KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 39
Xin mời mở bản kinh ra, quyển trung trang thứ 33, hàng cuối cùng, bắt đầu xem kinh văn:
“Nhược hữu nữ nhân yếm nữ nhân thân, tận tâm cúng dường Địa Tạng Bồ-tát họa tượng cập thổ, thạch, giao, tất, đồng, thiết đẳng tượng, như thị nhật nhật bất thối thường dĩ hoa hương, ẩm thực, y phục, tăng thái, tràng phan, tiền, bảo vật đẳng cúng dường. Thị thiện nữ nhân tận thử nhất báo nữ thân, bách thiên vạn kiếp cánh bất sanh hữu nữ nhân thế giới, hà huống phục thọ.” (Như có người nữ nào nhàm chán thân gái, hết lòng cúng dường tượng vẽ của Địa Tạng Bồ-tát, và những tượng cất bằng đất, đá, keo, sơn, đồng, sắt, v.v… Ngày ngày thường đem hoa, hương, đồ ăn, đồ uống, y phục, gấm lụa, tràng phan, tiền bạc, vật báu, v.v… cúng dường như thế mãi không thôi. Người thiện nữ mãn một thân gái hiện tại, thời đến trăm nghìn muôn kiếp còn không sanh vào cõi nước có người nữ, huống nữa là thọ thân gái!)
Đoạn này là nói về việc chuyển thân nữ. Sự việc này xã hội hiện nay khác với xã hội trước đây. Xã hội thời xưa ở Trung Quốc, ở Ấn Độ, và có thể ở những nơi khác cũng tương đối giống nhau, địa vị của người nữ trong xã hội tương đối thấp, nghĩa là nam nữ không bình đẳng. Nhưng trong xã hội hiện nay điều này đã khác, là khác với trước đây rồi. Trước đây Phật nói ở trong kinh, thân người nữ chướng ngại, phiền não nhiều, tình chấp nặng hơn so với thân người nam. Cho nên Phật nói ở trong “Kinh Ngọc Da Nữ”, người nữ có mười việc thường hay lo nghĩ. Thứ nhất là lúc chào đời, cha mẹ không vui. Người mẹ sinh được con trai thì rất vui, khi sinh con gái thì tâm vui đó bị giảm đi rất nhiều. Thứ hai, đây là ở trong xã hội trước đây, cha mẹ và người trong gia đình quản lý, giáo dục đối với con gái cũng nghiêm khắc hơn rất nhiều. Mặc dù trưởng thành cũng không được phép giao tiếp với đàn ông bên ngoài. Khách bên ngoài họ là có phân biệt nội ngoại, đây là thường hay sợ gặp người ngoài. Kế đến là lúc gả lấy chồng thì cha mẹ cũng thêm lo lắng. Tóm lại là phải xa rời cha mẹ người thân quyến thuộc, đây là trong Phật pháp gọi là ái biệt ly khổ. Gả đi rồi thì hoàn toàn phải xem người chồng, xem sắc mặt gia đình họ, có biết bao nhiêu là chướng nạn. Lúc thiếu niên thì cha mẹ quản thúc, khi gả đi rồi thì chồng quản thúc, đến lúc già thì con cháu quản thúc, nên rất nhiều khổ sở, cho nên không muốn làm thân nữ. Thời hiện nay, quan niệm này đã khác trước đây rồi, chúng ta hiểu rõ những tình trạng này. Nhưng điểm quan trọng nhất ở trong đây là nói với chúng ta, nghiệp lực có thể chuyển đổi được, chúng ta phải hiểu được đạo lý này. Ngay cả thân hình còn có thể thay đổi được, huống chi là dung mạo, thể chất thân thể, điều đó đương nhiên là dễ hơn nhiều rồi, phải hiểu được đạo lý này. Những gì trong đây nói chẳng qua là nguyên lý cảnh chuyển theo tâm, tâm có thể chuyển cảnh, chúng ta hiểu rõ đạo lý là được rồi. Phương pháp chuyển, chỗ này nói: “Nhược hữu nữ nhân, yếm nữ nhân thân.” (Như có người nữ nào nhàm chán thân gái) trong đoạn phía sau này là: “Thị thiện nữ nhân” (Ấy là người thiện nữ). Từ đó cho thấy, người nữ ở phía trước này là người thiện nữ, nó tỉnh lược bớt một chữ. Chữ này là vô cùng vô cùng quan trọng, chúng ta xem văn phía sau sẽ hiểu được chỗ này. Người nữ này là người thiện nữ. Người thiện nữ nhất định là phụng hành Tam Phước mà trong “Quán Kinh” nói, đây là điều nhất định phải nhớ kỹ. Kinh này là Kinh Đại Thừa, những gì mà trong mười một câu của Tam Phước nói đều phải làm cho được. Làm được đến trình độ nào thì lúc đó hãy bàn luận sau, chỉ cần bạn có thể làm được một vài phần cũng gọi là người thiện nữ, không làm không được, nhất định phải làm được. Họ có cơ sở này, sau đó lại dựa theo lý luận và phương pháp này để tu học thì có thể được quả báo. “Tận tâm”, chữ này là chữ mấu chốt ở trong phương pháp tu hành, nhất định phải tận tâm. Tận tâm tức là dùng tâm thành kính nhất, tâm chân thật nhất để tu cúng dường. Cúng dường hình tượng Bồ-tát Địa Tạng. Hình tượng thì hình ảnh vẽ cũng được, hình tượng nặn đắp cũng được, hình tượng đúc bằng vàng, bạc, đồng, sắt cũng được. Chỗ này nói chỉ cần là cúng dường hình tượng Bồ-tát Địa Tạng, kinh văn phía dưới đều là có ý nghĩa này. Cúng dường là (Ngày ngày mãi không thôi) có thể thấy là phát tâm dài lâu. Đồ cúng đã nêu ra mấy đồ điển hình, dùng hoa cúng dường, dùng hương cúng dường, dùng đồ ăn, đồ uống, y phục, gấm lụa, tràng phan, và tiền tài, bảo vật v.v… để cúng dường. Đây là nói đồ vật cúng dường. Đồ vật cúng dường nhiều hay ít, sang hay hèn là tùy theo năng lực của mình, tuyệt đối không gượng ép. Ở trong đồ cúng hiểu được ý nghĩa của pháp tượng trưng, điểm này phải đặc biệt nhớ kỹ. Nếu như không hiểu pháp tượng trưng, mà chỉ dùng loại hình thức này để cúng dường thì lợi ích đạt được là rất nhỏ nhoi, không thể chuyển nổi nghiệp lực, nhất định phải hiểu được ý nghĩa của pháp tượng trưng. Hay nói cách khác hình tượng Phật Bồ-tát và tất cả đồ vật cúng đều là từng giây từng phút đề cao sự cảnh giác của mình, đức hạnh của bản thân bạn không ngừng nâng cao lên thì bạn có thể được tự tại. Tự tại giống như Phật Bồ-tát vậy, cần dùng thân gì được độ thì họ liền hiện thân ấy. Hay nói cách khác đem nghiệp lực của mình chuyển đổi thành nguyện lực, ý nghĩa quan trọng nhất của đoạn kinh văn này là ở chỗ này. Nguyện lực thọ thân thì tự tại, còn nghiệp lực thọ thân thì không tự tại. Cho nên phương pháp này là dạy chúng ta chuyển nghiệp lực thành nguyện lực. Cúng “Hoa”, chúng ta nhìn thấy hoa liền nghĩ đến phải tu nhân, là hoa nhân của lục độ vạn hạnh. Đặc biệt những gì mà trong “Kinh Hoa Nghiêm” hiển thị, trong kinh điển nói với chúng ta, trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói bất kỳ người nào, bất kể họ sống đời sống như thế nào, họ là thân phận gì, họ làm việc trong ngành nghề nào cũng không có ảnh hưởng, đều có thể tu hạnh Bồ-tát. Hạnh Bồ-tát là gì? Chính là đời sống của họ, chính là công việc trong ngành nghề của họ, chính là sự xã giao thường ngày của họ. Làm sao biến những sự việc này thành hạnh Bồ-tát? Biến thành lục độ vạn hạnh? Mấu chốt là ở tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề là tâm giác ngộ, giác ngộ chân chánh. Giác ngộ cái gì? Giác ngộ thực tướng các pháp. Trong “Kinh Bát nhã” nói: “Ba tâm không thể được, các pháp không có gì sở hữu được” đây là giác ngộ chân chánh. Tâm hạnh của bạn tương ưng với tự tánh, cũng chính là tương ưng với thực tướng tất cả các pháp, thế làm sao bạn không tự tại được? Từ sau khi thật sự giác ngộ rồi, mới biết tận hư không khắp pháp giới là chính mình, bạn mới thật sự hiểu ra, và tự nhiên sẽ sinh khởi lên tâm yêu thương đích thực đối với tất cả người, sự, vật trong hư không pháp giới. Tâm yêu thương này, trong Phật pháp gọi là đại từ đại bi, vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, tận hư không khắp pháp giới cùng thể với mình. Thể này là gì vậy? Thể là chân tâm. Chân tâm chính là chân như, chính là bản tánh. Ở trong kinh điển Phật nói rất nhiều danh tướng, nhưng đều là nói đến một sự việc. Thập pháp giới y chánh trang nghiêm đều là từ chân tâm này biến hiện ra, cho nên tình với vô tình là cùng một thể. Chư Phật Như-lai nhìn thấy chúng sanh thọ khổ, thật sự là như chính mình thọ khổ, nhìn thấy chúng sanh được vui, thật sự là như chính mình được vui, chúng sanh với mình là một thể, đây mới là giác ngộ chân chánh. Chúng sanh, đặc biệt là chúng sanh trong lục đạo rất khổ, vì đã mê mất tự tánh. Mê mất tự tánh, nhưng tự tánh vẫn khởi tác dụng, chứ không phải không khởi tác dụng. Nếu như không khởi tác dụng thế thì không gọi là chân tánh. Nó vẫn là khởi tác dụng. Tuy khởi tác dụng, bởi vì mê mất tự tánh họ vô tình bị nghiệp lực thao túng, nên đời sống của họ liền khổ ngay. Chúng sanh đã giác ngộ rồi bèn xưng là Phật Bồ-tát, là người đã giác ngộ. Thanh Văn, Duyên Giác cũng giác ngộ, nhưng giác ngộ chưa đủ triệt để, chưa đủ viên mãn. Nhưng họ đã có thể thoát khỏi sự khống chế của nghiệp lực. Phật nói ở trong kinh, Thanh Văn Duyên Giác ở trong Tam Đức họ được giải thoát, là giải thoát mới một nửa chứ chưa phải viên mãn. Tại sao vậy? Pháp thân, Bát nhã chưa có chứng được. Ở trong tam đức mật tạng chỉ chứng được một nửa giải thoát, họ xả thân thọ thân cũng tương đối tự tại rồi. Từ đó cho thấy toàn bộ nền giáo dục Phật pháp mấu chốt là ở giác ngộ. Sau khi giác ngộ chúng ta liền được tự tại, là có thể tùy ý hóa thân, không chỉ là chuyển thân nữ thành thân nam. Ý nghĩa của đồ cúng bằng hoa khai thị cho chúng ta nhiều như vậy.
Pháp tượng trưng của “Hương” là tín tâm. Hương tượng trưng cho Tín Hương, là nhất định không có nghi hoặc, sinh lên lòng tin thanh tịnh kiên định đối với lời giáo huấn của Phật Bồ-tát. Hương lại tượng trưng có giới, định. Trong tán hương của chúng ta thường xướng là giới định chân hương. Hương cũng tượng trưng cho ngũ phần pháp thân hương. Có thể thấy nó đều có tính tượng trưng, chúng ta mới có thể đạt được lợi ích chân thật, đây là điểm không thể không biết. “Đồ ăn, đồ uống, y phục”. Cúng dường là biểu thị lòng tôn kính của chúng ta. Chúng ta cần phải ăn uống, chúng ta dùng đồ ăn, đồ uống cúng dường Phật Bồ-tát, thực ra Phật Bồ-tát chẳng cần. Chúng ta cần có y phục, chúng ta dùng y phục cúng dường Phật Bồ-tát. Dùng y phục cúng dường Phật Bồ-tát ở trong chùa chiềng cũng có. Chúng ta nhìn thấy có một số tượng đắp hình Phật Bồ-tát trong chùa chiềng có người cúng dường y, giống như áo khoác vậy, khi khoác lên thân, đó chính là cúng dường y. Cúng dường những đồ cúng này, đều có kinh điển làm y cứ. Cúng dường đồ ăn, đồ uống là rất bình thường, cúng trước Phật, đây là cúng dường đồ ăn, đồ uống. “Gấm lụa, tràng phan” là những đồ trang sức, tức là dùng những đồ bằng tơ lụa cúng dường Phật Bồ-tát để trang nghiêm đạo tràng. Chúng ta hiện nay gọi là giăng đèn kết hoa. Quốc khánh Singapore sắp đến rồi, trên mỗi con đường đều có giăng đèn kết hoa chính là mang ý nghĩa này. “Tràng phan”, đây là vật thường thấy nhất ở trong đồ cúng dường. Trong trang 35 của chú giải, hàng thứ năm trong chú giải, quý vị bắt đầu xem từ trong đó, đây là pháp sư Thanh Liên cung cấp cho chúng ta một chút tham khảo. “Phàm tạo phan pháp” (Phàm là cách tạo phan). Tạo phan là cùng một ý nghĩa với tạo tràng. Nói phan thì có liên đới với tràng ở trong đó. “Thiết bất khả an Phật Bồ-tát tượng cập danh hiệu đẳng. Phan thị cúng cụ cúng ư sở cúng, như hà phục dĩ tượng danh vi chi.” (Trên tràng phan nhất định không được phép in vẽ hình tượng và danh hiệu Phật Bồ-tát ở trên đó. Phan là vật để cúng trước Phật Bồ-tát, sao lại dùng hình tượng và danh hiệu của Phật Bồ-tát vẽ lên đó được.) Hy vọng chúng ta phải nhớ kỹ điểm này. Hiện nay rất nhiều người không biết, cúng phan, trên phan viết danh hiệu Phật Bồ-tát. Sao có thể dùng Phật Bồ-tát đi cúng dường Phật Bồ-tát được. Chúng ta là cúng Phật A-Di-Đà, trên phan lại viết “Nam Mô A-Di-Đà Phật”, dùng Phật A-Di-Đà đi cúng dường Phật A-Di-Đà, quý vị thử nghĩ xem có như pháp hay không? Chỗ này dạy chính xác. Trên tràng phan còn có gì nữa? Dùng hình Phật, trên đó thêu hình Phật, lại đi cúng dường Phật Bồ-tát là hoàn toàn sai rồi! Đây là điểm mà rất nhiều người không có chú ý đến. Ngày nay Phật pháp suy rồi, tuy Phật giáo giống như là rất hưng vượng, nhưng chúng sanh vẫn tạo những nghiệp này, vẫn thọ những khổ báo này, là do trong cách cúng dường của chúng ta sai rồi, có khi còn phạm sai lầm lớn hơn nữa. Chúng tôi nhìn thấy có pháp sư, đại pháp sư đắp tổ y màu đỏ lên người, trên tổ y còn thêu hình Phật, cái này không được phép. Tất cả chư Phật đều biến thành y phục của bạn rồi. Ngay cả tràng phan còn bị lỗi lầm, bạn lại đem hình ảnh Phật Bồ-tát mặc trên người, vậy thì không được. Xin nói trở lại, chúng ta ngày nay đem danh hiệu Phật in trên y phục của chúng ta, có được hay không? Được. Tại sao được? Đây là chúng ta vì độ hóa chúng sanh, là hy vọng tất cả chúng sanh vừa qua căn tai vĩnh viễn thành hạt giống đạo, dụng ý của chúng ta là ở chỗ này. Nếu như bạn đem hình ảnh Phật Bồ-tát thêu lên y phục mặc đi trên đường để độ chúng sanh thì được! Là được phép. Vấn đề là xem dụng ý của bạn là gì? Nếu tâm của bạn dùng là thiện, là chân thành thì có vô lượng công đức. Nếu như cái tâm này không phải vì lợi ích chúng sanh, không phải vì tuyên truyền Phật pháp, thế thì bạn tạo tội nghiệp rồi! Nhưng tràng phan là ở đạo tràng, trong đạo tràng cúng dường có tượng Phật, vậy là không nên. Nếu như tràng phan treo ở trên cột cờ, thì được! Tại sao vậy? Để cho đại chúng bên ngoài thấy, có rất nhiều người không tin Phật, để cho họ nhìn thấy trên tràng phan có danh hiệu Phật, hoặc giả có đề kinh của kinh, vậy đều tốt. Đây là gì? Mục đích của chúng ta chẳng qua là khiến tất cả chúng sanh có duyên tiếp xúc Tam Bảo, đều ở chỗ dụng ý. Cho nên quan hệ của dụng ý là rất lớn. Hiện nay chúng ta thấy quan tòa phán xử, trước tiên phải hỏi động cơ của bạn. Nếu như động cơ là lương thiện, thì dù làm sai cũng có thể tha thứ được. Nếu động cơ là bất thiện, thì dù có làm việc tốt bạn cũng có tội lỗi, có thể thấy quan hệ của động cơ là vô cùng lớn. Chỗ này nói “Tận tâm”, tận tâm chính là nói động cơ. Trước đây có một số hòa thượng kể cho chúng tôi câu chuyện, có lẽ chuyện này cũng là thật sự có như vậy.
Kể rằng có một người xuất gia, nhìn thấy một pho tượng Phật thờ ở ngoài trời, lúc này là trời rất nắng. Sau khi ông nhìn thấy thì rất khó chịu, Phật ở chỗ này bị phơi nắng, không có gì che, mà mình cũng vô phương, trong người chẳng có gì cả, suy nghĩ thấy dưới chân có mang một đôi giày cỏ, bèn nghĩ ta đem đôi giày cỏ này cúng Phật, liền đem đôi giày cỏ che trên đỉnh đầu đức Phật để ngài không bị nắng, còn mình đi chân trần. Tâm tốt, ông được thiện báo. Sau khi ông đi rồi, về sau không bao lâu lại có một người xuất gia đi ngang qua chỗ này, nhìn thấy trên đỉnh đầu Phật có đôi giày cỏ, bèn tự hỏi người nào tạo tội nghiệp này? Vội vàng lấy nó xuống, và lau chùi đỉnh đầu Phật rất sạch sẽ. Hai người đều là tâm tốt, hai người đều là tâm cung kính, đều được phước báo. Tại sao vậy? Do động cơ đều rất tốt. Cho nên chúng ta phải biết, hành thiện bằng một tâm thiện chân thành, nên việc họ làm đều không có lỗi lầm, phải hiểu được ý nghĩa này. Tràng phan ở trong đại điện Phật đường tốt nhất không được dùng hình ảnh Phật Bồ-tát, không dùng danh hiệu Phật. Tốt nhất dùng cái gì? Hiện nay chúng ta dùng cái này là tốt, “học là để làm thầy, làm là mô phạm cho đời.” dùng cái này để in trên tràng phan, chúng ta dùng cái này cúng dường là tốt! Hiện nay thật sự tông chỉ của chúng ta, phương hướng của chúng ta, mục tiêu mà bản thân chúng ta tu học là dùng chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi. Thấy ra, buông xả, tùy duyên, niệm Phật. Nếu như dùng cái này viết lên tràng phan, tốt! Chúng ta dùng cái này để cúng Phật. Cách cúng Phật này trong Phật pháp gọi là cúng dường pháp. Điều thứ nhất trong cúng dường pháp là cúng dường y giáo tu hành. Trong đồ vật cúng dường của chúng ta từng giây từng phút nhắc nhở chúng ta cúng dường y giáo tu hành, vậy là chính xác, là đáng để chúng ta đề xướng. Nhưng hiện nay thông thường đều là dùng danh hiệu Phật Bồ-tát, có ai nghĩ đến đạo lý này đâu? Đây là đặc biệt nêu ra hy vọng mọi người chú ý đến vấn đề này. Tiền bạc, vật báu. Đây là xả tài. Xả tài là gì? Xả lòng tham, biểu thị xả lòng tham cúng dường. Bởi vì tiền bạc, vật báu là hầu hết mọi người đều xem rất nặng. Sau cùng chú giải này của Ngài là: “Có thể xả mạng tài mà tâm chẳng tiếc nuối, bên trong dập tắt xan tham thì được phước vô lượng.” Những lời này tứ chúng đồng tu chúng ta xem thấy trong kinh điển rất nhiều, cũng nghe thấy rất nhiều, mà không có ai tin. Tại sao không tin? Chưa có nhìn thấy, không có chứng cứ. Tuy đọc kinh, tuy nghe kinh hiểu được sự việc này, tự mình cũng tu, tu phước, nhưng xả tài bao giờ cũng chỉ xả có một chút xíu. Ta có một vạn đồng, xả một đồng là được rồi, làm việc tốt. Cho nên phước họ được là rất hữu hạn, họ không thể xả hoàn toàn. Thế gian này người giàu có thí xả không bằng người nghèo. Người nghèo đằng nào cũng có bấy nhiêu đó, không có cũng bấy nhiêu đó, vẫn phải chịu đời sống cực khổ suốt ngày như vậy, nên thường thường họ có thể xả được, xả phần lớn trong số tài sản của họ. Phật có kể với chúng ta một câu chuyện công án ở trong kinh điển là ăn xin, đây là người ăn xin ở ngoài đường, người ta cho anh ta một đồng xu. La Hán, Phật Bích Chi nhìn thấy rồi, không có phước! Thọ khổ báo bần cùng, do nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ không tu phước, nên tạo cơ hội cho anh ta gieo phước. Gieo phước như thế nào? Xin tiền của anh ta xin được. Người ta bố thí cho anh, đồng xu đó là của anh, anh đem ra cúng dường cho tôi, anh sẽ được phước. Người ăn xin nghe xong thế nào? Nghĩ mình khổ, nghe nói cúng dường A-la-hán, Phật Bích Chi thì phước báo rất lớn, anh ta bèn đem đồng xu đó cúng dường cho Ngài. Một đồng xu đó là toàn bộ tài sản của anh ta, anh ta chỉ có chừng đó tiền, cúng dường toàn bộ rồi, và được quả báo không thể nghĩ bàn, mấy chục kiếp không thọ khổ báo bần cùng. Đây là chứng tỏ, bố thí là tận tâm bố thí, tận lực bố thí thì phước báo là cứu cánh viên mãn. Chuyện Phật độ những người bần cùng, thấp hèn, xin ăn là rất nhiều. Những người này không bao lâu sau khi mạng chung được sanh thiên. Người thế gian chúng ta không có nhìn thấy họ sanh thiên, không có nhìn thấy họ ở trên trời hưởng phước. Sau khi bố thí không được bao lâu thì họ chết rồi. Người thế gian nhìn thấy là hiện tượng này, cho nên không thể sinh lên niềm tin được. Tuy chúng ta không có nhìn thấy, nhưng chúng ta hiểu rõ đạo lý này, khẳng định mạng sống nhất định không phải chỉ một đời này. Chúng ta có đời quá khứ, chúng ta còn có đời vị lai. Thật sự có thể tin có đời sau, thì đối với những sự lý mà Phật nói trong kinh này bạn có thể tin được, có đời sau. Đời này khổ một chút cũng không có sao cả, đây là do đời quá khứ không có tu nhân thiện. Đời này phải cố gắng tu, thì đời sau được quả báo thù thắng nhất. Quả báo của tận tâm bố thí này là không thể nghĩ bàn. Chúng ta cúng dường một vị Phật, một vị Bồ-tát là rất khó! Không tìm thấy. Chỉ có thể cúng dường hình tượng Phật Bồ-tát. Nếu thế gian có Phật thật, có Bồ-tát thật, vậy thì phước cúng dường đó sẽ rất lớn. Phật thật, Bồ-tát thật ở đâu vậy? Người tu hành chân chánh. Nhưng là nảy sinh vấn đề rồi. Người tu hành chân chánh đời sống đều vô cùng thanh bần khổ cực, bạn cúng dường họ, họ không tiếp nhận, họ không cần. Từ đó cho thấy, ruộng phước là rất khó tìm. Bạn muốn gieo phước, ruộng phước ở đâu? Thật sự là tương đối chẳng dễ. Ruộng phước chân chánh là đạo tràng tu hành chân chánh, chúng ta đến đạo tràng này gieo ruộng phước. Trong đạo tràng này thiếu cái gì thì chúng ta cúng dường cái đó. Nếu như chúng trụ ở đó quá đông, cần phải mở rộng chỗ ở, chúng ta cúng dường chỗ ở. Bạn ở bên cạnh cố gắng quan sát, cúng dường nhiều thêm, khi thấy họ tu hành không có thối chuyển, đây mới là ruộng phước chân chánh, phước cúng dường này là vô lượng vô biên. Phước báo của một ngày cúng dường còn không thể nghĩ bàn, huống chi hằng ngày không thối chuyển. Phước này bao lớn vậy? Ngày nay đạo tràng Cư Sĩ Lâm ở Singapore, là đạo tràng do cư sĩ xây dựng nên. Những vị cư sĩ này thông tông thông giáo, hộ trì chánh pháp. Không những hộ trì, còn chủ trì chánh pháp, xây dựng niệm Phật đường, để dành cho đồng tu niệm Phật trên toàn thế giới đến nơi đây để tinh tấn niệm Phật, mỗi ngày 24 giờ không gián đoạn. Người niệm Phật chân chánh phát tâm đến đạo tràng này để niệm một ngày một đêm, đó đều là nhân thiện thành Phật tương lai của bạn, là điều kiện quan trọng thành Phật trong tương lai của bạn. Bạn có thể phát tâm, hằng ngày ở nơi này niệm Phật, thì công đức này không thể tưởng tượng! Cho nên đạo tràng này, không phải đạo tràng phổ thông. Mọi người đến nơi đây là để làm Phật, nên việc cúng dường đối với đạo tràng này, phước đức ngoài Phật ra không ai có thể nói được, là công đức chân thật. Cái lý, sự này chúng ta đều phải biết, phải hiểu rõ thấu triệt. Hy vọng đạo tràng giống như thế này cũng có thể được xây dựng ở các khu vực quốc gia khác. Việc xây dựng đạo tràng này tất nhiên sẽ cảm được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần bảo vệ hộ trì. Lợi ích công đức trước mắt thì không thể nghĩ bàn, người cúng dường được phước báo lớn, người tu hành được thiện lợi lớn. Cho nên cúng dường phải như pháp, bố thí cúng dường đều phải như pháp. Đoạn này dưới đây, đây là nói quả báo của họ, chuyển quả báo. Chuyển quả báo chúng ta ở chỗ này có thể xem nó thành có cầu ắt ứng. Nghiệp báo không có chuyện không thể thay đổi. Hai câu nói phía trước trong chú giải vô cùng quan trọng. “Việc chuyển báo khó, chỉ cần tinh thành”. Tám chữ này quan trọng. Nếu như bạn thật sự làm được đến mức tinh thành, thì chuyển báo sẽ không khó. “Người thiện nữ mãn một thân gái hiện tại, thời đến trăm nghìn muôn kiếp còn không sanh vào cõi nước có người nữ, huống nữa là thọ thân gái!” Thế giới không có người nữ, trong chú giải cũng nói: “Tức là chỉ Tây Phương Cực Lạc”. Thế giới Tây Phương Cực Lạc không có thân nữ, sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì thân tướng là hoàn toàn giống như Phật A-Di-Đà. Cho nên chúng ta hiện nay thờ Tây Phương Tam Thánh, chúng ta thảy đều thờ hình tượng Phật A-Di-Đà, thờ ba tôn tượng. Chính giữa là Phật A-Di-Đà, bên này là Quan Thế Âm Bồ-tát, bên kia là Bồ-tát Đại Thế Chí. Tại sao đều giống nhau vậy? Thế giới Tây Phương Cực Lạc thật sự là giống nhau. Cách thờ này của đạo tràng chúng ta là hoàn toàn phù hợp với những gì trong kinh nói, hoàn toàn giống nhau. Tướng chúng ta vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng giống như Phật A-Di-Đà vậy, thân có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp, không phải 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Niệm Phật đường của chúng ta, tất cả tượng thờ thảy đều giống nhau. Đó là gì? Liên Trì hải hội. Trong những tượng đó chỉ có một tôn tượng là Phật A-Di-Đà, còn lại là tượng của mọi người chúng ta. Tượng của chúng ta đều giống như Phật A-Di-Đà vậy, khiến cho chúng ta ở trong niệm Phật đường có loại cảm xúc sâu đậm này. Đây chính là chuyển thân nghiệp báo của mình thành thân tướng thù thắng nhất của Như-lai.
Xem tiếp kinh văn dưới đây: “Trừ phi từ nguyện lực cố, yếu thọ nữ thân độ thoát chúng sanh” (Trừ khi vì lòng từ cần phải thọ thân gái để độ chúng sanh.)
Đây là muốn dùng thân nữ để độ chúng sanh thì cũng có thể thỏa nguyện tùy ý. Ở trong chú giải chú rất hay, Ma Gia phu nhân, đây là mẫu thân của Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng là chư Phật tái lai chứ không phải người bình thường. Cần dùng thân người nữ mà được độ, Ngài liền hiện thân người nữ. Nguyện của Ngài không giống với nguyện của người khác, nguyện của Ma Gia phu nhân là: “Vĩnh viễn làm mẹ của nghìn vị Phật”. Ngài phát cái nguyện này, phát nguyện làm mẹ của Phật. Dưới đây chú giải rất hay: “Đó là pháp môn thuận ái độ chúng sanh.” Tình ái của chúng sanh rất sâu, thuận theo tình ái của bạn để độ bạn. Đây là đồng sự nhiếp ở trong “Tứ nhiếp pháp”. Phật và pháp thân đại sĩ họ có năng lực này, thật sự làm được đến hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Bên dưới lại nêu ra ví dụ, Bà Tu Mật Đa Nữ trong “Kinh Hoa Nghiêm”, ở trong “Tứ Thập Hoa Nghiêm” gọi là Phạt Tô Mật Đa Nữ, đây là dịch âm khác nhau. Thân phận Bà Tu Mật Đa thị hiện là gì? Trong xã hội hiện nay của chúng ta gọi là thân phận kỹ nữ. Ngài thị hiện là thân phận kỹ nữ, rộng độ chúng sanh. Hễ người nào tiếp xúc với Ngài, đều được Ngài độ thoát cả. Cho nên bạn nói có pháp nào không phải Phật pháp? Có thân phận nào không phải Bồ-tát? Bồ-tát ngành nghề nào họ cũng hóa thân vào, già trẻ nam nữ, các ngành các nghề đều có Bồ-tát ở trong đó, đều có Phật ở trong đó, phàm phu chúng ta không biết. Sau cùng Ngài kết luận rằng: “Và dùng từ ái tam muội”. Ở trên hiện tướng và tác dụng là từ ái. Ở bên trong thì thanh tịnh, vô nhiễm. Là giống như lời trong Tông Môn nói: “Bước qua rừng hoa mà thân không chạm lá” Tâm địa họ thanh tịnh, bình đẳng, giác. Thị hiện bên ngoài là từ ái, đây gọi là từ ái tam muội. Ngài dùng nguyện lực này thị hiện thân nữ. Phía dưới nói: “Trước dùng dục dẫn dắt, sau khiến cho vào trí Phật” Họ trong đó có phải có tham ái hay không? Không có. Ngài là độ một số chúng sanh tình chấp sâu nặng này, giúp họ thành Phật, giúp họ lìa bỏ tham sân si, giúp họ giác ngộ. Ngài có định công, Ngài có trí tuệ, Ngài có phương tiện thiện xảo. Nếu như bạn định công, trí tuệ, phương tiện chưa đến trình độ này mà học theo các Ngài. Vậy được rồi, chắc chắn sẽ vào địa ngục. Đây là công phu chưa đến thì tuyệt đối không được phép học theo. Cho nên tứ nhiếp pháp của Bồ-tát tôi thường hay khuyên các đồng tu có thể học ba loại phía trước, còn loại phía sau này phải xem lại năng lực của mình, sau cùng là đồng sự, phía trước là bố thí, ái ngữ, lợi hành, cái này không có sao cả, không có tác dụng phụ gì. Điều sau cùng này nhất định phải xem trí tuệ, định lực của mình mới được, không được phép tùy tiện học theo.
“Thừa tư cúng dường Địa Tạng lực cố, cập công đức lực bách thiên vạn kiếp bất thọ nữ thân.” (Nương nơi phước cúng dường Địa Tạng Bồ-tát và sức công đức đó, trong trăm nghìn muôn kiếp chẳng còn thọ thân người nữ lại nữa.)
Ở trong cúng dường tuy nói sự, nói sự bạn nhất định phải rõ lý, nói lý bạn nhất định phải hiểu sự thì bạn mới có thể có được lợi ích chân thật, tuyệt đối không được lệch về một bên. Lệch về một bên đều là sai lầm, bạn hoàn toàn làm lệch lạc ý của Phật rồi. Trước đây lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam dạy chúng tôi giảng kinh, chính ông cụ thường nói, kinh nói về sự rất khó giảng, ví dụ những kinh nào vậy? “Kinh Địa Tạng”, “Kinh A-Di-Đà”, nó nói là sự, nói ra những sự việc này, bạn có thể khiến cho người ta tin không? Cho nên giảng những kinh này rất khó, rất khó. Kinh gì dễ giảng nhất? “Kinh Kim Cang” là dễ giảng nhất. Nói lý nói đến đâu bạn gật đầu đến đó, bạn không thể không tin. Kinh nói lý dễ giảng, “Kinh Lăng Nghiêm” dễ giảng, kinh nói về sự khó giảng. Cho nên nói sự nhất định phải nói lý cho thấu triệt thì sự người ta mới có thể tin. Kinh nói lý nhất định phải nói sự cho rõ ràng, thì lý này mới áp dụng vào trong sự được, mới có thể được thọ dụng, nếu không thì sẽ trở thành bàn chuyện huyền ảo. Tuy lý nói rất hay, mà trên sự không làm được. Cúng dường Địa Tạng, nhất định phải hiểu lý luận của cúng dường, pháp tu cúng dường chân chánh, từ trong sự hiển lý. Chúng ta biết sự tướng đều là pháp tượng trưng. Sự lý ở trong đây nếu như hoàn toàn làm rõ ràng rồi, đến lúc đó cái gì cúng dường? Phía trước nói “tận tâm cúng dường”. Tận tâm đến mức độ nào? Toàn bộ thân tâm đều cúng dường, công đức đó đương nhiên là không thể nghĩ bàn. Toàn bộ thân tâm đều cúng dường. Lời này nói thế nào? Tức là Phật ở trong kinh thường nói: “Thọ trì, đọc tụng, vì người diễn thuyết”. Thân thể này của chúng ta đời này kiếp này biểu diễn cho đại chúng xã hội thấy, khiến cho đại chúng xã hội thấy rồi giác ngộ, vậy chẳng phải bạn toàn thân đều cúng dường rồi sao? Ở trong đời sống từng li từng tí đều làm tấm gương tốt cho tất cả chúng sanh, hiển thị sự chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi của mình một cách viên mãn, nhằm giáo hóa chúng sanh. Ở trên sự dạy người thấy ra, buông xả, tự tại, tùy duyên, đây chính là cúng dường. Địa Tạng là biểu thị cho cái gì? Địa Tạng là biểu thị cho hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy tổ. Áp dụng vào trong cơ sở của đạo hiếu, áp dụng vào trong sư đạo, bạn là thật sự tận tâm cúng dường Bồ-tát Địa Tạng. Cho nên quý vị phải biết, nếu chỉ có những hình thức cúng dường hương, hoa, đồ ăn, đồ uống, y phục này mà không hiểu ý nghĩa, ở trong mình vẫn là tham sân si mạn, vẫn là thị phi nhân ngã, thì cách cúng dường này là mê tín. Cách cúng dường này làm gì có công đức để nói? Cho nên cúng dường từ trên sự tướng chúng ta đạt đến tận tâm cúng dường. Cái sự này là biểu thị cho tâm, đây là cúng dường chân thật. Ở trong hạnh nguyện Phổ Hiền nói cúng dường pháp, cúng dường pháp đã nói bảy câu. Ở trong cúng dường pháp quan trọng nhất là, cúng dường y giáo tu hành. Hay nói cách khác, những gì Phật ở trong kinh dạy chúng ta làm chúng ta đều làm được rồi. Phật dạy chúng ta làm thì chúng ta làm, Phật dạy chúng ta không được phép làm thì chúng ta tuyệt đối không làm. Kinh điển là giống như kịch bản, tứ chúng đệ tử chúng ta là giống như diễn viên, nhất định phải dựa theo kịch bản này mà biểu diễn, làm cho chúng sanh mê hoặc trong lục đạo giác ngộ. Mục đích chúng ta biểu diễn là giúp họ giác ngộ, cho nên phải diễn giống như thật. Đem kịch bản này biểu diễn toàn bộ ra. Hay nói cách khác, tất cả kinh điển chính là đời sống của chúng ta, chính là tư tưởng của chúng ta, chính là kiến giải của chúng ta, chính là hành vi của chúng ta, vậy gọi là tận tâm cúng dường. Bạn có thể làm được rồi, nói lời thành thật bạn đã thành Phật rồi. “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” bạn hoàn toàn làm được rồi thì bạn chính là Bồ-tát Địa Tạng. “Kinh Vô Lượng Thọ” bạn thảy đều làm được rồi, thì bạn chính là Phật vô lượng thọ. Không làm không được, nhất định phải chăm chỉ nỗ lực làm. Vậy mới gọi là: “Nương nơi phước cúng dường Địa Tạng Bồ-tát và sức công đức đó.” “Sức công đức” là thiện tâm, nguyện tâm của bạn vĩnh viễn không dứt, vậy mới có thể thành tựu quả đức thù thắng viên mãn.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.