Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 65

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 65 

Xin mời mở bản kinh ra, phần khoa chú quyển trung, trang 138. Mời xem kinh văn:

  “Hựu ư quá khứ hữu Phật xuất thế hiệu Ba Đầu Ma Thắng Như Lai. Nhược hữu nam tử nữ nhân, văn thị Phật danh lịch ư nhĩ căn, thị nhân đương đắc thiên phản sanh ư Lục Dục thiên trung, hà huống chí tâm xưng niệm.”

  (Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Ba Ðầu Ma Thắng Như Lai. Như có người nam người nữ nào, nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây thoát qua lỗ tai, người này sẽ được một nghìn lần sanh lên sáu từng trời cõi dục, huống nữa là chí tâm xưng niệm!)

  Đây là Bồ-tát Địa Tạng nói cho chúng ta biết đức hiệu của vị Phật thứ ba. Thời gian này còn lâu xa hơn so với vị thứ hai ở phía trước, danh hiệu của vị Phật là Ba Ðầu Ma Thắng Như Lai. “Ba Đầu Ma” là tiếng Phạn, nghĩa là hoa sen màu đỏ. Đức Phật nói trong kinh, thông thường nói bốn màu hoa sen. Trên thực tế màu sắc của hoa sen không chỉ có bốn màu, nhưng bốn màu đây có thể nói là bốn màu chính. Nếu như pha trộn bốn màu lại với nhau, thì có thể biến thành vô lượng vô biên màu sắc. Trong kinh nói trong tất cả màu sắc thì màu đỏ là đẹp nhất. Đương nhiên đây là nói từ trên thói quen của chúng sanh. Phật pháp là pháp bình đẳng, nhưng chúng sanh lại thích màu đỏ hơn. Đại khái thời Ấn Độ xưa cũng là như vậy, người Trung Quốc cũng thích màu đỏ. Nhưng người nước ngoài không nhất định là thích màu đỏ. Cho nên màu sắc rốt cuộc màu nào là đẹp nhất, điều này rất khó nói, nó hoàn toàn dựa theo sự ưa thích của chúng sanh. Đây là dựa theo Ấn Độ thời đó và hoàn cảnh Trung Quốc cũng là như vậy, đều ưa thích hoa sen màu đỏ. Giả sử nói có người nam người nữ, nghe thấy danh hiệu này, vừa qua căn tai liền có thể được quả báo thù thắng như vậy. Tu nhân được quả, chúng ta có thể tin không? Cho nên mấu chốt vẫn là ở chữ “Văn”, chú trọng ở chữ văn. “Văn thị Phật danh, lịch ư nhĩ căn.” (Nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây thoát qua lỗ tai.) Tám chữ này rất quan trọng. “Văn” không phải chúng ta nghe thấy người ta niệm Phật, chúng ta nghe thấy rồi. Thế thì làm sao có lợi ích thù thắng như vậy được? Thông thường văn danh này chỉ có thể nói: “Vừa qua căn tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo” công đức đó thật sự cũng vô cùng thù thắng. Nhưng muốn được một nghìn lần sanh lên sáu tầng trời cõi dục thọ phước báo thì đây là việc không thể. Chỉ là gieo hạt giống thành Phật ở trong a-lại-da thức mà thôi. Như lời trong “Kinh Pháp Hoa” nói: “Xưng niệm một câu Nam Mô Phật, đều đã thành Phật đạo” là mang ý nghĩa này. Nếu như chữ “văn” này là chữ văn trong Tam Tuệ, thì quả báo này hiện tiền ngay. Văn danh giải nghĩa, không phải không hiểu nghĩa. Hoa sen màu đỏ, họ có thể hiểu được cái nghĩa này. Hoa sen sinh ra trong bùn nhơ mà không nhiễm. Họ từ trong đây tỉnh ngộ trở lại, mình sống ở trong hồng trần, sống ở trong lục đạo, đặc biệt là cõi dục giới, mà có thể không nhiễm ngũ dục lục trần, thì công đức này là lớn rồi. Nếu như có thể buông xả được ngũ dục lục trần, vậy thị quả báo của họ không chỉ ở cõi trời Dục Giới, họ đã chứng quả rồi. Họ lạnh nhạt, xem nhẹ đối với ngũ dục lục trần thế gian, không còn phân biệt, chấp trước giống như trước đây, cho nên họ có thể từ cõi người siêu sanh đến cõi trời, đạo lý là ở chỗ này. “Lịch ư nhĩ căn” (Thoáng qua căn tai). Tức là nhớ ở trong tâm, nghe thấy danh hiệu này, thì trong tâm họ có chỗ lĩnh ngộ. Trong chú giải cũng chú giải rất hay, ở hàng thứ hai trang một trăm ba mươi chín, chúng ta đọc qua đoạn này một lượt: “Biểu văn danh giả, tuy sanh dục thiên.” (Biểu thị người văn danh, tuy sanh cõi trời dục giới) Tuy là sanh vào trời Dục Giới. “Thực bất trước thô tệ ngũ trần.” (Thực sự không chấp trước ngũ dục lục trần tầm thường). Họ đã không còn chấp trước đối với ngũ dục lục trần thô tục, họ có thể buông xả được. “Dĩ giải ly văn tánh bổn không, sanh thiên diệc tịch. Dĩ không xứ tức giả, quyền thị thiên thân dĩ độ thực sanh trước dục chi giả.” (Do hiểu rằng Tánh của lìa sự nghe vốn là không, nên sanh lên cõi trời cũng tịch tịnh. Do cõi trời Không Xứ cũng là giả, nên quyền biến thị hiện thân trời để độ kẻ thực sự sanh lòng tham chấp ngũ dục.) Vừa nghe liền khai ngộ. Khi khai ngộ thì họ thật sự có khả năng vượt thoát. Nhưng tâm từ bi của họ rất lớn, họ vẫn lưu lại ở cõi trời Dục Giới để độ những chúng sanh vẫn còn tham đắm hưởng thụ ngũ dục ở nơi đây. Cõi trời Dục Giới vẫn là còn ngũ dục lục trần, có điều nhạt hơn so với nhân gian thôi. Sáu tầng trời Dục Giới càng lên cao thì càng phai nhạt. Phần sau cùng của chú giải Ngài nói rất hay: “Phật liên thiên ban, biểu thiên pháp minh môn. Cố vân thiên phản.” (“Hoa sen Phật có ngàn cánh, biểu thị cho ngàn pháp minh môn, cho nên nói là nghìn lần sanh lên cõi trời Dục Giới.) Cho nên thiên phản cũng không phải thật sự là chỉ một nghìn lần, đừng cho là thật, mà đó là tượng trưng. Khi chỗ này là tượng trưng, thì chúng ta phải hiểu chỗ nào cũng là tượng trưng. Cho nên nghe pháp chú trọng ở chỗ ngộ nhập. Nếu như không ngộ nhập được, thì bạn không thể đạt được lợi ích này. Ngộ nhập thật sự có thể được lợi ích. Nên khi xưng niệm danh hiệu Phật, thì không thể không biết về ý nghĩa của danh hiệu Phật. Đặc biệt công đức của danh hiệu Phật A-Di-Đà là không thể nghĩ bàn. Tại sao là không thể nghĩ bàn? Không thể nghĩ bàn ở những chỗ nào? Bạn phải hiểu rõ, phải sáng tỏ, và có thể nói ra được. Sau đó bạn mới thật sự có cảm nhận, khế nhập cảnh giới này. Sau cùng nói: “Hà huống chí tâm xưng niệm” (Huống nữa là chí tâm xưng niệm) “Chí tâm xưng niệm” hồi hướng Tịnh Độ chắc chắn được vãng sanh, đây là điều chúng ta nhất định phải biết. Chí tâm là nhất tâm xưng niệm. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều không còn nữa, cho dù không dứt hết, nhưng nhất định cũng rất phai nhạt rồi, vào lúc này mới có thể chí tâm xưng niệm. Chí là chuyên chí. Xem tiếp đoạn dưới đây:

  “Hựu ư quá khứ bất khả thuyết, bất khả thuyết a-tăng-kỳ kiếp”

  (Lại bất khả thuyết bất khả thuyết vô số kiếp về thuở quá khứ)

  Chỗ này đã nói ra con số rồi. Con số này là rất lớn, rất lớn.

  “Hữu Phật xuất thế, hiệu Sư Tử Hống Như Lai. Nhược hữu nam tử nữ nhân văn thị Phật danh, nhất niệm quy y, thị nhân đắc ngộ vô lượng chư Phật, ma đảnh thọ ký.”

  (Có Ðức Phật ra đời hiệu là Sư Tử Hống Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, mà phát tâm quy y chừng trong một niệm, người này sẽ đặng gặp vô lượng các Ðức Phật xoa đảnh thọ ký cho.)

  “Sư Tử Hống” là dùng ví dụ để đặt tên. Dụ cho oai đức thuyết pháp của Phật. Phật thuyết pháp chu đáo mọi mặt, lý sự viên dung, có thể khiến cho hết thảy ma ngoại đạo có đủ thứ biện tài trong thế gian đều khuất phục trước lời thuyết pháp của Ngài, cho nên mới ví như là “Sư Tử Hống” (Tiếng gầm của sư tử). Đây là lấy tình trạng lúc Phật thuyết pháp để lập danh hiệu. “Nhất niệm quy y” (Phát tâm quy y chừng trong một niệm). Phía sau nói quả báo của họ. “Nam tử nữ nhân, văn thị Phật danh” (Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây) Nghe đến danh hiệu Phật liền nghĩ đến oai đức thuyết pháp của Phật, cho nên là nhất niệm quy y. Từ tất cả tà tri tà kiến quay đầu, nương vào chánh tri chánh kiến mà đức Phật đã dạy. Lời chỉ dạy của Phật là chánh tri chánh kiến, vậy là tương ưng, đây là đệ tử Phật chân chánh. Chúng ta biết nhà Phật thường nói: “Ở trong cửa Phật không bỏ một người nào”. Lời đức Phật nói tuyệt đối là không có hư dối. Chỉ cần tâm hạnh của bạn tương ưng sẽ được chư Phật Như-lai phù hộ, được chư Phật Như-lai gia trì. Đây là ý nghĩa của xoa đảnh thọ ký. Tâm của bạn tương ưng với tâm của Phật, hạnh của bạn tương ưng với hạnh của Phật, thì đâu có lý nào không được chư Phật Như-lai gia trì? Tại sao đức Phật phải gia trì cho bạn? Mục đích là rộng độ chúng sanh hữu tình. Bạn ngày nay giúp Phật rộng độ chúng sanh hữu tình, thì Phật đương nhiên sẽ gia trì cho bạn. Nếu như bạn khởi tâm động niệm chỉ nghĩ đến mình, thì dù Phật có muốn gia trì cũng không thể được. Đạo lý này chúng ta nhất định phải biết. Độ chúng sanh bắt đầu làm từ đâu? Bắt tay làm từ bộ “Kinh Địa Tạng” này là tốt nhất. Bộ “Kinh Địa Tạng” này thật sự là có thể độ chúng sanh trong chín nghìn năm thời mạt pháp. Mạt pháp là mười nghìn năm, mà đã qua hết một nghìn năm rồi, từ nay về sau còn chín nghìn năm, thật sự có thể độ được. Nội dung ở trong bộ kinh này là tin sâu và hiểu rõ nhân quả. Thật sự có thể y giáo phụng hành, thì nhất định sẽ được tất cả chư Phật xoa đảnh thọ ký cho. Xem tiếp vị Phật thứ năm dưới đây:

 “Hựu ư quá khứ hữu Phật xuất thế, hiệu Câu Lưu Tôn Phật. Nhược hữu nam tử nữ nhân, văn thị Phật danh chí tâm chiêm lễ, hoặc phục tán thán, thị nhân ư Hiền Kiếp thiên Phật hội trung, vi đại Phạm Vương đắc thọ thượng ký.”

  (Lại về thuở quá khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Câu Lưu Tôn Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của đức Phật đây, chí tâm chiêm ngưỡng lễ bái hoặc lại tán thán, người này nơi pháp hội của một nghìn Ðức Phật trong hiền kiếp làm vị đại Phạm Vương, đặng Phật thọ ký đạo vô thượng cho.)

  Vị “Câu Lưu Tôn Phật” này, có phải là vị Phật ở trong thời Hiền Kiếp hiện nay của chúng ta hay không? Trong Tiểu Chú có nói, đó không phải Hiền Kiếp mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với chúng ta. Trong chú giải nói: “Thử phi Hiền Kiếp đệ cửu, giảm chí lục vạn tuế thời xuất thế chi Phật.” (Đó không phải là đức Phật ra đời trong kiếp giảm đến sáu vạn tuổi thời Hiền Kiếp thứ chín.) Sau đó lại nói cho chúng ta biết: “Chuẩn Vạn Phật Danh kinh, hữu vô lượng Thất Phật chi danh” (Căn cứ theo kinh Vạn Phật Danh, có vô lượng cái tên là Thất Phật) Cách giải thích này rất hay. Có rất nhiều Phật Bồ-tát cùng tên cùng hiệu, và cũng có cùng tên Kiếp, cũng có cùng tên thế giới. Cho nên chắc chắn không phải là vị Câu Lưu Tôn Phật ở trong thời Hiền Kiếp này của chúng ta. Nếu như là vị Câu Lưu Tôn Phật trong thời Hiền Kiếp của chúng ta, thì cần phải đặt lên ở phía trước, Ngài cách chúng ta rất gần. Cách sắp xếp ở chỗ này của Ngài là càng nói càng xa. “Câu Lưu Tôn” là tiếng Phạn. Dịch thành ý nghĩa của tiếng Trung Quốc là “Sở Ưng Đoạn”, lại dịch thành là “Tác dụng trang nghiêm.” Nói thực ra cái tên thứ nhất rất hay. Cái gì bạn cần phải đoạn? Phiền não cần phải đoạn, sinh tử cần phải đoạn. Cho nên danh hiệu này của Ngài là được lập nên từ chỗ này. Chính là Phật pháp thường nói: “Đoạn đức”. Trong Phật pháp Đại Thừa thường nói: Kiến tư, trần sa, vô minh, là cần phải đoạn. Đoạn kiến tư thì chứng được A-la-hán Tiểu Thừa, thoát khỏi lục đạo, đoạn thêm trần sa, sau đó phá một phẩm vô minh, là ra khỏi thập pháp giới, vậy là thể nhập nhất chân pháp giới. Trong nhất chân pháp giới, vẫn còn bốn mươi mốt phẩm vô minh. Bốn mươi mốt phẩm vô minh này đoạn hết rồi, thì chứng được quả vị cứu cánh viên mãn. Ý nghĩa này trong tiếng Phạn xưng là Câu Lưu Tôn. Cho nên danh hiệu này, nghe thấy danh hiệu này, thì tự mình biết phải đoạn phiền não, phải nghiêm túc học tập. Phiền não đoạn ở đâu? Là ngay trong cảnh duyên, cũng chính là ở trong đời sống. Cảnh là hoàn cảnh vật chất. Duyên là hoàn cảnh nhân sự. Trong hoàn cảnh vật chất có cảnh thuận, có cảnh nghịch. Trong hoàn cảnh nhân sự có duyên thiện, có duyên ác. Ở trong duyên thiện, cảnh thuận mà không sinh tham ái, trong duyên ác, cảnh nghịch mà không sinh sân hận, vậy là bạn đoạn rồi, bạn đã đoạn phiền não rồi. Trong duyên thiện, cảnh thuận vẫn sinh tâm ưa thích, là bạn sinh phiền não rồi. Trong duyên ác, cảnh nghịch trong tâm không vui, sinh sân hận, thì phiền não của bạn lại khởi hiện hành rồi. Cho nên đoạn ở đâu vậy? Hãy đoạn khi tiếp xúc với tất cả người, sự, vật, trong đời sống thường ngày. Người thật sự biết đoạn phiền não, khi đối với tất cả người, sự, vật họ thường giữ tâm cảm ơn. Nếu không có những cảnh giới này hiện tiền thì phiền não của bạn làm sao có thể đoạn được? Hằng ngày ở trong hoàn cảnh này, trước tiên đoạn sân hận, tiếp đó đoạn tham ái. Sân hận vô cùng nghiêm trọng. Ở trong tất cả kinh luận đức Phật nói cho chúng ta biết: “Một niệm tâm sân hận nổi lên, thì trăm vạn cửa chướng ngại mở ra.” Trong tâm có một chút xíu không vui, thì toàn bộ công đức của bạn bị phá hủy hết, lửa sân hận đốt cháy rừng công đức, đây là điểm chúng ta không thể không biết, không thể không cảnh giác. Ai hủy hết công đức của bạn vậy? Là chính bạn hủy hết công đức của mình, tuyệt đối không nên oán trời trách người. Bất kỳ sức mạnh bên ngoài nào cũng không thể phá hủy được công đức của bạn. Duyên ác, cảnh nghịch bên ngoài hiện tiền bạn muốn tiếp nhận, thì vô phương? Tâm của bạn bị cảnh giới chuyển, là lỗi ở mình. Đức Phật dạy chúng ta tu hành là luyện công phu ở trong đây, luyện đến mức tâm không bị chuyển bởi ngoại cảnh, mình có thể làm chủ được ở trong cảnh giới, thì công đức của bạn đã thành tựu rồi, công đức của bạn được giữ vững rồi, cho nên nhẫn nhục ba-la-mật có thể thành tựu. Trong “Kinh Kim Cang Bát Nhã”, đức Phật đã dạy cho chúng ta rất tỉ mỉ. Bố thí ba-la-mật là bạn đang tích lũy công đức, phải dựa vào bố thí, trì giới, là bạn đang tích lũy công đức. Nhẫn nhục ba-la-mật có thể duy trì khiến cho công đức của bạn không bị hủy hoại, không bị mất công đức. Bạn không nhẫn được thì công đức bố thí, trì giới của bạn thảy đều bị phá hủy hết. Sau khi bị phá hủy hết bạn được cái gì? Bạn được phước đức, phước đức không có sao cả. Bạn nóng giận khủng khiếp đi nữa, tâm trạng tệ đi nữa, bạn có phước báo lớn, tương lai đi về đâu vậy? Trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói, tương lai sinh vào cõi A Tu La để hưởng phước. Cõi A Tu La tính tình rất nóng nảy, tâm đố kỵ, sân hận rất nặng, nhưng họ có phước. Cho nên A Tu La được  phước báo lớn như vậy, đều là nhờ tu ở trong cửa Phật mà có, chỉ là không thắng nổi sự cám dỗ của cảnh giới bên ngoài, thường sinh phiền não. Những chỗ này, chúng ta nhất định phải học Phật Bồ-tát. Ở trong tất cả cảnh duyên tu cái gì? Tu “như như bất động”, tu “bất thủ ư tướng”, bạn liền thành tựu ngay. Hai câu nói này trong “Kinh Kim Cang” là tổng cương lĩnh tu hành, là bí quyết tu hành từ sơ phát tâm mãi đến thành Phật của Bồ-tát Đại Thừa. Ngoài không dính tướng, trong không động tâm, là có thể hòa quang đồng trần, thành tựu đạo nghiệp của mình, cũng thành tựu việc độ hóa tất cả chúng sanh. Độ chúng sanh, trong kinh đã nói hơn mấy vạn lần. Đức Phật dạy chúng ta: “Thọ trì, đọc tụng, vì người diễn thuyết”, bạn thấy nói câu này bao nhiêu lần? Chỉ bộ “Kinh Kim Cang” hơn năm nghìn chữ rất mỏng như vậy thôi, mà đã nói câu này đến mười mấy lần. Số lần nói càng nhiều, chứng tỏ câu nói này là quan trọng nhất. “Thọ trì”, là chúng ta phải tiếp nhận lời giáo huấn của đức Phật, phải cố gắng làm cho được, đó gọi là thọ trì. “Đọc tụng” là mỗi ngày ôn tập kinh điển, mỗi ngày nghe Phật giáo huấn, đọc kinh một lần chính là đức Phật đã chỉ dạy chúng ta một lần, phải đọc mỗi ngày, mỗi ngày phải tiếp nhận lời giáo huấn của đức Phật. Nếu một ngày bạn không đọc, sẽ quên ngay. Nói lời thành thật mỗi ngày đọc tụng, mà chúng ta vẫn phạm lỗi lầm, vậy nếu không đọc thì có tưởng tượng nổi không? Tại sao mỗi ngày đọc tụng mà vẫn phạm lỗi lầm? Nguyên nhân ở trong đây, thứ nhất là không thắng nổi sự cám dỗ của cảnh giới bên ngoài, thứ hai là tập khí phiền não của mình quá nặng, không thể hàng phục được. Cho nên hằng ngày đọc tụng Đại Thừa mà vẫn tạo tội nghiệp. Vậy thì làm thế nào? Không sợ tạo tội nghiệp, hãy tăng công phu lên, nếu như không tăng công phu lên thì chắc chắn đọa lạc. Làm sao tăng thêm công phu? Nhất định phải có chánh tín, chánh giải, chánh hạnh. Những gì đức Phật dạy, chúng ta phải nỗ lực làm cho được, đây là chân tu, là làm thật! Bắt đầu làm từ đâu? Chúng ta đã nói ở phía trước rồi, đức Phật ở trong “Quán Kinh” dạy chúng ta bắt đầu làm từ tam phước. Mà bộ “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” này chính là nói rõ tường tận về Tam Phước. Tam Phước tổng cộng có mười một câu, đó chính là cương lĩnh, là cương lĩnh của “Kinh Địa Tạng”, nội dung mà toàn kinh nói đều không có lìa khỏi mười một câu này. Bạn muốn biết cách làm mười một câu đó như thế nào, thì bạn phải đọc thuộc “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện”. Trong bộ kinh này nói rất tường tận về nghiệp nhân quả báo, đặc biệt là nhân của ngũ nghịch thập ác, chúng ta tuyệt đối không được phạm. Nếu phạm thì chắc chắn bị đọa ác đạo. Ở trong ác đạo muốn ra khỏi là rất khó, rất khó, đây là điều nhất định phải biết. Học Phật không có gì khác, là khắc phục khó khăn của mình mà thôi. Nền giáo dục Nho Gia cũng nói về công phu này: “khắc kỷ phục lễ”. Khắc phục phiền não của mình, khắc phục tập khí của mình, bạn mới là người tu hành chân chánh. Nói lời thành thật tu hành chân chánh, không phải nói bạn mỗi ngày đọc bao nhiêu bộ kinh, mỗi ngày đọc mười lần “Kinh Vô Lượng Thọ” có lợi ích gì đâu? Vẫn tạo tội nghiệp. Không phải nói mỗi ngày bạn niệm bao nhiêu tiếng Phật hiệu. Người xưa nói, một ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu: “gào rát cổ họng cũng uổng công”. Tu hành chân chánh, công phu đắc lực là ở một niệm quay về, đem tâm luân hồi chuyển trở lại biến thành tâm Bồ đề, gọi là chân tu hành. Nghiệp chúng ta bình thường tạo là nghiệp luân hồi, chuyển trở lại biến thành nghiệp Bồ Tát. Hay nói cách khác, trước khi chúng ta chưa có học Phật, là sống đời sống lục đạo luân hồi. Sau khi học Phật rồi là sống đời sống của chư Phật Bồ Tát, vậy là đạo đúng rồi. Chư Phật Bồ Tát ở trong cảnh giới có ưa thích hay không? Chư Phật Bồ Tát có phiền não ở trong tấc cả cảnh giới hay không? Không có, nhất định không có. Nhưng chúng ta xem thấy ở trong kinh điển, hiện tướng mà chư Phật Bồ Tát thị hiện, các Ngài cũng có ưa thích, cũng có phiền não, đó là gì vậy? Đó là cách thức giáo hóa chúng sanh, chứ không phải thật. Đúng như lời ngài Vĩnh Gia nói: “Phân biệt cũng chẳng phải ý”. Các Ngài là biểu diễn, biểu diễn ở trên sân khấu, cho những người ở dưới sân khấu xem, chứ không phải là thật sự ưa thích, thật sự phiền não, không phải vậy. Đủ thứ biểu diễn là để giúp chúng sanh giác ngộ, ở trong tâm quả thật không nhiễm mảy bụi, thật sự ngoài không dính tướng, trong không động tâm. Niệm niệm thị hiện cái thân này ở thế gian này vì ai? Vì tất cả chúng sanh, tuyệt đối không phải vì mình, tuyệt đối không phải vì cái thân này của ta. Đây là tư tưởng của Bồ Tát, hành vi của Bồ Tát, là điểm chúng ta cần phải nên học tập. Cho nên chúng ta muốn học Phật, phải đoạn hết tất cả phiền não, đoạn hết tất cả tập khí, bạn phải làm từ chỗ này. Người thế gian không biết, Phật Bồ Tát dùng tâm vô cùng chân thành, tâm vô cùng thanh tịnh, từ bi đối xử chúng sanh, nhưng chúng sanh mê hoặc, chúng sanh không biết. Chúng sanh không những không tiếp nhận, còn chà đạp Phật Bồ Tát. Giống như trong kinh thường nói, phỉ báng Phật Bồ Tát, làm nhục Phật Bồ Tát, thậm chí là hãm hại Phật Bồ Tát. Phật Bồ Tát có khởi tâm động niệm hay không? Không có. Tại sao Phật Bồ Tát không khởi tâm động niệm? Phật Bồ Tát biết rất rõ ràng, minh bạch về quá khứ, hiện tại, vị lai của họ. Nghiệp chướng tập khí của chúng sanh này từ vô thủy kiếp đến nay bây giờ nổi lên, thì có cách gì bây giờ? Tuy từ bi dạy dỗ mà họ không giác ngộ. Đây là đức Phật trong kinh thường hay cảm thán: “Kẻ đáng thương xót”. Họ tạo tác nhân ác phỉ báng Phật, Pháp, Tăng này, thì chắc chắc đọa địa ngục A Tỳ, bạn nói có đáng thương hay không? Chúng ta muốn hỏi loại người này có được cứu vớt hay không? Vẫn được cứu vớt. Chỉ cần họ chưa dứt hơi thở, họ có thể quay đầu liền được cứu vớt. Họ không chịu quay đầu thì đành chịu thôi, cho nên phải biết quay đầu. Giống như lời trong “Kinh A Xà Thế Vương” nói, ông tạo là ngũ nghịch thập ác, nhưng lúc sắp mạng chung biết quay đầu, biết giác ngộ, chân thật sám hối, sám hối thật rồi, cho nên ông niệm Phật vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ phẩm vị cũng rất cao, thượng phẩm trung sanh. Tại sao ông không được thượng phẩm thượng sanh? Sám hối vẫn chưa đủ viên mãn. Cho nên tạo tác tội nghiệp cực nặng, lâm chung niệm Phật vãng sanh là thuộc về sám hối vãng sanh. Phẩm vị cao hay thấp hãy xem công đức sám hối của họ. Nếu như sám hối cứu cánh viên mãn, thì đương nhiên là thượng phẩm thượng sanh. Công phu sám hối của Vua A Xà Thế là tương đối rất tốt, thật sự là người tạo tội nghiệp thông thường không thể làm được. Nhưng mà chỉ cần có thể vãng sanh về Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sanh, thì đó cũng là thành tựu đích thực. Cho nên chúng ta cần khuyên tất cả chúng sanh tạo tác tội nặng phải biết quay đầu, sửa chữa lỗi lầm. Chúng ta nhìn thấy trong lịch sử có rất nhiều sự tích chư Phật Như Lai và chư đại Bồ Tát thị hiện như vậy. Trước đây ở Ấn Độ, Bồ Tát Thiên Thân là người phỉ báng Tam Bảo. Ban đầu Ngài học Tiểu Thừa. Ở trong Tiểu Thừa Ngài viết ra năm trăm bộ luận, người này là thông minh tuyệt đỉnh. Luận là chú giải cho tất cả kinh, phỉ báng Đại Thừa. Anh của Ngài là Bồ Tát Vô Trụ thì học Đại Thừa. Anh Ngài có phương tiện thiện xảo dẫn dụ Ngài khế nhập Đại Thừa. Sau khi Ngài tu học Đại Thừa, mới biết mình đã phạm tội nghiệp rất nặng, bèn cầu sám hối. Bởi vì dùng lời nói phỉ báng, cho nên Ngài muốn cắt lưỡi của mình ở trước mặt Phật để sám hối. Tay viết văn chương, nên muốn chặt tay để sám hối. Anh của Ngài nói không cần thiết, trước đây em dùng lưỡi của mình phỉ báng Đại Thừa, tại sao nay em không dùng nó để khen ngợi Đại Thừa? Tay viết văn chương phỉ báng Đại Thừa, tại sao bây giờ không dùng tay để viết văn khen ngợi Đại Thừa? Ngài giác ngộ trở lại từ chỗ này. Cho nên lại vì Đại Thừa viết ra năm trăm bộ luận. Trong lịch sử gọi là “Thiên Bộ Luận Sư”. Có thể thấy ở trong cửa Phật thật sự là quay đầu là bờ. Điển hình này hầu như đời nào cũng có. Chúng ta thấy gần đây Ấn Quang Đại Sư, quý vị hãy tìm cuốn “Ấn Quang Đại Sư Hạnh Nghiệp Ký”, tức là truyện ký về Ấn Quang Đại Sư, ở trong “Toàn Tập” có. Trên tay mỗi người các bạn đều có một bộ “Toàn Tập”. Bạn xem truyện ký Ấn Quang Đại Sư sẽ thấy lúc ông cụ còn trẻ thường phỉ báng Tam Bảo. Ngài chủ yếu là đọc sách của Khổng Tử. Cho rằng Nho Gia là chính thống, Phật pháp là bàng môn. Về sau này sau khi tiếp xúc Phật pháp, mới biết mình tạo tác tội nghiệp, trước đây sai rồi. Ngài có thể sám hối, có thể quay đầu, và xuất gia tu hành hoằng dương Phật pháp, để rửa sạch những tội nghiệp phỉ báng Tam Bảo mà lúc trẻ đã tạo. Sau này chúng ta biết, Ngài là Bồ Tát Đại Thế Chí tái lai. Hay nói cách khác, những gì mà cả đời Ngài làm là diễn kịch, diễn cho chúng ta xem, chứ đó không phải thật, là diễn cho chúng ta thấy. Biết chúng ta đời này là rất dễ phạm chuyện phỉ báng Tam Bảo, người phạm rất nhiều. Đích thân ông cụ làm nên tấm gương cho chúng ta thấy. Phạm những tội nặng này vẫn có thể được cứu vớt như thường, chúng ta xem thấy ở trong truyện sử quá nhiều quá nhiều rồi. Quan trọng là quay đầu, quan trọng là đoạn phiền não, đoạn tập khí, phải xem trọng việc này, phải xem việc này là việc lớn đứng đầu cần phải làm ở trong đời sống thường ngày chúng ta, thì việc tu học trong đời này của chúng ta mới có thành tựu để nói, và chúng ta giúp tất cả chúng sanh tu học Phật pháp mới có công đức để nói. Nếu không thì bạn giúp tất cả chúng sanh tu học Phật pháp đều là phước đức. Phước đức khác với công đức. Ở trong “Lục Tổ Đàn Kinh” nói rất hay, muốn rõ dứt sinh tử, ra khỏi tam giới, phước đức không thể cứu được. Phước đức lớn đi nữa, cũng chẳng qua là sinh về cõi trời để hưởng phước mà thôi, không thể ra khỏi tam giới, nhưng công đức có thể ra khỏi tam giới. Công đức, phước đức chúng ta cần phải biện biệt rõ ràng. Dùng tâm thanh tịnh tu tất cả pháp thiện, đoạn dứt tất cả pháp ác là công đức, dùng tâm tạp nhiễm đoạn ác tu thiện là phước đức, mấu chốt là ở chỗ này. Người này nghe danh bèn: “chí tâm chiêm lễ” đây chính là thọ trì rồi. Nếu không thọ trì thì không thể gọi là chí tâm chiêm ngưỡng đảnh lễ được. Chiêm ngưỡng đảnh lễ thì có, nhưng không có chí tâm. Đây là chân tâm, tâm chân thành chiêm lễ. “Hoặc phục tán thán” (Hoặc lại khen ngợi). “Tán thán” là lợi tha, tự hành hóa tha. “Thị nhân ư Hiền Kiếp thiên Phật hội trung vi Đại Phạm vương” (Người này nơi pháp hội của một nghìn Ðức Phật trong Hiền kiếp làm vị đại Phạm Vương) Phước báo làm “Đại Phạm Thiên Vương” này là lớn rồi. Tại sao vậy? Họ có thể đoạn ác tu thiện, đương nhiên là cùng đạo lý với đoạn phía trước nói. Nói trên thực tế thì người này là Bồ Tát chân chánh. Bồ Tát với phàm phu chỉ trong một niệm: Một niệm chuyển trở lại được là Bồ Tát, không thể chuyển trở lại được là phàm phu. Phật Bồ Tát khác với phàm phu chỉ là ở chỗ quan niệm. Một niệm chuyển trở lại rồi thì họ là Bồ Tát. Tại sao Bồ Tát lại đi làm Đại Phạm Thiên Vương? Dùng thân phận Đại Phạm Thiên Vương để giúp những thiên nhân này đoạn phiền não. Tập khí phiền não của thiên nhân chưa có đoạn hết, nên không thể ra khỏi Tam Giới. Các Ngài đoạn được, lại hiện thân thuyết pháp để đoạn cho người khác. Cho nên “Đắc thọ thượng ký” (Đặng Phật thọ ký đạo vô thượng cho) “Thượng ký” là thọ ký thành Phật. Ở trong chú giải của pháp sư Thanh Liên có trích dẫn kinh điển, trong đó có rất nhiều câu chuyện công án có thể xem, đáng để tham khảo.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *