuệ cao độ, hằng ngày cầu tiến bộ. Tây Phương Thiên Vương [dạy] phương pháp làm thế nào có thể đạt được hai mục tiêu phía trước? Bạn phải xem nhiều, học tập nhiều. Hiện nay chúng ta gọi là tham quan khảo sát. Tham quan khảo sát, là Tây Phương Thiên Vương tiên phong, Ngài dẫn đầu. Ngài dạy chúng ta xem nhiều. Bắc Phương Thiên Vương dạy chúng ta nghe nhiều. Quan sát người khác nhiều, nghe người khác nhiều, từ trong đó rút ra bài học kinh nghiệm, bỏ cái dở của người, học cái hay của người để kiến tạo quốc gia của mình. Chẳng phải chúng tađãtrởthành đứng đầu sao? Hiện nay khoa học kỹ thuật, tôi nghe nói VCD ở Trung Quốc chúng ta rất phổ biến, ở nước ngoài vừa mới phát minh nên không phổ biến, nhưng Trung Quốc thì phổ biến rồi. Đạo lý là gì? Chính là ý nghĩa của Thiên Vương,chúng ta đi sau nhưng về trước. Chúng ta ngày nay học những thứ khoa học kỹ thuật này, nhất định học những thứ tiến bộ nhất, không nên học những thứ lỗi thời. Chúng ta ngày nay muốn sản xuất một chiếc máy bay, nhất định phải làm tốt nhất, đem những thứ sản phẩm của người khác về, khuyết điểm của nó chúng ta lại đem ra cải tiến,sản phẩm chúng ta làm ra còn tốt hơn họ. Nhất định không nên làm ra những chiếc máy bay nhỏ như vừa mới phát minh của hơn 100 năm trước.Bắt đầu làm từ đó,thế chẳng phải là kẻ ngốc sao? Đó là người ngu si. Cho nên nhất định là phải từ trên cơ sở đã thành tựu của người ta, sau đó sửa khuyết điểm của nó, cải tiến, sửa được khuyết điểm của họ thì chúng ta sẽ càng tiến bộ hơn, còn tiến bộ hơn họ. Vị này dạy bạn xem nhiều. Quảng mục là xem nhiều. Trên tay Thiên Vương cầm là rồng hoặc là rắn. Rồng và rắn biểu thị ý nghĩa gì vậy? Biểu thị biến hóa. Ngày nay khoa học kỹ thuật tiến bộ từng ngày. Rồng và rắn đều là loài giỏi biến đổi. Ý nghĩa là nói với bạn rằng xã hội này vô cùng phức tạp, biến hóa vô cùng,bạn phải quan sát tỉ mỉ. Ở trong biến hóabạn có thể nắm vững được bất biến thì bạn có thành tựu. Một tay cầm trái châu. Trái châu là bất biến. Rồng biết biến hóa, còn trái châu là bất biến.Ở trong vô lượng biến hóa, nắm vững được nguyên lý, nguyên tắc bất biến, đó là điều Tây Phương Thiên Vương dạy chúng ta. Có thể có thiên tài ngôn ngữ, thông thạo các loại ngôn ngữ thì có thể giao lưu văn hóa khoa học kỹ thuật với mỗi quốc gia, mỗi chủng tộc, vậy mới có thể làm được viên mãn. Bắc Phương Thiên Vương là nghe nhiều, Quảng mục thiên vương dạy cho chúng ta là hiện tiền đi tham quan khắp nơi, quan sát, học tập. Bắc Phương Thiên Vương là nghe nhiều, là theo chiều dọc. Chúng ta thường nói: “Đọc vạn cuốn sách, đi vạn dặm đường” Đi vạn dặm đường là theochiều ngang,đọc vạn cuốn sách là theo chiều dọc,chúng ta phải rút ra bài học lịch sử, phải tiếp nhận kinh nghiệm trí tuệ của cổ nhân. Dựa trên cơ sở nàychúng ta sau đó phát huy rạng rỡ thêm. Đây là điều mà Tứ Đại Thiên Vương dạy chúng ta. Chúng ta không được xem các ngài là thần linh thông thường, thế thì sai cả rồi! Tiếp nhận sự giáo huấn, chỉ dạy của Tứ Đại Thiên Vương. Trên tay Ngài cầm là lọng. Lọng đại biểu cho ý nghĩa gì? Phòng ngừa ô nhiễm. Vào thời xưa, ô nhiễm vẫn chưa có gì nghiêm trọng, không quá nghiêm trọng, nên lọng của Ngài được xếp lại. Hiện nay nếu ta đắp tượng Tứ Đại Thiên Vương, thì lọng của Đa Văn Thiên Vương ta nhất định phải mở ra. Hiện nay ô nhiễm quá nghiêm trọng rồi! Nó là phòng ngừa ô nhiễm. Phòng ngừa, ở trong xã hội phức tạp như thế này, họ biết ô nhiễm nhất định là không thể tránh khỏi, ô nhiễm về tư tưởng, ô nhiễm về kiến giải, tinh thần, tâm lý, sinh lý, quá sức trầm trọng. Mấy ngàn năm trước ở trong kinh Phật đã đề xướng việc bảo vệ môi trường. Hiện nay nói là bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường chính là phòng ngừa ô nhiễm. Quý vị thử nghĩ xem, nền giáo dục Phật pháp cao siêu biết bao, mấy ngàn năm trước Phật pháp đã biết vận dụng nghệ thuật để biểu đạt giáo nghĩa. Vô cùng đáng tiếc thời cận đại xem nó là tôn giáo, xem những nghĩa thú của pháp biểu trưng này là thần linh, chỉ biết thắp hương lễ bái, cầu nguyện van xin, chứ chẳng có tác dụng gì hết. Bạn cầu Phật Bồ-tát phù hộ, Phật Bồ-tát có thật sự phù hộ bạn không? Đâu có loại đạo lý này? Phật Bồ-tát phù hộ là chỉ dạy bạn, bạn hiểu rõ rồi, bạn tiếp nhận rồi, như thế mới thật sự được các Ngài phù hộ. Các Ngài phù hộ là dạy học, chứ không phải gì khác, chúng ta không được nghĩ sai về các Ngài! Đây là Tứ Đại Thiên Vương, ở chỗ này chỉ giới thiệu sơ lược với quý vị như vậy thôi. Chúng ta phải nhận biết được họ, hiểu được họ, chúng ta nghe thấy danh hiệu của họ, nhìn thấy hình ảnh của họ, mới thật sự được lợi ích. Cho nên chúng ta phải học một tiết học về điện Thiên Vương như vậy, để chúng ta hiểu rõ những đạo lý này, biết ở trong đời sống thường ngày mình cần phải làm như thế nào, để cho bản thân mình được hạnh phúc, gia đình được mỹ mãn, sự nghiệp được thành công, xã hội ổn định phồn vinh, quốc gia giàu mạnh, thiên hạ thái bình. Tứ Thiên Vương là dạy chúng ta những đạo lý này, dạy chúng ta phương pháp rất hay, nhất định không phải mê tín. Mời xem kinh văn dưới đây:

“Bạch Phật ngôn” (Bạch cùng Đức Phật rằng:)

  Trước tiên các Ngài kính chào, sau khi kính chào bèn báo cáo với đức Phật.

  “Thế Tôn! Địa Tạng Bồ-tát ư cửu viễn kiếp lai phát như thị đại nguyện, vân hà chí kim do độ vị tuyệt, cánh phát quảng đại thệ ngôn? Duy nguyện Thế Tôn vị ngã đẳng thuyết.”

  (Bạch đức Thế Tôn! Ngài Địa Tạng Bồ-tát từ kiếp lâu xa nhẫn lại đã phát nguyện rộng lớn như thế, tại sao ngày nay mà vẫn độ chưa hết, Ngài lại còn phải phát lời nguyện rộng lớn nữa? Cúi mong đức Thế Tôn dạy cho chúng con rõ.”

  Các Ngài nêura vấn đề, vấn đề nàytôi tin rằng nó cũng là vấn đề chung của mọi người chúng ta. Bồ-tát Địa Tạng quả thật là không thể nghĩ bàn. “Cửu viễn kiếp” (Từ kiếp lâu xa đến nay) là không có cách gì tính được, người nào cũng không thể tính ra được, chư Phật Như-lai cùng nhau tính cũng không thể tính ra được. Tại sao vậy? Bởi vì nó là đức năng vốn có trong tự tánh. Tự tánh vốn có thì vô thỉ vô chung, làm gì có thỉ chung? Vô thỉ vô chung mới đích thực là nghĩa chân thật của từ kiếp lâu xa đến nay. Phát nguyện lặp lại không gián đoạn, đây là dạy chúng ta. Tại sao vậy? Phật ở trongkinh nói rất hay. “Tánh thức của chúng sanh cõi Diêm Phù Đề vô định” là rất hay quên! Hôm nay phát rồi, sáng phát rồiđến tối liền quên mất, quên rất nhanh! Thậm chí là phát nguyện ngay trước mặt Phật Bồ-tát, sau khi cúi lạy ba lạy, bước ra khỏi cửa đại điện đã quên rồi. Đây chính là tánh thức vô định. Nhưng tham, sân, si, mạn thì không quên được. Tại sao không quên được? Phát mỗi ngày, phát mỗi giờ, cho nên họ không quên được, do rễ rất chắc. Bồ-tát Địa Tạng thị hiện cho chúng ta thấy, làm sao đem tham sân si chuyển đổi thành ba đức. Điều đó cũng cần phải tăng cường huân tập. Không ngừng phát nguyện chính là huân tập, phát nguyện mỗi ngày, sáng tối mỗi ngày đều phát nguyện, để hình thành thói quen, khởi tâm động niệm là nguyện lực, chứ không tạo tội nghiệp thêm nữa.Để đối trị căn bệnh này của chúng sanh cõi Diêm Phù Đề, thì đây là một toa thuốc vô cùng có hiệu quả, chúng ta phải hiểu cái ý nghĩa này, chúng ta phải học Bồ-tát Địa Tạng,hằng ngày phải phát nguyện. Mỗi ngày chúng ta phát cái nguyện đó, mỗi ngày phát chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, há chẳng phải vừa ra khỏi đại điện liền quên mất sao? Tại sao trở thành tình trạng này vậy? Do phát ngoài miệng chứ không có tâm. Huân tập phiền não quá lâu rồi! Đúng là vô lượng kiếp đến nay, chúng ta bị phiền nãohuân tập. Bây giờ chợt nghe Phật pháp, mặc dù đời quá khứ có túc căn, nhưng không đủ duyên, vẫn là duyên ác nhiều,sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, thảy đều là duyên ác,duyên ác gợi tham sân si mạn lên, không có duyên thiện để khơi gợi tứ hoằng thệ nguyện của bạn ra, cho nên ở trong đời sống cứ thuận theo phiền não, quên hết sạch sẽ phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Học kinh giáo thì lười biếng, làm nhác, không tinh tấn, cũng quên hết sạch sẽ chuyện pháp môn vô lượng thệ nguyện học rồi. Không học cách làm này của Bồ-tát Địa Tạng thì sao có thể thành tựu được? Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, mới biết tầm quan trọng của việc không ngừng phát nguyện và ý nghĩa đích thực của không ngừng phát nguyện. Tứ Thiên Vương đã có nghi ngờ, có thưa hỏi thì Phật nhất định khai thị cho họ. Mời xem kinh văn:

  “Phật cáo Tứ Thiên Vương: Thiện tai! Thiện tai.” (Đức Phật bảo bốn vị Thiên Vương rằng: “Hay thay! Hay thay!”) Phật tán thán hai lần. Phật thuyết pháp từng câu từng chữ đều hàm chứa ý nghĩa sâu xa. Chữ thiện tai thứ nhất, là khen ngợi họ hỏi rất hay, câu hỏi lợi lạc hữu tình. Chữ thiện tai thứ hai, họ là thần hộ pháp bảo vệ đời. Bất luận là người đời có học Phật hay không, bất kể người đời là người thiện hay ác, là làm thiện hay tạo ác, họ đều bảo vệ. Người ác tạo ác là do họ ngu muội không biết, nếu như không được những vị thần hộ pháp này bảo vệ, thì họ đọa lạc càng khổ hơn. Ác báo mà họ thọ không phải như tình trạng trước mắt này. Hay nói cách khác, thần hộ pháp đã giúp họ giảm bớt hình phạt rồi. Người thế gian hoàn toàn không biết, cũng không biết cảm ơn, mà còn quay trở lại nói họ mê tín. Nhưng thần hộ pháp không chê trách. Tại sao vậy? Bạn ngu si,bạn không hiểu chân tướng sự thật. Nếu bạn thật sự hiểu chân tướng sự thật thì bạn nhất định sẽ không nói như vậy,các Ngài biết. Nếu như [đối với] thần hộ pháp,những người ngu si này, phỉ báng Ngài, làm nhục Ngài, tổn thương Ngài, phá hoại hình ảnh của Ngài, làm hại Ngài, Ngài đều không trách. Nếu như các Ngài chê trách, thì các Ngài là phàm phu, kiến thức bình thường giống như hầu hết người phàm rồi. Các Ngàicó trí tuệ, đều là Bồ-tát thị hiện cả, thị hiện thân Thiên Vương, trong bản kinh nói rất nhiều, có rất nhiều Phật, Bồ-tát thị hiện thân quỷ thần, ở trong cõi quỷ, trong cõi địa ngục độ chúng sanh. Chúng sanh càng khổ não thì Phật, Bồ-tát đối với họ càng từ bi, càng phải giúp đỡ họ hơn, rất có tâm nhẫn nại đợi họ quay đầu, đợi họ giác ngộ. Khi họ chưa có quay đầu, chưa có giác ngộ thì tạo đủ thứ tăng thượng duyên cho họ, để dẫn dụ họ, để dẫn dắt họ. Bất kể là trực tiếp hay là gián tiếp, là rõ ràng hay là âm thầm, mới thấy được lòng từ bi đích thực, gọi là tâm đại từ bi. Cho nên ý nghĩa của hai lần khen ngợi này là rất sâu.

  “Ngô kim vị nhữ” (Nay ta vì các ông)

 Phật nói, hôm nayta vì các ông, nói vì các ông.

  “Cập vị lai hiện tại thiên nhân chúng đẳng quảng lợi ích cố” (Nay vì muốn được lợi ích cho chúng sanh, cùng chúng thiên nhơn ở hiện tại và vị lai.)

  Hôm nay các ông thưa hỏi, các ông đến hỏi, thì ta nói cho các ông biết, đồng thời cũng vì đại chúng thiên nhân hiện tại và vị lai. Đại chúng thiên nhân vị lai, hiện tại là hàm chứa tận hư không khắp pháp giới, chúng sanh lục đạo trong tất cả mọi cõi nước chư Phật đều bao gồm ở trong đó. Không chỉ là thế giới Ta Bà. “Quảng lợi ích cố” nghĩa là lợi ích rộng lớn, đây là không phải lợi ích nhỏ, là lợi ích lớn.

  “Thuyết Địa Tạng Bồ-tát ư Ta Bà thế giới Diêm Phù Đề nội sanh tử đạo trung, từ ai cứu bạt độ thoát nhất thiết tội khổ chúng sanh phương tiện chi sự” (Mà nói những sự phương tiện của Ngài Địa Tạng Bồ-tát ở trong đường sanh tử nơi Diêm Phù Đề ở Ta Bà thế giới này, vì lòng từ mẫn xót thương mà cứu vớt, độ thoát tất cả chúng sanh mắc phải tội khổ.)

  Các ông hỏi, thì ta nói cho các ông biết. Chứ nói, làm gì có thể nói hết được? Không thể nói hết. Chuyện Bồ-tát Địa Tạng độ chúng sanh không thể nói hết được. Phật nói cũng chỉ nêu ra mấy chuyện đơn giản để nói, hy vọng chúng ta từ trong những chuyện này tư duy thật kỹ, sau đó có thể thể hội được nguyện lực độ chúng sanh của Bồ-tát, phương tiện thiện xảo độ chúng sanh của Bồ-tát, thật sự không thể nghĩ bàn. Bạn nghĩ càng nhiều, càng rõ ràng, càng thấu triệt thì tâm cung kính của bạn đối với Bồ-tát càng tăng trưởng, tâm nguyện noi theo Bồ-tát càng chân thật. Bạn không hiểu, thì lòng tôn kính của bạn làm sao có thể sinh khởi được? Là không thể. Chỉ có thật sự nhận thức được Ngài, thật sự hiểu Ngài, thì cái tâm cung kính đó là được sinh ra từ trong nội tâm. Phàm phu không thể làm được!Phàm phu, nói lời thành thật,đứng trước một người ngay cả bề ngoài còn thấy không rõ ràng, họ làm sao có thể hiểu được? Phàm phu là mắt thường, mắt thường thì rất kém cỏi. Bồ-tát có thiên nhãn, thế thì cao siêu hơn chúng ta rất nhiều! Người có Thiên nhãn có thể nhìn thấy được khởi tâm động niệm. Chúng ta nhìn phàm phu khởi tâm động niệm, chúng ta không thể nhìn thấy. Giống như những vị có quyền lực thị hiện này, thì thù thắng hơn nữa. Các Ngài có đầy đủ ngũ nhãn, thập nhãn đều có đủ. Các Ngài có tuệ nhãn, có trí nhãn, thấy rõ ràng, thấy minh bạch. Cho nên tâm cung kính chân thành bèn tự nhiên nảy sinh. Chúng ta học Phật khế nhập cảnh giới này, người thế gian coi thường,cho rằng chẳng có gìlà lạ, tađừng nên so đo với họ, ai tôn trọng bạn vậy? Chư Phật Như-lai, Bồ-tát những vị thiện thần này, các Ngài cung kính bạn, các Ngài biết rõ. Bạn có thiện tâm thật sự thì cũng không cần đi tuyên dương khắp nơi rằng tâm của tôi chân [thật] như thế nào, thiện như thế nào, tốt như thế nào. Bạn nói thế nào người ta nghe thấy cũng đều là giả. Ai tin bạn? Ai biết bạn có chủ tâm gì? Phật Bồ-tát biết, thiên long quỷ thần biết. Người thế gian không biết, làm nhục bạn, phỉ báng bạn là bình thường, không có gì là lạ cả, vì họ là phàm phu. Trong kinh nói họ là người đáng thương! Sao bạn có thể đi so đo với họ? Bạn so đo với họ, thế thì bạn không có chút từ bi nào cả. Cho nên chúng ta hiểu được đạo lý này, hiểu rõ chân tướng sự thật, thì mình cần phải chăm chỉ, cố gắng thật thà tu học. Người thế gian khen ngợi bạn cũng tốt, phỉ báng bạn cũng tốt, đều là giả, đều không phải là thật. Họ khen ngợi bạn, họ không có nhìn thấy đức năng chân thật ở trong nội tâm bạn, nên lời khen ngời đó không đáng tin cậy. Họ phỉ báng bạn, họ cũng không có nhìn thấy sự tạo tác trong nội tâm bạn, nên lời phỉ báng đó cũng là giả. Chư Phật Như-lai khen ngợi đó là thật, lời khen ngợi đó không giả dối. Giống như Thế Tôn ở trong bản kinh khen ngợi Bồ-tát Địa Tạng đó là thật, không giả chút nào cả. Việc Ngài làm là lợi ích rộng lớn. Bồ-tát Địa Tạng ở trong cõi Diêm Phù Đề của thế giới Ta Bà, đặc biệt là chỉ khu vực này của chúng ta, lấy đây làm điển hình. Ngài ở khu vực này, “Sanh tử đạo trung”. Sanh tử đạo chính là lục đạo luân hồi. Ở trong lục đạo luân hồi của thế giới Ta Bà, tâm Ngài dùng là tâm gì? Việc Ngài làm là những việc gì?

  “Từ ai cứu bạt”. Từ là đại từ bi. Đây là nói tâm của Ngài. Từ trong tâm thanh tịnh, bình đẳng sanh khởi tâm đại từ bi. Đại từ bi này gọi là từ bi thanh tịnh, từ bi bình đẳng. Cứu bạt là sự nghiệp của Ngài. Ngài ở đây làm những việc gì vậy? Ngài đang làm sự nghiệp cứu tế. Chúng ta ngày nay nói là sự nghiệp từ thiện phúc lợi, Ngài làm việc này. Bạt là trừ bỏ tai nạn của tất cả chúng sanh, trừ bỏ đau khổ của tất cả chúng sanh. Tâm từ bi là động lực. Bồ-tát dấn thân vào công việc này không có thù lao. Người thế gian làm việc không vì danh thì cũng vì lợi. Không cần thù lao, không vì lợi, cũng không có người nào khen ngợi Ngài cả, cũng không có người nào khen thưởng Ngài, không cần danh. Phật khen ngợi Ngài tại cung trời Đao Lợi. Ngoài Phật ra có ai khen ngợi Ngài đâu? Tại sao không có ai khen ngợi vậy? Vì tâm của Ngài, hạnh của Ngài không có ai biết. Chư Phật Như-lai biết, chư Phật Như-lai tôn kính, khen ngợi. Khen ngợi sự phát tâm của Ngài, khen ngợi sự nghiệp của Ngài.

  “Độ thoát nhất thiết tội khổ chúng sanh phương tiện chi sự” (Những sự phương tiện của Bồ-tát Địa Tạng độ thoát tất cả chúng sanh mắc phải tội khổ.)

  Đây là nêu ra mấy ví dụ để nói. Ngài làm những việc cứu bạt chúng sanh như thế nào? Hai chữ “độ thoát” này, chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của nó. Nhà Phật thường nói độ chúng sanh. Người hiện nay rất mơ hồ về chữ “Độ” này. Sao gọi là độ? Dùng cách nói hiện nay để nói, là giúp đỡ tất cả chúng sanh, quan tâm chúng sanh, yêu thương bảo vệ chúng sanh, hết lòng hết sức giúp đỡ họ, xua tan khó khăn của họ. Tất cả chúng sanh chịu tội,chịu khổ này, đây là thọ báo. Quả báo từ đâu mà có vậy? Phải trừ bỏ nhân. Quý vị phải biết, trên quả thì vô phương rồi. Phải bắt tay làm từ trên nhân. Tội khổ đều là do nhân ác tạo thành. Nếu muốn thoát ra khỏi tội khổ, thì nhất định phải tu nhân thiện. Tâm hạnh thiện rồi thì ác đạo tự nhiên liền biến mất. Bồ-tát độ chúng sanh vẫn là dùng dạy học. Chúng sanh nghe xong giác ngộ, chịu tiếp nhận, chịu quay đầu, thì họ từ lục đạo bước ra rồi. Nếu họ nghe xong sinh nghi ngờ, không chịu tiếp nhận, cho rằng lời nói này không đáng tin cậy, chưa chắc là thật, thế thì vẫn cứ tiếp tục chịu khổ vậy! Đến ngày nào tiếp nhận rồi, đến ngày nào hiểu rõ rồi, họ mới có thể thật sự thoát khổ. Cho nên Bồ-tát Địa Tạng giống như Phật Đà vậy, là dấn thân vào công việc dạy học thiện nguyện cho xã hội.

Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến chỗ này.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *