KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 53
Xin mời mở bản kinh ra, phần khoa chú quyển trung, trang 79, chúng ta đem kinh văn ra đọc một lần.
“Hà huống lâm mệnh chung nhân tại sanh vị tằng hữu thiểu thiện căn, các cứ bổn nghiệp tự thọ ác thú. Hà nhẫn quyến thuộc cánh vi tăng nghiệp. Thí như hữu nhân tùng viễn địa lai, tuyệt lương tam nhật, sở phụ đảm vật cường quá bách cân, hốt ngộ lân nhân, cánh phụ thiểu vật, dĩ thị chi cố chuyển phục khốn trọng.”
(Huống gì là người kia chết, lúc sanh tiền chưa từng làm được chút phước lành, đều theo ác nghiệp của họ đã gây tạo mà tự phải sa đọa vào ác đạo. Hàng thân thuộc nỡ nào lại làm cho tội nghiệp của người ấy nặng thêm! Cũng ví như, có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày, đồ vật của người đó mang vác nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận lại gởi một ít đồ vật nữa, vì vậy mà người xứ xa đó càng phải khốn khổ nặng nề thêm.)
Đây là ví dụ. Ý nghĩa của ví dụ rất rõ ràng, ví dụ có một người, người này từ rất xa đến nơi này. Thời trước đây giao thông không phát triển, người lữ hành đại đa số đều là đi bộ. Đường đi xa thì đương nhiên sẽ vô cùng mệt mỏi, tiêu hao sức lực. Nếu như ba ngày không được ăn cơm, thì nỗi khổ của họ, chúng ta có thể tưởng tượng là biết ngay. Và người này không phải chỉ đi bộ du lịch, mà họ còn gánh hành lý. Gánh hành lý này nặng đến một trăm cân, đây là gánh hành lý rất nặng. Ba ngày chưa được ăn cơm, còn đi đường xa nữa, vậy là rất mệt rồi! Đây là dụ cho người sắp mạng chung ở phía trước, lúc còn sống không có làm việc gì tốt cả. Sau khi chết đương nhiên theo hạnh nghiệp của họ thì họ phải nhận lấy quả báo của mình.
“Hốt ngộ lân nhân, cánh phụ thiểu vật.”
(Bỗng gặp kẻ lân cận lại gởi một ít đồ vật nữa)
Đây là ví như người thân quyến thuộc không biết, còn muốn sát sanh cúng tế làm cho tội nghiệp của họ nặng thêm. Tiền đồ của họ đương nhiên sẽ càng khó khăn hơn. Ví dụ này dễ hiểu. Chúng ta xem tiếp đoạn kinh văn dưới đây, trang 80.
“Thế Tôn! Ngã quán Diêm Phù chúng sanh, đãn năng ư chư Phật giáo trung, nãi chí thiện sự nhất mao nhất trích, nhất sa nhất trần, như thị lợi ích, tất giai tự đắc.”
(Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét những chúng sanh trong cõi Diêm phù đề, ở nơi trong giáo pháp của Phật, nếu có thể làm việc phước lành cho đến chừng bằng sợi lông, giọt nước, bằng một hột cát, một mảy bụi nhỏ, thời tất cả chúng sanh đó đều tự mình được lợi ích cả.)
Đây là Bồ-tát Địa Tạng nói những lời này với Thế Tôn. Nói thực ra nói với Thế Tôn, chính là để Thế Tôn làm chứng minh cho Ngài, lời Ngài nói ra mỗi câu đều là chân thật. Dụng ý của cách nói này đích thực là vì chúng ta.
“Diêm Phù chúng sanh” (Chúng sanh cõi Diêm Phù Đề) Chính là những người chúng ta đây. “Đãn năng ư chư Phật giáo trung” (Ở nơi trong giáo pháp của Phật) Hai chữ Phật giáo này là mấu chốt. Ngày nay nhắc đến Phật giáo có phải là ý nghĩa của chữ Phật giáo ở trong tưởng tượng của chúng ta hay không? Không phải. Đây là ở trong giáo huấn của tất cả chư Phật, Phật dạy chúng ta như thế nào, chúng ta có hiểu hay không? Chúng ta có làm được hay không? Thật sự hiểu rõ rồi, chịu làm, mặc dù làm được một chút xíu thiện nhỏ. “Nhất mao nhất trích, nhất sa nhất trần” (Chừng bằng sợi lông, giọt nước, bằng một hột cát, một mảy bụi nhỏ) Đây là nói ít, hình dung tu thiện ít. Mao là sợi lông, sợi lông trên cơ thể chúng ta. Đây là thứ nhỏ nhất ở trong chánh báo của chúng ta. Trần sa “Hạt cát, hạt bụi” là thứ nhỏ nhất ở trong y báo, đều là hình dung thiện nhỏ. Cái thiện nhỏ này, bạn sẽ nhận được toàn bộ lợi ích, huống chi là thiện lớn? Những điều trong Phật pháp dạy, dù thiện nhỏ đi nữa cũng xứng tánh. Đã là xứng tánh thì thiện này nói thực ra là không có lớn nhỏ. Thiện lớn cũng trọn khắp hư không pháp giới, thiện nhỏ cũng trọn khắp hư không pháp giới, thậm chí bạn khởi một niệm tâm thiện, một niệm tâm lợi ích chúng sanh, thì quả báo cũng không thể nghĩ bàn. Bồ-tát Địa Tạng nói những lời này, người mới học quả thật rất khó tiếp nhận. Có phải Phật Bồ-tát dùng những lời này để khuyến khích chúng ta, chứ chưa chắc là chân thật? Chúng sanh tiếp xúc Phật pháp, đặc biệt là người mới học thì những nghi hoặc này có thể nói là vô cùng phổ biến. Đó hoàn toàn là dùng tâm phàm phu của chúng ta để đo lường cảnh giới của chư Phật Bồ-tát, vậy là quá đỗi sai lầm. Tâm phàm phu chúng ta là vọng tâm, còn tâm chư Phật Bồ-tát dùng là chân tâm. Vọng tâm thì vĩnh viễn không thể duyên đến được cảnh giới chân thật. Ở trong kinh luận pháp tướng nói rất nhiều, công năng của ý thức thứ sáu là mạnh nhất ở trong tám thức, đối với bên ngoài nó có thể duyên đến hư không pháp giới, đối với bên trong nó có thể duyên đến a-lại-da thức. Nhưng đáng tiếc là nó không cách gì duyên đến tự tánh được. Quý vị nên biết nhất chân pháp giới là tự tánh, nó có thể duyên đến hư không pháp giới, có thể duyên đến thập pháp giới. Vì không có cách gì duyên nhất chân pháp giới, không có cách gì duyên đến tự tánh, cho nên kiến giải và trí tuệ của phàm phu làm sao có thể biết được cảnh giới của Phật Bồ-tát được? Dựa vào vọng tưởng của mình, tưởng tượng cảnh giới của Phật Bồ-tát, là hoàn toàn sai rồi! Đây là điều chúng ta nhất định phải biết. Trí tuệ chân thật là gì? Hai chướng phá rồi thì trí tuệ chân thật mới hiện tiền. Chúng ta hãy suy nghĩ xem, chúng ta có phiền não chướng, có sở tri chướng, không những có mà còn vô cùng nghiêm trọng, thì làm gì có trí tuệ? Mình cho rằng mình cảm thấy rất có trí tuệ, trong Phật pháp gọi đó là thế trí biện thông. Thế trí biện thông không thể giải quyết vấn đề. Mời xem kinh văn dưới đây:
“Thuyết thị ngữ thời, hội trung hữu nhất trưởng giả danh viết Đại Biện. Thị trưởng giả cửu chứng vô sanh, hóa độ thập phương hiện trưởng giả thân.”
(Khi Ngài Ðịa-Tạng nói lời như thế xong, trong pháp hội có một vị Trưởng Giả tên là tên là Ðại Biện. Ông Trưởng Giả từ lâu đã chứng quả vô sanh hiện thân Trưởng Giả để hóa độ chúng sanh trong mười phương.)
Đến đây là một đoạn nhỏ. Từ trong đoạn kinh văn này, chúng ta mới biết rõ trưởng giả Đại Biện, đây cũng là chư Phật Như-lai thị hiện. “Cửu chứng vô sanh” (Từ lâu đã chứng quả vô sanh). Câu nói này là Ngài đã thành Phật từ rất lâu rồi. Ngài độ hóa chúng sanh trong mười phương thế giới. “Hiện thân Trưởng Giả”, đây là thị hiện. Cần dùng thân Trưởng Giả mà được độ, thì Ngài liền hiện thân Trưởng Giả. Tham gia pháp hội Địa Tạng, giúp đỡ Thế Tôn và Bồ-tát Địa Tạng Vương giáo hóa chúng sanh. Ngài đứng ra hỏi, khi một người hỏi một người đáp này, là nhằm phá trừ nghi hoặc của chúng ta. Bên dưới nói:
“Hiệp chưởng cung kính, vấn Địa Tạng Bồ-tát ngôn.”
(Ông chắp tay cung kính mà thưa hỏi Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát rằng:)
“Hiệp chưởng cung kính” là hết sức kính trọng, là lễ độ, thỉnh giáo Bồ-tát Địa Tạng. “Đại sĩ” đây là lời xưng tán Bồ-tát.
“Thị Nam Phù đề chúng sanh mệnh chung chi hậu, tiểu đại quyến thuộc, vị tu công đức, nãi chí thiết trai tạo chúng thiện nhân, thị mệnh chung nhân đắc đại lợi ích cập giải thoát phủ.”
(Thưa Ðại Sĩ! Trong cõi Nam Diêm Phù Ðề có chúng sanh nào sau khi mạng chung, mà hàng quyến thuộc hoặc người lớn kẻ nhỏ, vì người chết đó mà tu các công đức, cho đến thiết trai cúng dường, làm những phước lành, thời người chết đó, có đặng lợi ích lớn cùng đặng giải thoát chăng?)
Ý nghĩa của những câu thỉnh giáo này không khó hiểu. Đây là nói chúng sanh trong thế gian này của chúng ta sau khi qua đời, người thân quyến thuộc của họ tu những công đức cho họ. Ví dụ “Thiết trai”, ý nghĩa của thiết trai rất rộng. Giống như ở trong tập tục hiện nay có đốt vàng mã, Mông Sơn thí thực, đây đều là thiết trai, đây là mời quỉ thần ăn cơm. Cũng như việc tu phước cúng Trai Tăng ở thế gian. Vào thời xưa gia đình giàu có, thiết trai cúng dường cả nghìn vị Tăng, và tạo đủ thứ nhân thiện khác, làm nhiều việc thiện hồi hướng cho người đã mất này. Người đã mất này, có phải bởi nhờ người thân quyến thuộc tu công đức cho họ, nên họ được lợi ích lớn phải không? Họ có được giải thoát không? Chúng ta thử xem lời khai thị của Bồ-tát Địa Tạng.
“Địa Tạng đáp ngôn: Trưởng Giả! Ngã kim vị vị lai hiện tại nhất thiết chúng sanh, thừa Phật uy lực, lược thuyết thị sự”
(Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát đáp rằng: ‘Này ông Trưởng Giả! Nay tôi vì tất cả chúng sanh trong hiện tại này cùng thuở vị lai sau, nương nơi oai thần của Ðức Phật mà nói lược về việc đó.)
Bồ-tát Địa Tạng trả lời, xưng là “Trưởng Giả”, đây là cung kính lẫn nhau. Trưởng Giả xưng Bồ-tát là Đại Sĩ, Bồ-tát xưng Ngài là Trưởng Giả. Ngài đã hỏi rồi, thì tôi bây giờ vì “vị lai”. “Vị lai” là chỉ chúng ta. “Hiện tại” là lúc đó.
“Nhất thiết chúng sanh thừa Phật uy lực lược thuyết thị sự.” (Vì tất cả chúng sanh, nương nơi oai thần của Ðức Phật mà nói lược về việc đó)
Câu “Thừa Phật uy lực” này là tôn sư trọng đạo, không dám cho rằng mình có thể nói được. Sự và lý này quá sâu, quá rộng, tôi đâu thể nói được? Nương nơi oai thần của đức Phật gia trì mới có thể nói được. Thực ra Bồ-tát Địa Tạng đã thành Phật từ lâu rồi, cũng là thị hiện thành thân Bồ-tát. Trong số học trò có vô lượng vô biên người đã thành Phật rồi, thì đâu có lý nào Thầy không thành Phật chứ? Đây là chứng tỏ chư Phật Như-lai đại từ đại bi, hạ thấp thân phận xuống thành Bồ-tát để thuận tiện độ hóa chúng sanh. Quý vị đều biết Phật pháp là sư đạo, chúng ta đối với thầy phải tôn kính. Nếu đến chỗ của Thầy để cầu học, sẽ không thuận tiện bằng thân phận Bồ-tát đến. Bồ-tát với chúng ta là bạn học. Họ là học trò của Phật, chúng ta cũng là học trò của Phật. Họ là học trò thời kỳ đầu, là học khóa trước chúng ta, cùng thân phận học trò. Cho nên chúng ta không cầu, họ có thể đến tìm chúng ta. Thầy không có lý nào đi tìm học trò, nhưng bạn học thì được, vậy sẽ thuận tiện cho việc giáo hóa rất nhiều, “làm người bạn không mời cho tất cả chúng sanh”. Chỉ cần quan sát thấy cơ duyên của chúng sanh chín muồi, thì họ sẽ chủ động đến. Đây là phương tiện độ hóa chúng sanh của thân phận Bồ-tát, cho nên Bồ-tát Địa Tạng vĩnh viễn ở vào địa vị Bồ-tát, nguyên nhân là ở chỗ này.
“Trưởng giả! Vị lai hiện tại chư chúng sanh đẳng, lâm mệnh chung nhật đắc văn nhất Phật danh, nhất Bồ-tát danh, nhất Bích Chi Phật danh, bất vấn hữu tội, vô tội tất đắc giải thoát.”
(Này ông Trưởng Giả! Những chúng sanh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe đặng danh hiệu của một Ðức Phật, danh hiệu của một Bồ Tát hay danh hiệu của một Bích Chi Phật, thời không luận là có tội cùng không tội đều được giải thoát cả.)
Lợi ích này thật sự là quá lớn, quá lớn rồi. Quí vị nhất định phải biết niệm sau cùng nhất lúc lâm chung là mấu chốt. Đời sau bạn đi về cõi nào là do một niệm sau cùng này. Nghiệp mà cả đời bạn tạo là rất nhiều, huống chi còn có đời quá khứ, nghiệp tích lũy đời đời kiếp kiếp là vô lượng vô biên. Đức Phật nói trong kinh, nếu như nghiệp mà bạn tạo nó có thể tích. Thể tích dù nhỏ như hạt bụi đi nữa, thì nghiệp đã tạo là tận hư không cũng không thể chứa hết. Nghĩ lại trong đời quá khứ, đời đời kiếp kiếp vô lượng kiếp đến nay. Cái ví dụ hình dung này của Phật không có gì là quá. May mà tội nghiệp này không có thể tích, không có hình tướng, nhưng nó lại sinh ra sức mạnh. Sức mạnh này đã tạo ra luân hồi, biến hiện ra đủ thứ cảnh giới khổ. Nhưng một người, đời sau đi về cõi nào để thọ sanh, thật sự là quyết định ở niệm cuối cùng này. Niệm này đương nhiên là niệm mạnh nhất trong tất cả toàn bộ ý niệm. Đức Phật nói trong kinh, nghiệp nhân của chúng ta là vô lượng, nghiệp nào mạnh thì dẫn đi trước. Nghiệp nhân nào có sức mạnh nó sẽ đi thọ báo trước. Nếu như không nghe Phật pháp thì người này trong lúc mạng chung họ sẽ nghĩ về những gì? Nếu như họ nghĩ về người thân quyến thuộc, ân ái khó buông bỏ, thì họ sẽ đi về cõi quỉ, vì tâm tham nặng. Nếu như nghĩ đến oan gia đối địch vẫn chưa có báo thù, vậy thì đi địa ngục, vì tâm sân hận nặng. Mê hoặc điên đảo, đi trong mơ mơ hồ hồ, thì đi về cõi súc sanh, cái này là nhiều nhất, phổ biến nhất. Cho nên vào lúc này là thời khắc mấu chốt, nghe danh hiệu Phật, nhất tâm nghĩ tưởng Phật, thì họ làm sao không giải thoát được? Nếu như lúc lâm chung có thể nghe được danh hiệu Phật A-Di-Đà, người này cả đời không có tiếp xúc Phật pháp bao giờ, lúc sắp mạng chung mới có người dạy họ niệm Phật A-Di-Đà, dạy họ niệm Phật, dạy họ cầu vãng sanh Tịnh Độ, Phật đến tiếp dẫn đi với Phật A-Di-Đà, thì họ đi làm Phật rồi. Năm xưa ở thủ đô Washington DC nước Mỹ, tiên sinh Chu Quảng Đại, đó là điển hình rất nổi bậc. Ba ngày trước khi mất ông mới gặp được Phật pháp. Khi người ta nói cho ông biết ông liền tin ngay, liền tiếp nhận ngay, và đã niệm Phật ba ngày, đức Phật đến tiếp dẫn ông vãng sanh. Đây là người thân quyến thuộc là thiện tri thức. Gặp được người dạy ông niệm danh hiệu Bồ-tát, niệm danh hiệu Phật Bích Chi, cho dù không thể vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì cũng chắc chắn được phước báo nhân thiên. “Giải thoát” chính là giải thoát ra từ ba ác đạo. Từ ba ác đạo giải thoát ra sanh về ba thiện đạo, đây là ở trong Phật giáo. Nếu như họ có thể hiểu rõ ý nghĩa tượng trưng của danh hiệu Phật Bồ-tát, thì họ được lợi ích công đức sẽ thù thắng hơn nữa, họ thật sự có thể khế nhập cảnh giới. Cho nên sự việc này chúng ta phải nhớ kỹ, khi tiễn đưa người sắp mất nhất định phải khuyên người ta niệm Phật. Nếu như người thân quyến thuộc đều có thể trợ niệm, vậy là vô cùng thù thắng. Niệm Phật hằng ngày đều là vì một niệm lúc lâm chung này, hy vọng thường ngày niệm cho thành thục, đến lúc lâm chung không bị quên mất. Thường ngày phải buông xả vạn duyên, thì lúc lâm chung mới không có chướng ngại, cái gì cũng phải buông xả. Đối với thế gian này thật sự không có một mảy may tham luyến, thì vãng sanh mới tự tại được. Chỉ cần có dính nhiễm một mảy may tham luyến, thì niệm Phật vãng sanh lúc lâm chung sẽ có chướng ngại. Bản thân chúng ta phải biết cho thật rõ ràng, minh bạch. Lúc lâm chung có gặp được thiện tri thức hay không? Có gặp được một số người giúp đỡ hay không? Là rất khó nói! Cho nên chúng ta biết sự việc này, nên thường ngày phải kết nhiều thiện duyên, muốn kết nhiều thiện duyên thì phải tham gia trợ niệm nhiều. Bạn có thể thường xuyên giúp đỡ trợ niệm cho người sắp lâm chung, đây là nhân. Đến khi mình lâm chung, thì nhất định sẽ có người đến giúp đỡ bạn. Thường ngày không chịu giúp đỡ người khác, thì lúc lâm chung chắc chắn sẽ không có người giúp đỡ bạn. Nhân duyên quả báo không mảy may sai chạy. Cho nên thường ngày phải gieo nhân thiện, thì bạn mới có thể được quả thiện. Nhất định phải tin lời Bồ-tát Địa Tạng dạy ở chỗ này. Xem tiếp kinh văn dưới đây, đây đều là lời Bồ-tát Địa Tạng dạy:
“Nhược hữu nam tử nữ nhân, tại sanh bất tu thiện nhân, đa tạo chúng tội, mạng chung chi hậu, quyến thuộc tiểu đại, vi tạo phước lợi, nhất thiết thánh sự, thất phần chi trung, nhi nãi hoạch nhất, lục phần công đức sanh giả tự lợi.”
(Như có người nam cùng người nữ nào lúc sanh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác, sau khi người mạng chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi làm tất cà việc về Thánh đạo, thời trong bảy phần công đức người chết nhờ đặng một phần, còn sáu phần công đức thuộc về người thân quyến hiện lo tu tạo đó.)
Đạo lý này nhất định phải biết. Chúng ta ngày nay xem thấy, người thân quyến thuộc trong thế gian này, làm Phật sự cho người chết. Thông thường thỉnh người xuất gia là thỉnh bảy vị. Tại sao vậy? Bảy phần công đức họ mới có thể được một phần. Tụng kinh phải tụng bảy bộ, đều là từ trong kinh này mà ra. Họ chỉ có thể được một phần bảy, còn sáu phần bảy là bản thân người tụng kinh, niệm Phật được hưởng. Đây là nói ra tỉ lệ, họ có thể được lợi ích bao lớn, hoàn toàn xem bản thân người sống được lợi ích bao lớn. Người tụng kinh, nếu như trong lúc tụng kinh, khai ngộ chứng quả rồi. Chứng quả tức là vào được cảnh giới trong kinh. Đại đức xưa dạy chúng ta, khi đọc kinh tùy văn nhập quán. Tùy văn nhập quán mọi người phải nghe cho rõ ràng, không phải vừa xem kinh vừa khởi vọng tưởng, thế là bạn hoàn toàn sai rồi! Không phải vừa đọc kinh vừa nghĩ kinh này có ý nghĩa gì, đọc như vậy thì ta và người đều không có được lợi ích. Vẫn không bằng thật thà niệm, từ “Như thị ngã văn” đến “tín thọ phụng hành” mà không có một vọng niệm nào cả, thì mới có công đức, công đức này là tâm thanh tịnh. Bạn tu tâm thanh tịnh, bạn ở trong đây tu định, họ được lợi ích. Nếu như có thể nhập quán. Quán là không dùng tâm ý thức. Dùng tâm ý thức là tư tưởng, không phải quán, là vọng tưởng. Không dùng tâm ý thức mà khế nhập cảnh giới này, mới gọi là quán. Đây là từ trong định khai tuệ. Đọc bộ kinh này, cảnh giới trong kinh biến thành cảnh giới của mình, ta người không hai, sanh Phật nhất như, nhập cảnh giới này rồi. Người chết này được lợi ích, lợi ích đó là không thể nghĩ bàn, họ được lợi ích công đức thù thắng nhất. Lợi ích công đức thù thắng nhất, xin thưa quý vị, cũng chỉ có thể giúp họ sanh về trời Đao Lợi, nhưng được phước báo lớn ở trong trời Đao Lợi. Nếu như người chết này, lúc còn sống là người niệm Phật, là người hiểu rõ Phật pháp, là người niệm Phật, vậy sau khi họ qua đời, tụng kinh sau khi họ nghe rồi, rất có thể nhắc nhở họ niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ, vậy thì họ chắc chắn sẽ được sanh Tịnh Độ. Cho nên những việc Phật sự siêu độ, là làm tăng thượng duyên cho họ, chỉ sợ họ quên mất, nên đặc biệt đến nhắc nhở họ. Nếu như lúc họ còn sống không có tiếp xúc Phật pháp, vậy thì rất khó. Nếu hoàn toàn dựa vào phước, thì họ chỉ có thể đạt đến trời Đao Lợi. Lợi ích này lớn hay nhỏ không bằng nhau. Trong kinh văn nói rất rõ ràng, rất minh bạch, chúng ta tự mình phải tư duy, tại sao siêu độ họ có thể được lợi ích. Phần trước cũng đã từng nói qua với quý vị rồi. Nếu như không phải nhờ họ qua đời, thì quyến thuộc người trong gia đình sẽ không tu phước và cũng sẽ không được lợi ích thù thắng. Bởi vì nguyên nhân này, nên người thân quyến thuộc mới tu phước, mới lễ lạy sám hối, mới tụng kinh, mới lễ Phật. Đây là người chết tạo tăng thượng duyên tu phước cho người thân quyến thuộc. Nguyên do như vậy, nên họ được một phần bảy phước báo. Phước mà người thân quyến thuộc tu càng lớn, thì họ sẽ được lợi ích càng lớn, đạo lý là ở chỗ này.
“Dĩ thị chi cố, vị lai hiện tại, thiện nam nữ đẳng, văn kiện tự tu, phần phần kỷ hoạch.”
(Bởi vì cớ trên đây, nên những người thiện nam cùng thiện nữ ở hiện tại và vị lai, nghe lời nói vừa rồi đó nên cố gắng mà tu hành thời đặng hưởng trọn phần công đức.)
Bởi vì nguyên do này, cho nên Bồ-tát Địa Tạng nói: “Vị lai hiện tại, thiện nam nữ đẳng, văn kiện tự tu”. “Kiện” là sức khỏe của bạn rất khỏe mạnh. “Văn” là sáu căn của bạn rất thông minh. Bạn hiểu rõ đạo lý này, biết sự thật này, nhân lúc cơ thể khỏe mạnh, bạn phải chăm chỉ nỗ lực tự tu, thì phước báo mà bạn được là viên mãn, phần nào mình cũng thảy đều thu được. Ở trong chú giải, pháp sư Thanh Lương trích dẫn một đoạn ở trong “Kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh”. Chúng ta hãy đọc qua đoạn này một chút. Đoạn này cũng là do Bồ-tát Phổ Quảng nói, ở hàng thứ nhất trang 85, “Kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh”:
“Phổ Quảng Bồ-tát bạch Phật ngôn: Nhược thiện nam nữ vị chung chi thời, nghịch tu sanh thất, nhiên đăng huyền phan, thỉnh Tăng chuyển kinh, đắc phước đa phủ. Phật ngôn: Kỳ phước vô lượng.”
“Bồ-tát Phổ Quảng hỏi đức Phật rằng: Nếu người thiện nam thiện nữ khi còn chưa chết, tu trước cho mình, thắp đèn treo phan, thỉnh mời chư Tăng tụng kinh, thì được phước có nhiều không? Đức Phật đáp: Phước ấy vô lượng.)
Đoạn này có thể làm ấn chứng cho kinh này.
Lại nói: “Phụ mẫu thân tộc, mệnh chung thọ khổ, vị kỳ tu phước, đắc phước đa phủ.” (Khi cha mẹ thân tộc chết thọ khổ, ta vì họ tu phước, thì họ được phước có nhiều không?)
Đây là tu cho người khác.
“Phật ngôn: Thất phần hoạch nhất” (Đức Phật đáp: Bảy phần được một)
Bảy phần công đức họ được một phần, là cũng giống như trong kinh này nói vậy.
Phía trước Bồ-tát Phổ Quảng hỏi: “Nghịch tu sanh thất”. Tức là người vẫn chưa chết. Tức là nói khi chúng ta hiện nay tự mình tu, thỉnh pháp sư đến chuyển kinh. Thỉnh pháp sư chuyển kinh. Ý nghĩa của chữ chuyển là thỉnh pháp sư tụng kinh, và thỉnh pháp sư giảng kinh đều gọi là chuyển kinh. Hầu hết mọi người lúc còn sống không biết làm Phật sự siêu độ cho mình trước, việc này là rất ít. Nhưng mời pháp sư giảng kinh, công đức này rất lớn. Có năng lực thì một mình bạn mời, như thế công đức này là mình hưởng trọn. Mình không có năng lực, thì cùng với vài người bạn đạo đồng tham, chúng ta cùng nhau đi mời. Mời pháp sư giảng một bộ kinh, hoặc giả mời pháp sư giảng kinh một ngày, thì công đức cũng không thể nghĩ bàn. Bạn thử nghĩ xem, có người nào trong đời đã từng mời pháp sư đến giảng kinh một lần chưa? Vô cùng hiếm có. Giống như chúng tôi đến nơi khác để giảng kinh, chúng tôi thường đến Hồng Kông, qua đó giảng ba ngày, những đồng tu bên đó, rất nhiều người tập hợp sức lại với nhau, thuê mượn một cái giảng đường, mời một số bạn đồng tu lại để nghe giảng, đều là cái ý này trong kinh nói. Ở trong tình hình này, chúng ta là người hiểu biết, thì đừng làm buổi diễn giảng bình thường. Diễn giảng bình thường thì họ được công đức rất nhỏ, nên giảng kinh. Nếu như mời chúng ta giảng một giờ, hai giờ, giảng một lần, vậy chúng ta giảng kinh gì? Có thể trích một đoạn trong kinh văn để giảng, vẫn là giảng kinh. Tôi không thể giảng toàn bộ kinh, thì giảng đại ý của cả bộ kinh, hoặc là trích một vài đoạn trong kinh văn để giảng. Đây là người hiểu biết, người trong nghề.
Kỉ niệm một năm Hồng Không trao trả về Trung Quốc, đồng tu bên đó mời tôi qua giảng kinh, thời gian chỉ có sáu ngày, mười hai giờ đồng hồ. Chúng tôi cảm kích sự nhiệt tâm hộ pháp của họ, tôi qua giảng “Kinh Vô Lượng Thọ”. “Kinh Vô Lượng Thọ” mười hai giờ đồng hồ thì làm sao giảng xong được? Chúng tôi trích lục ra một cuốn sách. Cuốn sách này quý vị đều nhìn thấy rồi. Từ trong “Kinh Vô Lượng Thọ” trích ra sáu mươi điều, mỗi một điều đều là kinh văn. Đây chính là “thỉnh tăng chuyển kinh”, là do mọi người họ mời, kết hợp lại với nhau mời. Chúng ta phải hiểu đạo lý này, phải biết mình nên làm như thế nào. Đặc biệt là người thân quyến thuộc của chúng ta, thấy họ cả đời không có làm việc gì tốt, bản thân họ mê hoặc điên đảo. Người học Phật chúng ta biết rất rõ, có thể nhìn thấy ra tiền đồ của họ. Làm sao giúp đỡ họ? Phương pháp này giúp đỡ thù thắng hơn hết thảy, là mời pháp sư giảng kinh. Chúng ta đứng ra khởi xướng, phát động, mời họ đến tham dự, họ sẽ được phước. Dùng loại phương pháp này để tiếp dẫn họ, cho nên phương tiện thiện xảo rất nhiều. Chúng ta xem tiếp đoạn kinh văn này dưới đây:
“Duyên tiền sanh bất tín đạo đức cố.” (Bởi do lúc còn sống không tin đạo đức.)
Duyên là bởi vì họ lúc còn sống không tin đạo đức. Đoạn bên dưới này là: “Nhược dĩ vong giả nghiêm thân chi cụ” (Nếu dùng đồ vật của người chết lúc còn sống dùng)
Nghiêm thân chi cụ, dùng cách nói hiện nay để nói chính là những đồ như vàng vòng, châu báu, đồ trang sức mà họ cất giữ, đây là nghiêm thân chi cụ. “Ốc trạch viên lâm” (Nhà cửa đất đai). Nhà cửa đất đai của họ. Ốc trạch là nhà cửa. Viên lâm là đất đai. “Dĩ thí Tam Bảo, khả bạt địa ngục chi khổ” (Dùng để cúng dường Tam Bảo, thì có thể loại bỏ nỗi khổ địa ngục.) Mặc dù cả đời tạo tác tội nghiệp cực nặng, trước lúc chết nếu như có thể đem tất cả tiền của của họ cúng dường Tam Bảo, thì phước này có thể vượt qua tội nghiệp đọa địa ngục của họ. Nguyên nhân là gì? Cúng dường Tam Bảo, mỗi ngày đều có người xuất gia, những người xuất gia tu hành, người tại gia tu hành này mỗi ngày ở nơi đây tụng kinh lễ sám, thì một phần bảy công đức này là lớn rồi, là quá lớn rồi, đạo lý là ở chỗ này. Nhưng mà chỗ này cần phải biện biệt rõ, ở trong Tam Bảo có thật giả. Đạo tràng Phật pháp chân chánh, đạo tràng Phật pháp chánh pháp mới có cái hiệu quả này. Nếu như không phải chánh pháp, thế gian hiện nay, là giống như lời trong “Kinh Lăng Nghiêm” nói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sống Hằng”, có rất nhiều Phật pháp giả, đạo tràng giả, mượn danh nghĩa Phật giáo, làm những chuyện trái lại với lời giáo huấn của Phật Đà, đó là tạo tội nghiệp. Nếu như bạn dùng tiền của này bố thí cúng dường cho người mất, là giúp họ tạo tội nghiệp, thúc đẩy họ tạo tội nghiệp, làm vậy phải đọa địa ngục càng đọa càng sâu. Không những không thể thoát khỏi mà còn đọa sâu hơn nữa. Đây là điểm cần phải biện biệt rõ. Gần đây đồng tu bên Hồng Kông đó, điện thoại nói cho tôi biết, Hồng Kông có một vị pháp sư hơn 80 tuổi rồi, Thầy có một đạo tràng muốn quyên góp hiến tặng cho người xuất gia. Điều kiện của Thầy là phải có năm người xuất gia, năm Tỳ Kheo Thầy mới chịu tặng, Thầy ở vùng Thuyên Loan Hồng Kông này. Cái điều kiện này hay, nhưng mà rất khó, sợ rằng đến lúc Thầy vãng sanh, cũng không thể tìm ra được năm Tỳ Kheo. Đây là nói lời thành thật, quá khó rồi! Cách nghĩ như vậy là chính xác, nhưng mà tương đối khó khăn. Cho nên ở thời đại này chúng ta cần phải biết không thể tìm ra được năm Tỳ Kheo. Mặc dù là cư sĩ tại gia tín đồ Phật giáo có chánh tín làm việc hoằng pháp lợi sinh, cũng là việc tốt rồi, thật sự là hoằng pháp lợi sinh. Hoặc giả là mình làm thành đạo tràng tu học, làm thành đạo tràng tu hành niệm Phật, đạo tràng lưu thông Phật pháp, đó là công đức chân thật. Xem tiếp kinh văn dưới đây:
“Vô thường đại quỉ, bất kỳ nhi đáo, minh minh du thần vị tri tội phước, thất thất nhật nội, như si như lung”
(Con quỉ dữ vô thường kia không hẹn mà đến, thần hồn vơ vẩn mịt mờ chưa rõ là tội hay phước, trong bốn mươi chín ngày như ngây như điếc.)
Đây là Bồ-tát ở chỗ này nói cho chúng ta biết cái tình trạng sau khi con người chết rồi. Thế Tôn ở trong kinh điển thường hay nhắc nhở chúng ta: cõi nước mong manh, mạng người vô thường. Đây là Thế Tôn nói cho chúng ta biết chân tướng của nhân sinh, dạy chúng ta từng giây từng phút phải đề cao tâm cảnh giác, phải có tâm cảnh giác cao độ. Nhất định không được cho rằng ta vẫn còn trẻ, tuổi thọ của ta vẫn còn rất dài, vậy là bạn sai rồi! Người xưa thường nói: “Đường xuống suối vàng không có phân biệt già hay trẻ, mồ cô quạnh đều là của thiếu niên.” Không có người cúng tế, chết khi còn rất trẻ, không có gia đình, không có con cái, đều biến thành mồ cô quạnh, nhất định phải đề cao cảnh giác.
“Vô thường đại quỉ, bất kỳ nhi đáo” (Con quỉ dữ vô thường kia không hẹn mà đến.)
Câu nói này tức là nói mạng người vô thường, đều có thể chết bất cứ lúc nào. Bạn cũng không có cách gì biết trước được nhân duyên gì mình sẽ chết. Đặc biệt là sanh vào thế gian này hiện nay của chúng ta, tai nạn biến đổi quá nhiều quá nhiều rồi. Bạn thấy toàn thế giới nơi nào cũng có tai nạn: có nạn nước, hiện nay miền đông nước Mỹ có nạn gió bão. Ngày hôm kia trong bản tin tức có đăng phải sơ tán hơn 500 nghìn người, nạn gió bão rất lớn. Động đất, đều là không có cách gì dự báo được. “Bất kỳ nhi đáo” (Không hẹn mà đến). Cho nên trong tâm người học Phật biết rất rõ ràng, rất minh bạch, cho dù những tai nạn hiện nay có xảy ra cũng không sợ hãi, điều này vô cùng quan trọng. Khi tai nạn xảy ra nếu như kinh hoàng sợ hãi, thế thì hỏng rồi! Kinh hoàng sợ hãi là đi ba đường ác rồi. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên ngày hôm kia báo cáo với mọi người, ông đi tiễn đưa một số người vãng sanh. Sau khi họ vãng sanh ông giúp họ vệ sinh thân thể, chăm sóc nhập liệm. Có một số người vãng sanh thân mình mềm mại, đại khái niệm Phật vãng sanh, tuyệt đại đa số thân thể đều mềm mại, đây là tướng lành. Có một số người ra đi thân mình cứng đờ. Đây là do nguyên nhân gì? Kinh hoàng, sợ hãi thì cơ thể sẽ cứng ngắc. Người ra đi rất tự tại, không hề sợ hãi chút nào cả, thì cơ thể của họ sẽ mềm mại. Cho nên chúng ta có thể từ người sắp mạng chung nhìn ra được tình trạng lúc họ ra đi, nếu họ chết tốt thì chắc chắn không rơi vào ác đạo, thấy họ lúc ra đi rất tự tại, rất an ổn tốt lành, rất rõ ràng, thần trí sáng suốt thì chắc chắn không đọa ác đọa. Niệm Phật vào lúc này nhất định vãng sanh. Cho nên tiễn đưa người vãng sanh, nhìn thấy được những tướng lành này, đạo lý là ở chỗ này. Nếu như không tin Phật pháp thì không gặp được thiện tri thức. Lúc sắp mạng chung gặp được thiện tri thức là phước báo lớn. Có người vào lúc này nhắc nhở họ, giúp đỡ, dẫn dắt họ niệm Phật. Cho dù cả đời tạo tội nghiệp nặng đi nữa cũng không sợ, cũng có thể vãng sanh, đó gọi là đới nghiệp vãng sanh. Chỉ sợ vào lúc này không có người giúp đỡ họ, còn có người quấy rối họ, người thân quyến thuộc đến khóc lóc, ồn náo thế thì xong rồi! Đây là đại chướng ngại. Bốn câu dưới đây là nói tình trạng của họ:
“Minh minh du thần” (Thần hồn vơ vẩn mịt mờ)
Đây chính là hồn phách của họ. Trong Phật pháp chúng ta gọi là a-lại-da thức. Người thế tục gọi là linh hồn. “Du thần” chính là linh hồn. Nhà Phật gọi du thần là rất chính xác. Nói linh hồn đó là lời tâng bốc. Tại sao vậy? Chắc chắn không linh. Nếu họ linh thì sao lại rơi vào trong ác đạo? Họ rơi vào ác đạo, có thể thấy họ không linh. Lời Khổng Lão Phu Tử nói ở trong “Kinh Dịch” cũng rất có đạo lý, Ngài nói là du hồn. Chúng ta ở đây gọi là du thần, cách nói này rất có đạo lý. Bởi vì tốc độ của nó rất nhanh, trôi dạt bất định, quả đúng là du hồn. Trong “Kinh Dịch” nói: “Du hồn vi biến”. Biến tức là họ đi đầu thai, họ lại đi đổi một thân thể khác.
“Minh minh du thần, vị tri tội phước” Vào lúc này thật sự là như ngây như điếc, là rất ngây dại. Trong bốn mươi chín ngày là ở tình trạng này. Thông thường chúng ta nói là thân Trung Ấm. Cho nên thân Trung Ấm là mê hoặc, là ngây dại.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.