Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 25

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 25 

Xin mời mở bản kinh ra. Phần khoa chú trang 160 đếm ngược đến hàng thứ ba. Xem kinh văn:

  “Phật cáo Tứ Thiên Vương: Thiện tai! Thiện tai! Ngô kim vị nhữ cập vị lai hiện tại thiên nhân chúng đẳng quảng lợi ích cố. Thuyết Địa Tạng Bồ-tát ư Sa Bà thế giới Diêm Phù Đề nội sanh tử đạo trung, từ ai cứu bạt độ thoát nhất thiết tội khổ chúng sanh phương tiện chi sự.”

  (Đức Phật bảo bốn vị Thiên Vương rằng: “Hay thay! Hay thay! Nay vì muốn được sự lợi cho chúng sanh. Ta vì các ông cùng chúng thiên nhơn ở hiện tại và vị lai, mà nói những sự phương tiện của Ngài Địa Tạng Bồ-tát ở trong đường sanh tử nơi Diêm Phù Đề ở Ta Bà thế giới này, vì lòng từ mẫn xót thương mà cứu vớt, độ thoatsa tất cả chúng sanh mắc phải tội khổ.”)

  Bồ-tát tiếp nhận lời dặn dò của đức Phật, tiếp nhận lời ủy thác của đức Phật, đặc biệt là chúng sanh ương nghạnh khó giáo hóa thời mạt pháp. Ngài dùng tâm từ bi vô tận, vô lượng trí tuệ và phương tiện hóa thân ở thế gian này. Ở trong xã hội Ngài hóa thân thành già trẻ nam nữ, các ngành các nghề đều có. Nếu không phải là người sáng mắt thì không thể nhìn thấy được. Người sáng mắt biết rõ, thấy rất rõ ràng minh bạch, Ngài dùng vô tận phương tiện làm ở trong đó. Không nhất định là thị hiện thành thân phận xuất gia. Mọi người hiện nay không hiểu về Phật pháp, đều cho rằng Phật pháp là mê tín. Có sự chướng ngại nghiêm trọng, nếu thị hiện người xuất gia giáo hóa chúng sanh, có thể sẽ có rất nhiều chỗ bất tiện, nên Bồ-tát thị hiện thân phận tại gia rất nhiều rất nhiều, đều là khuyên người hướng thiện, sửa chữa lỗi lầm. Hôm qua có đồng tu từ Đài Loan mang đến một số băng ghi hình, có cậu bé đọc kinh, tôi nghe xong mấy đoạn, cảm thấy rất xúc động. Đạo lý mà cổ thánh tiên hiền nói không phải là học thuyết của cá nhân họ. Ví dụ Khổng Tử, những gì mà Khổng Tử nói là học thuyết của Ngài sao? Những gì mà Lão Tử nói là học thuyết của Ngài sao? Những gì mà Phật Thích Ca Mâu Ni nói là học thuyết của Ngài sao? Không phải. Đó là gì vậy? Là học thuyết xứng tánh, là bản tánh của tất cả chúng sanh, chân tâm của tất cả chúng sanh, là trí tuệ đức năng của pháp vốn đầy đủ nơi tất cả chúng sanh, các Ngài nói là những điều này. Nếu như bạn nói là của một người nào đó, thế thì bạn nhìn sai rồi! Là trí tuệ đức năng vốn có ở trong tâm tánh của chính chúng ta, thuần thiện không có xen tạp. Nếu như có thể phát huy ra được, thì có thể thật sự đạt đến thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Những đạo lý này chẳng có liên quan đến một cá nhân nào cả. Các Ngài tâm địa thanh tịnh, từ bi, bác ái, các Ngài thấy đạo rồi. Phật pháp chúng ta nói là minh tâm kiến tánh, các Ngài thấy đạo rồi, chứng đạo rồi. Còn chúng ta là mê hoặc điên đảo chưa có thấy đạo, chưa có chứng đạo. Nếu chúng ta chứng đạo rồi thì không có khác gì so với các Ngài. Phải làm sao mới có thể chứng được vậy? Phải phá chấp ngã, phải phá chấp pháp. Cách phá như thế nào? Niệm niệm vì chúng sanh, đừng nên nghĩ cho mình. Niệm niệm vì Phật pháp, là sự nghiệp của chúng ta, sự nghiệp của chúng ta chính là Phật pháp. Phật pháp là gì? Phật là giác ngộ. Pháp là phương pháp. Phương pháp khiến cho tất cả chúng sanh giác ngộ, bèn gọi là Phật pháp. Giúp tất cả chúng sanh phương pháp giác ngộ, bạn chính là hoằng dương Phật pháp. Chúng ta ngày nay ở thế gian này, là làm cái ngành nghề này. Ngành nghề này nếu dùng cách nói hiện nay để nói, chính là người làm công tác giáo dục xã hội, nói vậy mọi người dễ hiểu. Phật Thích Ca Mâu Ni năm xưa còn tại thế, Ngài làm công việc gì vậy? Giáo dục xã hội, hơn nữa là làm thiện nguyện, không nhận lấy một xu nào của người tiếp nhận giáo dục, hoàn toàn là nghĩa vụ, là người làm công tác thiện nguyện giáo dục xã hội. Chúng ta là học trò của Phật, phải tiếp nối huệ mạng của đức Phật. Phật đã làm cả đời, chúng ta là đệ tử học Phật nhiều đời nhiều kiếp sau, hãy tiếp tục không ngừng chăm chỉ nỗ lực mà làm, nhất định phải làm tốt việc giáo dục xã hội này. Đối tượng của giáo dục xã hội là tất cả chúng sanh, không phân biệt già trẻ nam nữ, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, cũng không phân biệt cõi trời hay nhân gian, chúng sanh trong chín pháp giới thảy đều đối xử bình đẳng. Chúng ta phải học làm thầy, làm phạm. Thầy là chuẩn mực của đại chúng xã hội. Phạm là mô phạm. Chúng ta không làm được, bạn phải sinh tâm hổ thẹn. Chủ tâm của chúng ta, tâm của chúng ta có thể làm gương cho đại chúng xã hội hay không? Ngôn hạnh của chúng ta có thể làm gương cho đại chúng xã hội không? Phải thường xuyên nghĩ như vậy. Phàm việc gì không thể làm gương tốt cho đại chúng xã hội thì nhất định không được làm, ý nghĩ nào không thể làm gương tốt cho đại chúng xã hội thì không được nghĩ. Như vậy mới được chư Phật Bồ-tát hộ niệm, chư Phật Bồ-tát gia trì, long thiên thiện thần ủng hộ. Chúng ta đang thúc đẩy giáo dục xã hội này. Singapore có thể làm được chút thành tích này, là do cư sĩ Lý Mộc Nguyên và các vị đồng tu nơi đây, những vị cán bộ cấp dưới của ông và tứ chúng đồng tu chúng ta không có tư lợi. Tại sao nơi khác không thể xây dựng thành công? Phật không có tâm phân biệt, không có yêu thích. Thiện Đạo đại sư nói rất hay: “Đều do gặp duyên khác nhau”. Đại chúng ở nơi này, một lòng một dạ quên mình vì người, hằng ngày luôn nghĩ vì Phật pháp, vì chúng sanh, không phải vì mình, nên được sự cảm ứng vô cùng thù thắng. Sự cảm ứng này chúng ta ở nơi đây đều cảm nhận được rất rõ ràng, cảm ứng rõ ràng không thể nghĩ bàn. Chúng ta ở nơi đây làm hình mẫu tốt, người xuất gia là nên tấm gương tốt của người xuất gia, đạo tràng làm nên hình ảnh tốt của đạo tràng, hy vọng mọi người đến nơi đây tham học chỉ đạo, sau đó đem mô hình này xây dựng các nơi trên toàn thế giới, hy vọng họ xây dựng tốt đẹp hơn so với nơi đây. Ngạn ngữ thường nói: “Hậu sinh khả úy” câu này rất có đạo lý. Tại sao là hậu sinh khả úy? Xây dựng sau nhất định tốt đẹp hơn cái trước, cái trước có rất nhiều khuyết điểm, thiếu sót, họ đều cải tiến hết. Cho nên cái càng làm về sau thì càng thù thắng, càng tốt đẹp hơn, như vậy mới có thể phổ độ chúng sanh, mới có thể hóa giải kiếp nạn của thế giới. Chúng ta không hy vọng mọi người đến nơi đây để tham học rồi không muốn đi, ở lại nơi này, điều này không tốt. Nhìn thấy mô hình này rồi thì hãy trở về các nơi, trở về nơi của mình để làm. Khắp nơi xây dựng đạo tràng chánh pháp, thì thế giới này mới được cứu vãn, các bạn thật sự học được thứ cần học, thật sự hiểu được ý của Phật, nguyện giả Như-lai chân thật nghĩa. Giới thiệu qua Tứ Thiên Vương với quý vị. Thế Tôn nói với Tứ Thiên Vương. Chữ “cáo” là người trên đối với người dưới. Những cách dùng từ này chúng ta cũng phải biết. “Thiện tại! Thiện tai!” Hai chữ thiện tai có hai ý nghĩa. Một chữ là khen ngợi họ hỏi rất hay, hỏi vì lợi lạc hữu tình. Những vị Thiên Vương, Thiên Thần này, quý vị nên biết rất nhiều vị là do Phật Bồ-tát hóa thân, họ không phải là quỷ thần. Nếu như thật sự là phàm phu thì không thể hỏi được như vậy. Bình thường có rất nhiều vấn đề, nhưng nhìn thấy Phật thì không nói được một câu nào, không biết hỏi gì. Có thể hỏi được như vậy đều là Phật Bồ-tát hóa thân thị hiện, đều không phải người bình thường. Chữ thiện tai thứ hai là khen ngợi họ, họ là khéo bảo vệ thế gian. Bảo vệ thế gian, quan trọng là phải khéo bảo vệ. Chữ này hiếm có. Họ có phương tiện thiện xảo. Bảo vệ người thế gian khiến người thế gian giác ngộ, khiến người thế gian đoạn ác hướng thiện, vậy mới gọi là khéo bảo vệ. Phật thuyết pháp ở nơi đây, chúng ta xem lời trong kinh văn nói là giống với ý nghĩa của tài liệu tôi giảng.

  “Ngã kim vị nhữ, cập vị lai hiện tại thiên nhân đẳng chúng.” (Nay Ta vì các ông cùng chúng thiên nhơn ở hiện tại và vị lai.)

  Thiên nhân đẳng chúng chính là chúng sanh lục đạo. Chỉ nói đến thiên và nhân, còn những cõi khác tỉnh lược bớt rồi. “Đẳng” chính là lục đạo. Đặc biệt thương xót chúng sanh lục đạo. Bạn thử nghĩ xem Ngài ở trong pháp hội tại cung trời Đao Lợi này, ý của Phật rất rõ ràng, không chỉ là đại chúng tham dự pháp hội lúc đó tại cung trời Đao Lợi. Pháp môn này sẽ được lưu truyền lại, những thính chúng không hiện diện tại đó không biết bao nhiêu mà kể? Là giống như chúng tôi hiện nay đứng trước máy ghi hình vậy. Được truyền hình qua vệ tinh và mạng internet truyền đi khắp toàn thế giới. Người hiện nay nghe chúng tôi giảng kinh, tương lai chúng tôi vãng sanh không còn ở đời nữa, thì băng đĩa này vẫn còn lưu giữ lại. Người sau này vẫn có thể nghe được. Tôi nghe nói hiện nay trình độ chế tạo ra những băng đĩa này rất cao, có thể bảo tồn được vài trăm năm. Chúng tôi không có tuổi thọ dài như vậy, hai trăm năm sau những người đó vẫn có thể nghe được băng đĩa của chúng tôi, vẫn có thể nhìn thấy hình ảnh này. Cho nên chúng ta ở nơi đây giảng kinh thuyết pháp, đời sống của chúng ta, nhất cử nhất động, từng lời nói hành động, chí ít phải chịu trách nhiệm đối với thính chúng của hai trăm năm sau. Ở đây ở trong câu nói này của Thế Tôn là hàm chứa nhiều ý nghĩa ở trong đó.

  “Quảng lợi ích cố” (Vì lợi ích rộng lớn)

  Lợi ích rộng lớn khi nói pháp môn Địa Tạng, tuyên dương pháp môn Địa Tạng. Chỉ có pháp môn Địa Tạng mới có thể độ chúng sanh trong chín ngàn năm thời mạt pháp. Đạo lý của Nho Gia rất hay, đạo lý của Đạo Gia cũng hay, đạo lý của Phật pháp Đại Thừa cũng hay, nhưng hiện nay không có ai chịu nghe cả, không có ai chịu tiếp nhận. Người nào đọc kinh được một lần coi như là khá lắm rồi! Có thể làm theo kinh thì không có! Pháp môn Địa Tạng là dạy pháp môn căn bản. Cho nên những năm trước, tôi có diễn giảng lưu động tại mấy thành phố lớn bờ Đông nước Mỹ, giảng đại ý của “Kinh Địa Tạng”. Bởi vì thời gian ngắn, mỗi nơi chỉ có bảy ngày, không có cách gì giảng kinh được, chỉ giảng đại ý. Có một số đồng tu bèn hỏi tôi: “Pháp sư! Chẳng phải thầy là chuyên môn hoằng dương Tịnh Độ, sao nay Thầy giảng “Kinh Địa Tạng”? Có phải lại xen tạp những thứ khác rồi không? Họ hỏi rất hay. Tôi cũng bảo: Thiện tai! Thiện tai! Hỏi rất hay. Tôi trả lời, tôi vẫn là giảng Tịnh Độ, vẫn là chuyên tu chuyên hoằng. Họ hỏi “Kinh Địa Tạng” là gì? Tôi nói “Kinh Địa Tạng” là một câu nói trong Tịnh Độ Tông. Câu nói nào vậy? Là “Kinh Phật Quán Vô Lượng Thọ” nói về Tam Phước. Câu này mọi người biết, là cơ sở tu hành của Tịnh Tông chúng ta. Pháp hành chúng ta là đề xướng: Tam phước, lục hòa, tam học, lục độ, mười nguyện Phổ Hiền, cái này mọi người đều biết. Bộ “Kinh Địa Tạng” này, chính là phước đầu tiên của Tam Phước: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ, tâm từ không giết hại, tu mười nghiệp thiện.” Các bạn thử nghĩ xem, bộ “Kinh Địa Tạng” này có phải nói điều này không? Tôi vẫn là giảng Tịnh Độ, không có lìa khỏi, vẫn là chuyên tu chuyên hoằng. Mọi người mới hiểu ra! Bộ kinh này là nói tỉ mỉ bốn câu nói này. Từ chỗ này quý vị cũng có thể thể hội được nghĩa thú trong “Kinh Hoa Nghiêm”. “Hoa Nghiêm” nói: Một tức tất cả, tất cả tức một. Xin thưa quý vị bất kỳ một bộ kinh nào cũng hàm nhiếp tất cả kinh khác. Tất cả kinh cũng có thể cho vào một bộ kinh được. Không những có thể cho vào một bộ kinh, xin thưa quý vị, có thể cho vào ý của một câu. Ví dụ chỗ này, Phật nói với Tứ Thiên Vương: “Thiện tai! Thiện tai!”. Tất cả kinh trong 49 năm của Phật, cũng có thể cho vào chữ “Thiện tai”. Thiện tai là hàm nhiếp tất cả kinh, là hàm nhiếp tất cả nền tảng. Hai câu nói: “Thiện tai! Thiện tai!” cũng có thể cho vào tất cả kinh. Tất cả kinh cũng có thể cho vào hai chữ này. Pháp là viên dung. Tại sao vậy? Xứng tánh. Bạn có thể thể hội được tánh đức thì một nhiều không hai, lý sự viên dung. Làm gì có ngăn ngại? Bên dưới, đây là nêu ra mấy cái ví dụ.

 “Tứ Đại Thiên Vương ngôn: Duy nhiên Thế Tôn nguyện nhạo dục văn.” (Bốn ông Thiên Vương bạch rằng: “Vâng! Bạch đức Thế Tôn! Chúng con xin muốn được nghe.”)

  Thế Tôn kể chuyện khen ngợi họ. Họ đáp: “Duy nhiên”. Duy nhiên là lời đáp vô cùng cung kính. Loại thái độ thưa thỉnh đảm nhận này đều là điểm chúng ta cần phải học tập.

 “Nguyện nhạo dục văn” (Chúng con xin muốn được nghe) mới có thể được thọ dụng. Nguyện là thật tâm tình nguyện, vui vẻ tiếp nhận. Tiếp nhận phải y giáo phụng hành, nếu không thể làm được thì bốn chữ nguyện, nhạo, dục, văn này là rỗng không rồi. Nhất định phải làm được. Mời xem kinh văn dưới đây:

  “Phật cáo Tứ Thiên Vương: “Địa Tạng Bồ-tát cửu viễn kiếp lai ngật chí ư kim độ thoát chúng sanh do vị tất nguyện. Từ mẫn thử thế tội khổ chúng sanh phục quán vị lai vô lượng kiếp trung nhân mạn bất đoạn. Dĩ thị chi cố hựu phát trọng nguyện.”

  (Đức Phật bảo bốn ông Thiên Vương rằng: “Từ kiếp lâu xa đến nay, Ngài Địa Tạng Bồ-tát độ thoát chúng sanh vẫn còn chưa mãn nguyện, Ngài thương xót chúng sanh mắc tội khổ đời này, lại quan sát vô lượng kiếp về sau tội khổ cứ lây dây mãi không dứt. Vì lẽ đó nên Ngài phát ra lời trọng nguyện.)

  Trên thực tế Bồ-tát Địa Tạng, ở chỗ này hiện thân thuyết pháp dạy chúng ta. Dạy chúng ta điều gì vậy? Dạy chúng ta phải không ngừng phát nguyện. Cho nên ở trong thời khóa sáng tối của chúng ta đều có phát nguyện. “Vãng Sanh Luận” của Bồ-tát Thiên Thân, trong pháp môn Ngũ Niệm có phát nguyện, phải thường xuyên phát nguyện. Tại sao vậy? Ba ngày không phát nguyện thì quên hết sạch sẽ. Phàm phu tập khí nghiệp chướng quá nặng, bên trong có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bên ngoài có ngũ dục lục trần cám dỗ. Chúng ta sống ở trong môi trường này, nếu hằng ngày không đọc kinh, hằng ngày không phát nguyện thì bạn không thể giữ được, bạn nhất định bị làn sóng này thôn tính. Hay nói cách khác, bạn nhất định vẫn cứ tạo sanh tử luân hồi, bạn nhất định đọa ba ác đạo như cũ. Chúng ta cần phải từng giây từng phút cảnh giác. Ở trong dòng nước lũ, thác lũ này bàn chân chúng ta phải đứng vững, hơi có một chút khinh suất liền bị cuốn trôi mất. Làm sao bàn chân có thể đứng vững được? Đây chính là pháp môn Địa Tạng. Cho nên tôi trước đây, khi mỗi đạo tràng mới được xây dựng, thì nhất định bộ kinh giảng đầu tiên là “Kinh Địa Tạng”. Chúng ta có đất rồi. Đạo tràng này thành lập, không có giảng bộ kinh này, nhân duyên lần này quá tốt rồi, rất hiếm có, nhờ y chỉ của lão hòa thượng Nhân Đức, Thầy là đại biểu cho Bồ-tát Địa Tạng ngày nay của chúng ta, là đấng cứu thế của chúng sanh thời Mạt Pháp, là chúa cứu thế. Chúng ta đi theo lão hòa thượng, chúng ta cần đem pháp môn này phát huy rạng rỡ. Nên đạo tràng này khi mới xây dựng, cũng có thể giảng bộ “Kinh Địa Tạng” ở nơi này, là phù hợp với bổn nguyện của chúng tôi, vô cùng hiếm có. Bộ băng ghi hình này sẽ lưu thông rất rộng, giúp cho những đạo tràng mới xây dựng, vì chúng tôi không có cách gì phân thân, không thể đến đó giảng kinh được. Nhưng bộ băng ghi hình này sẽ có tác dụng. Chúng ta phải thể hội được, Bồ-tát từ kiếp lâu xa mãi cho đến ngày nay, tại sao độ thoát những chúng sanh này mà đại nguyện của Ngài vẫn chưa viên mãn? Đúng như lời trong kinh nói: “Diêm Phù Đề chúng sanh cang cường nan hóa” (Chúng sanh cõi Diêm Phù Đề ương ngạnh khó giáo hóa.) Tình trạng của mỗi đường trong lục đạo đều giống nhau. Đại sư Thiên Thai khai diễn “Pháp Hoa”, nói với chúng ta bách giới thiên như, đó là chân tướng sự thật. Ở trong mỗi pháp giới đều có thập pháp giới. Chúng ta từ trong tâm chân thành, khởi niệm A-Di-Đà Phật là pháp giới Phật, khởi niệm Bồ-tát Địa Tạng là pháp giới Bồ-tát, khởi niệm tham sân si là pháp giới của ba ác đạo, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nghiệp nhân quả báo của thập pháp giới đang chuyển biến trong từng niệm, đây là hiện tượng luân hồi, đây là nghiệp nhân cơ bản của luân hồi. Chúng ta tuân theo lời di giáo của đức Phật, có duyên đọc tụng kinh điển Đại Thừa, đây chính là Bồ-tát Địa Tạng độ chúng ta, độ chúng ta từ ba đường ác đến nhân thiên, độ đến pháp giới Phật, Bồ-tát. Tánh thức của chúng ta ương ngạnh khó giáo hóa. Rời khỏi giảng đường, xếp quyển kinh lại, lại đọa lạc rồi, lại đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Chẳng phải hằng ngày làm việc này sao? Cho nên làm phiền Bồ-tát Địa Tạng từ kiếp lâu xa đến nay mỗi ngày phải phát nguyện, vì thương xót những chúng sanh tội khổ như chúng ta đây. Giác căn của chúng ta không kiên cố, nguyện lực của chúng ta không mạnh mẽ, tín tâm rất yếu ớt, không chống nổi tập khí phiền não. Bồ-tát thấy rất rõ ràng.

  “Vô lượng kiếp trung, nhân man bất đoạn.” (Vô lượng kiếp về sau, tội khổ cứ lây dây mãi không dứt)

 Nhân man là ví dụ. Giống như cỏ dại vậy, cỏ dại mọc um tùm, rất khó trừ bỏ hết, là dụ cho tập khí phiền não của chúng ta, tạo nghiệp thọ báo, luân hồi vô tận. Dùng bốn chữ này để miêu tả là quá hay rồi! Nhưng Bồ-tát không nản lòng, Bồ-tát không lùi bước, vẫn cứ hết lòng hết sức giúp đỡ chúng sanh. Cho nên Thế Tôn nói tiếp:

  “Như thị Bồ-tát ư Ta Bà thế giới Diêm Phù Đề trung bách thiên vạn ức phương tiện nhi vi giáo hóa.” (Địa Tạng Bồ-tát ở trong cõi Diêm Phù Đề nơi thế giới Ta Bà, dùng trăm nghì muôn ức phương chước để giáo hóa chúng sanh.)

Thế giới Ta Bà đặc biệt chỉ cõi Diêm Phù Đề, Diêm Phù Đề chính là địa cầu của chúng ta ngày nay. Có duyên rất sâu dày với chúng sanh trên địa cầu chúng ta. Ba nghiệp của Bồ-tát, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác chỉ có một mục đích là lợi ích tất cả chúng sanh. Phật ở trong tất cả kinh điển thường nói, thật sự là đã nói cả ngàn lần vạn lần, mà chúng ta vẫn không nhớ như cũ. Phật dạy chúng ta thọ trì, đọc tụng, vì người diễn thuyết. Quý vị thử nghĩ câu nói này, Phật ở trong tất cả kinh đã nói bao nhiêu lần? Nói rất khẩn thiết. Thọ trì. Phật ở trong kinh nói ra những đạo lý, phương pháp, cảnh giới này, chúng ta phải tiếp nhận. Trì là gìn giữ. Sau khi tiếp nhận rồi thì phải gìn giữ, không được để mất. Đem những đạo lý mà Phật nói, tiếp nhận như thế nào? Biến thành tư tưởng, kiến giải của chính chúng ta ở trong đời sống thường ngày, là chúng ta tiếp nhận rồi. Cách nghĩ, cách nhìn của chúng ta giống như trong kinh Phật nói vậy, nhất định không được làm trái lại. Chúng ta tiếp nhận những đường lối này của Phật. Những phương pháp mà Phật nói trong kinh này, biến thành hành vi đời sống của chúng ta, chúng ta phải làm cho được. Cảnh giới Phật nói trong kinh, biến thành sự hưởng thụ hiện tiền của bản thân chúng ta, vào cảnh giới của Phật. Như vậy tự tại biết bao, vui sướng biết bao! Là tự thọ dụng. Tự thọ dụng chính là tha thọ dụng. Đời sống của chúng ta thể hiện ra chính là tấm gương cho người khác. Diễn chính là biểu diễn. Biểu diễn là làm cho người khác thấy. Nói được phải làm được, làm cho người khác thấy. Thật sự là chuẩn mực cho đại chúng xã hội, là mô phạm cho đại chúng xã hội. Hai năm trở lại đây, chúng tôi giảng kinh hoằng pháp tại mỗi nơi, chúng tôi có một cái đề mục chung là: “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm” (Học thì làm thầy mọi người, hành thì làm mô phạm cho đời.) Chúng tôi dùng tám chữ này để làm đề giảng chung. Đề mục này khi mọi người nhìn thấy sẽ không đến nỗi hiểu lầm chúng ta là mê tín, không đến nỗi hiểu lầm là chúng ta đang làm việc tôn giáo. Chúng ta làm sao có thể đưa Phật pháp trở về giáo dục xã hội. Tứ chúng đệ tử của cửa Phật là người làm công tác giáo dục xã hội, thì Phật pháp mới có thể lợi ích tất cả chúng sanh rộng khắp được. Lời nói này nghĩa là sao? Những tôn giáo tín ngưỡng khác nhau, họ cũng đến học Phật rồi, những chủng tộc văn hóa khác nhau, họ cũng thích học Phật, thì Phật pháp mới có thể lợi ích tất cả chúng sanh. Nếu như nói Phật pháp là tôn giáo, thì những tôn giáo khác nó không thể dung nạp được, là không thể tiếp nhận rồi! Nhưng Phật pháp là giáo dục xã hội, thì chúng ta đột phá được giới hạn tôn giáo rồi. Bất kỳ tín đồ tôn giáo nào cũng có thể học Phật được, đều có thể làm đệ tử Phật được, chẳng hề trái lại tôn giáo mà họ tín ngưỡng. Là giống như những gì trong “Hoa Nghiêm” hiển thị, Bà La Môn, Bà La Môn Giáo không phải Phật giáo. Biến Hành ngoại đạo, họ cũng là thuộc tôn giáo khác, cũng không phải là Phật giáo, đều là Bồ-tát. Bồ-tát thị hiện vào trong ngành nghề đó của họ, để giáo hóa loại chúng sanh đó, chúng ta phải hiểu được đạo lý này. Cho nên chúng tôi nhìn thấy Cơ Đốc Giáo liền khen ngợi, chúng tôi gặp Mục Sư liền chắp tay lễ kính chào Bồ-tát Mục Sư. Gặp Hồi Giáo chúng tôi cũng chắp tay lễ kính chào Bồ-tát giáo sĩ Hồi Giáo, đều là Bồ-tát. Họ đến hỏi tôi, thầy xưng tôi là Bồ-tát nó có ý nghĩa gì? Bồ-tát là người có trí tuệ, giác ngộ bèn gọi là Bồ-tát. Có phải ông có trí tuệ không, có phải giác ngộ không? Gật đầu đồng ý. Vậy anh chính là Bồ-tát. Thân phận hiện nay của bạn là giáo sĩ Hồi Giáo, chính là Bồ-tát giáo sĩ Hồi Giáo. Thân phận hiện nay của bạn là Mục Sư, thì bạn chính là Bồ-tát Mục Sư. Ở trong kinh Phật thân phận của bạn là đồng nam, đồng nữ, thì Bồ-tát đồng tử, Bồ-tát đồng nữ. Thân phận của bạn là Tể Quan thì bạn là Bồ-tát Tể Quan. Hễ là người có trí tuệ, giác ngộ rồi, đều xưng là Bồ-tát. Bồ-tát tuyệt đối không phải hình tượng tạc đắp bằng gỗ hay xi măng cúng ở trong chùa cho người ta bái lạy, bạn nghĩ như vậy là nghĩ sai rồi! Đó là pháp tượng trưng. Bồ-tát là sống động, không phải thứ chết cứng. Mỗi người đều làm Bồ-tát, thì thiên hạ thái bình, tai nạn được hóa giải ngay. Cho nên giáo dục Phật Đà, nền giáo dục xã hội cứu cánh viên mãn này có thể phổ biến được ở thế gian này. Mục đích cuối cùng nó phổ biến là chuyển phàm thành thánh, đây là mục tiêu của nó. Tất cả mọi người đều thành Bồ-tát, các ngành các nghề thảy đều là Bồ-tát, thì xã hội này làm gì còn tai nạn được? Cảnh chuyển theo tâm. Chúng ta cần hiểu rõ đạo lý này. Nên chư Phật, Bồ-tát dùng vô lượng pháp môn phương tiện, để giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn này. Phải biết cách tùy cơ thuyết pháp. Ở trong Đại Kinh nói những vị Bồ-tát này, chư Phật, Bồ-tát cần dùng thân gì được độ, liền hiện thân ấy. Hai chữ được độ này cách giảng như thế nào vậy? Dùng cách nói hiện nay để nói, cần phải dùng thân phận như thế nào để giúp đỡ họ, bạn liền thị hiện thân phận đó. Chữ độ dùng cách nói hiện nay chính là giúp đỡ. Cần nên nói pháp môn gì thì bạn mới tuyên thuyết pháp môn đó cho họ. Quán sát căn cơ là rất quan trọng. Ở trong “Kinh Dịch” của cổ nhân Trung Quốc có nói: “Quán hồ thiên văn dĩ sát thời biến.” “Quán sát thiên văn để biết thời thế biến đổi.” Thiên văn là gì? Mỗi đêm ngước mắt nhìn sao trên trời, vậy gọi là thiên văn à? Lời của thánh nhân sâu rộng vô hạn. Có một số người không biết, quán sát thiên văn là thế nào? Mỗi đêm họ quan sát hiện tượng xem số lượng và góc độ các vì sao trên trời có biến đổi gì không? Đây là gì vậy? Không hiểu ý của thánh nhân. Thiên là thiên nhiên, chính là tự nhiên. Văn là nói đến văn cương. Chữ văn ở trong Thuyết Văn Giải Tự, ý nghĩa của chữ văn là gì? Vẽ một nét, đó là văn. Cái ý nghĩa này chính là nói, bạn quan sát hiện tượng trong thế gian. Thiên văn chính là hiện tượng xã hội. Bạn từ trong hiện tượng xã hội, bạn có thể thể nghiệm được thế giới này có những biến đổi gì? Tôi ở phần trước có giới thiệu về Tứ Đại Thiên Vương với quý vị. Tây Phương Quảng Mục Thiên Văn là biểu thị cho ý nghĩa này, Ngài biết nhìn, khéo giỏi về quan sát. Trên tay Ngài cầm là rồng, rắn. Rồng, rắn là đại biểu cho biến hóa. Trên tay này cầm trái châu. Trái châu là đại biểu ở trong biến hóa có đạo lý bất biến. Nắm vững được nguyên tắc bất biến, thì có thể ứng phó được với thời thế thay đổi. Trong “Kinh Dịch” cũng nói như vậy. Chúng ta có biết nhìn hay không? Chúng ta thường ngồi xe, chúng ta rất ít khi đi tản bộ, rất ít khi đi tham quan du lịch. Ngồi xe, đi trên đường, bạn nhìn thấy những hiện tượng gì? Bạn thử xem những tấm quảng cáo hiện nay, thử xem trên xe hơi hay xe bus công cộng, những hoa văn hình vẽ, thử xem người tuổi trẻ mặc những bộ y phục đó, đây là thiên văn. Trong tâm chúng ta hiểu rõ rồi. Hiểu rõ điều gì vậy? Phật nói ở trong kinh: “Tà sư thuyết pháp, nhiều như cát sông Hằng” đó chính là tà sư. Khiến cho những người thế gian, những gì mà sáu căn họ tiếp xúc được là cảnh giới yêu ma quỷ quái. Họ trải qua đời sống gì vậy? Đời sống yêu ma quỷ quái. Bồ-tát nhìn thấy hiện tượng này, thì tâm thương xót liền sinh khởi lên ngay. Làm sao cứu độ họ? Chúng ta may những chiếc áo thun, các bạn mặc, trên đó in dòng chữ A-Di-Đà Phật, in danh hiệu Phật, Bồ-tát, in dòng chữ biết ơn báo ơn, số lượng của chúng ta ít, còn số lượng của họ quá nhiều! Chúng tôi nghĩ ra phương pháp này, người có trí tuệ và lòng nhân đức, người thật sự phát tâm Bồ đề, chúng ta phải dùng những phương pháp này để tuyên truyền rộng rãi. Những buổi diễn giảng quy mô lớn ở bên ngoài chúng ta tặng quần áo, để cho người trẻ tuổi người nào cũng mặc, ra đường đều nhìn thấy A-Di-Đà Phật, ra đường đều nhìn thấy Quan Thế Âm Bồ-tát, thế thì rất tốt. Cổ đức có câu: “Người biết số mệnh thì không oán trời, người biết mình thì không oán người.” Từ đó cho thấy, người oán trời trách người hiện nay trong xã hội rất nhiều, người oán trời trách người quá nhiều, đều cảm thấy mình không có lỗi lầm, lỗi đều là ở người khác. Không những không biết mệnh trời, mà ngay cả bản thân mình cũng không biết. Cho nên nền giáo dục Phật pháp. Phật dạy điều gì? Chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Vũ trụ là môi trường sống của chúng ta. Nhân sinh là chính mình. Nền giáo dục Phật giáo không có gì khác, chính là dạy bạn thật sự biết mình, nhận biết bản thân, và biết rõ hoàn cảnh sống của mình. Có thể hiểu rõ ràng, hiểu minh bạch chân tướng này rồi thì bạn chính là Bồ-tát, bạn chính là Phật. Phật Bồ-tát là người sáng suốt mà thôi. Trước đây lão pháp sư Đàm Hư cũng thường nói. Một người sáng suốt nhất định không oán trời, không trách người, họ mới có thể tiếp nhận được lời giáo huấn của Phật Đà, mới có thể y giáo phụng hành một cách rất hoan hỷ. Ở trong nghịch cảnh khổ nạn cùng cực, họ phải làm nên hình ảnh tốt, ở trong mỗi niệm điều có thể quên mình vì người. Thấy ra sai lầm của hầu hết đại chúng xã hội ở chỗ nào? Đại chúng xã hội tham tiền của, thì Bồ-tát thị hiện xả tiền của. Đại chúng xã hội tranh danh đoạt lợi, thì Bồ-tát thị hiện buông xả danh lợi. Tại sao phải làm như vậy? Cách làm này chính là dạy học. Vì người diễn thuyết, biểu diễn cho họ thấy. Bồ-tát sống ở thế gian này, không vì mình, vì chúng sanh, là đến để diễn kịch. Hy vọng vở kịch này khiến cho người xem giác ngộ, khiến cho người xem hiểu rõ, khiến cho họ quay đầu. Đâu phải là vì mình? Là biểu diễn vì người khác. Đây chính là đại từ đại bi, đây chính là tinh thần của Bồ-tát Địa Tạng.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *