KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 21
Lần trước giảng đến đoạn Bồ-Tát Định Tự Tại Vương xin hỏi Thế Tôn, Bồ-tát Địa Tạng từ kiếp lâu xa đến nay đã phát những nguyện gì mà được Thế Tôn ân cần tán thán, thỉnh cầu Phật khai thị sơ lược cho đại chúng biết. Thế Tôn nói với Bồ-Tát Định Tự Tại Vương, trên thực tế là Bồ-tát hỏi thay cho chúng ta. Đức Phật bảo Bồ-Tát Định Tự Tại Vương hãy lắng nghe, chính là bảo chúng ta phải dụng tâm nghe pháp, lắng lòng lĩnh hội. Phật kể lại đây là chuyện trước đây rất lâu, kiếp lâu xa về trước, vào thời đó có một đức Phật, hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như-Lai. Tuổi thọ của Phật là sáu vạn kiếp. Từ đó cho thấy, chúng sanh ở thời đại đó, tất nhiên là đoạn ác tu thiện, nên chiêu cảm được quả báo thù thắng như vậy. Lúc Phật chưa có xuất gia, Ngàilà vua của một nước nhỏ làm bạn với vị vua nước láng giềng vô cùng thân mật. Vua của hai nước nhỏ này, đều là dùng thập thiện để cai quản quốc gia, dạy bảo nhân dân cả nước đoạn thập ác, tu thập thiện,đương nhiên hai quốc gia này được quốc thái dân an,nhân dân đều sống rất hạnh phúc. Nhưng ngoài cái khu vực này của họ ra, những khu vực khác thì không được như thế. Tất cả chúng sanh nơi đó tạo tác ác nghiệp rất nhiều. Hai vị quốc vương này cùng nhìn thấy hìnhnhư cục diện của toàn thế giới [là như vậy], nên hai người họ bèn bàn tính, làm thế nào giúp cho nhân dân của những khu vực quốc gia ấy. Chúng ta giảng đến chỗ này. Tiếp theo quý vị xem kinh văn.
“Kỳ lân quốc nội, sở hữu nhân dân đa tạo chúng ác, nhị vương nghị kế, quảng thiết phương tiện.” (Nhơn dân trong hai nước lân cận đó phần nhiều tạo những việc ác. Hai Vua cùng nhau bàn tính tìm những phương chước để dắt dìu dân chúng ấy.)
Làm thế nào cứu vãn vận mạng của thế giới, hai vị tiểu quốc vương này đang bàn tính.
“Nhất vương phát nguyện tảo thành Phật đạo đương độ thị bối lệnh sử vô dư.” (một ông phát nguyện: “Tôi nguyện sớm thành Phật sẽ độ dân chúng ấy làm cho đều được giải thoát không còn thừa.)
Một vị vua phát nguyện, chỉ có thành Phật mới có thể rộng độ chúng sanh. Nếu như không thành Phật, tuy có cái nguyện này, mà nguyện này trái lại với tâm. Chúng ta thường nói: lực bất tòng tâm, vẫn là vô phương. Vậy liền phát tâm cầu đạo, muốn thành Phật.
“Nhất quốc phát nguyện: Nhược bất tiên độ tội khổ lệnh thị an lạc đắc chí Bồ đề, ngã chung vị nguyện thành Phật.” (Một ông phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ làm cho đều đặng an vui chứng quả Bồ Đề, thời tôi nguyện chưa chịu thành Phật.)
Hai vị vua này phát nguyện khác nhau. Vị vua này phát nguyện, chưa độ bản thân, độ chúng sanh trước. Đây gọi làphát tâm Bồ-tát, không phải vì mình, muốn vì người khác. Đoạn kinh văn này, chúng ta cần phải hiểu rõ ý nghĩa chân thật của nó. Chúng ta có thể phát cái nguyện không độ mình, mà độ chúng sanh trước này hay không? Nếu như thật sự phát nguyện tất cả vì chúng sanh, tất cả vì Phật pháp này, thật sự là không có mình. Ngã và ngã sở đều đoạn rồi, thì được,cái đó không có vấn đề. Nếu như vẫn còn nhân-ngã, vẫn còn thị-phi, vẫn còn được-mất, thế thì không được rồi. Hay nói cách khác, bạn không thể thoát khỏi lục đạo. Phàm là người không thể thoát khỏi lục đạo nhất định phải giác ngộ, từ vô thủy kiếp đến ngày nay chúng ta đã tích lũy bao nhiêu tội nghiệp, đây là lời chân thật. Tội nghiệp không phải tạo trong đời này, mà là tội nghiệp từ đời đời kiếp kiếp tích lũy lại, đâu có lý nào không đọa ác đạo? Đâu có lý nào không đọa địa ngục? Bạn chắc chắn bị đọa lạc. Bạn đọa lạc vào ba đường ác, thì lấy cái gì để độ chúng sanh? Cho nên quý vị nhất định phải biết, nhất định phải chứngđược A-la-hán trở lên mới có thể nói ta độ chúng sanh trước, chúng sanh không thành Phật, thì ta không thành Phật. Ở mức thấp nhất là quả A-la-hán, thoát khỏi lục đạo luân hồi rồi. Vào trong lục đạo đó là thị hiện để giúp chúng sanh. Mình muốn thành Phật, vẫn còn một khoảng cách rất xa, ta từ từ hẵng làm,nay ta độ chúng sanh trước, vậy mới được, bản thân bạn có khả năng mới được. Không có khả năng, phát cái nguyện này là nguyện suông. Cho nên chỗ này chúng ta phải đặc biệt lưu ý, dứt khoát không được sinh ra hiểu lầm. Phương pháp thù thắng nhất, đây là đối với chúng tamà nói, chúng ta tập khí nghiệp chướng sâu nặng. Người mà một phẩm phiền não chưa có năng lực đoạn, phương pháp tốt nhất là phát tâm cầu sanh Tịnh Độ. Cầu Tịnh Độ, nói lời thành thật, nếu chúng ta muốn mình tu hành chứng được quả A-la-hán, là không đơn giản. Nói lời thành thật làkhông làm được. Nhưng vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc thì người nào cũng có thể làm được. Về thế giới Tây Phương Cực Lạc rồi, có phải đã thành Phật hay chưa vậy? Chưa. Một phẩm phiền não còn chưa đoạn. Người vãng sanh về phàm thánh đồng cư độ phiền não chưa đoạn. Nhưng được uy thần bổn nguyện của Phật A-Di-Đà gia trì, cộng thêm thiện lực của mình, mình phải có tâm nguyện, có chút thiện lực, cảm ứng đạo giao với chư Phật Bồ-tát, vào lúc này thì được. Ta không vội thành Phật, ta gấp rút độ chúng sanh trước, học Bồ-tát Địa Tạng, đó là bạn có năng lực, bạn được uy thần bổn nguyện của Phật A-Di-Đà gia trì, có thể đi đến mười phương thế giới, cần dùng thân gì độ hóa liền thị hiện thân ấy. Bồ-tát Địa Tạng cũng là như vậy. Tôi kể với mọi người về phu nhân của ông Chu Bang Đạo gặp Bồ-tát Địa Tạng, manghình tướng tỳ kheo xuất gia, cần dùng thân gì được độ, liền thị hiện thân ấy. Cần dùng thân Phật để độ, thì Bồ-tát Địa Tạng cũng thị hiện bát tướng thành đạo, cũng có thể thị hiện thân Phật. Cho nên điểm này chúng ta nhất định phải làm cho rõ ràng, dứt khoát không được hiểu lầm. Chúng tôi ở Đài Loan đã từng nhìn thấy có một số pháp sư phát tâm, phát tâm rất lớn, không muốn thành Phật, muốn đời đời kiếp kiếp ở thế giới này làm pháp sư độ chúng sanh.Nhưng tướng trạng lúc ra đi đều không tốt, thật sự không bằng một cư sĩ tại gia niệm Phật, là người niệm Phật. Đã nhiều năm nay tướng lành của cư sĩ tại gia niệm Phật vãng sanh của chúng ta, có người không bị bệnh, biết trước giờ đi, đang đứng mà đi, đang ngồi mà đi là rất nhiều. Còn trong pháp sư xuất gia một người cũng không có. Chỗ này không được hiểu lầm.Họ quả thật sự là có năng lực, lúc làm tiểu quốc vương, đây là thị hiện. Thân phận chính của họ là gì chúng ta không biết. Phật kể ra hai vị quốc vương này:
“Phật cáo Định Tự Tại Bồ-tát: “Nhất vương phát nguyện tảo thành Phật giả tức Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như-Lai thị. Nhất vương phát nguyện vĩnh độ tội khổ chúng sanh vị nguyện thành Phật giả tức Địa Tạng Bồ-tát thị.”” (Đức Phật bảo Ngài Định Tự Tại Vương rằng: “Ông Vua phát nguyện sớm thành Phật đó, chính là đức Nhứt Thiết Trí Thành Tựu Như-Lai. Còn ông Vua phát nguyện độ chưa hết những chúng sanh tội khổ thời chưa nguyện thành Phật đó, chính là Ngài Địa Tạng Bồ-tát đây vậy.)
Bồ-tát Địa Tạng từ nhiều kiếp đến nay luôn luôn phát nguyện, cái tâm nguyện đó vĩnh viễn không thối chuyển, đây là điểm đáng để chúng ta noi theo. Cho nên nếu chúng ta thật sự muốn phát tâm thì phải học theo Bồ-tát Địa Tạng.Công đức thù thắng của Bồ-tát Địa Tạng là tất cả những Bồ-tát khác không thể sánh bằng. Phật ở trong kinh này nói, ngoài Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm ra, những Bồ-tát khác đều không thể sánh bằng. Mặc dù những vị Bồ-tát lớn như Quan Âm, Văn Thù, Phổ Hiền này, ở trên tâm nguyện mà nóithì Bồ-tát Địa Tạng hơn hẳn các Ngài. Nhưng chúng ta ở trong Phật pháp Đại Thừa tiếp xúc nhiều rồi, chúng ta biết tất cả nguyện hạnh của Bồ-tát chính là trí tuệ đức năng trong tự tánh của chính mình. Tâm nguyện giúp đỡ chúng sanh khổ nạn này của chúng ta đặc biệt mạnh, đây chính là ở trong tất cả pháp Bồ-tát thì pháp môn Địa Tạng là thù thắng nhất, đạo lý là ở chỗ này. Đặc biệt là chúng ta ngày nay nhìn thấy thế giới này hiện nay, chúng sanh khổ nạn vô biên, vẫn cứ không ngừngtạo tội nghiệp nặng, không biết quay đầu, đã mê mất tự tánh, khởi tâm động niệm toàn là tội lỗi, đều là vì mình, vì lợi ích của cá nhân, không quan tâm đến an toàn của xã hội. Mặc dù học Phật, nhưng tập khí tự tư tự lợi sâu nặng, họ đoạn không nổi, không qua nổi sự cám dỗ của cảnh giới bên ngoài. Bên ngoài vừa cám dỗ, thì phiền não bên trong lập tức khởi hiện hành, quên sạch sẽ Phật pháp hết.Người học Phật còn như vậy, huống chi người không học Phật. Cho nên ngày nay quả thật sự mà nói, nhất định phải noi theo Bồ-tát Địa Tạng, tuyên dương pháp môn của Bồ-tát Địa Tạng, nhất định phải bắt đầu làm từ bản thân mình đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nếu như nguyện hạnh của chúng ta khẩn thiết, trước khi chưa sanh về Tịnh Độ, đã được Phật A-Di-Đà, được tất cả chư Phật Như-lai gia trì, khiến chúng ta tiêu tai diệt tội, tăng trưởng trí tuệ, tăng trưởng năng lực, có thể giảng tốt bộ kinh này, giảng khiến cho đại chúng thích nghe, sinh tâm yêu thích, vui vẻ y giáo phụng hành. Loại trí tuệ, năng lực này không phải là của mình, là do Phật lực gia trì. Mình là phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, làm gì có năng lực này? Đã là được chư Phật Như-lai gia trì, được long thiên thiện thần ủng hộ, thì mình phải càng vui mừng, càng chăm chỉ, càng nỗ lực hơn, không được cô phụ sự hộ niệm của chư Phật Bồ-tát, phải làm tốt hơn, làm đúng như pháp hơn, làm viên mãn hơn. Chúng ta học tập theo những chỗ này, thế thì không bị sai rồi. Dưới đây Thế Tôn lại kể cho chúng ta một mẩu chuyện trong lúc tu hành nhân địa của Bồ-tát Địa Tạng. Mời xem kinh văn:
“Phục ư quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ-kiếp, hữu Phật xuất thế, danh Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như-Lai. Kỳ Phật thọ mạng tứ thập kiếp.” (Lại vô lượng vô số kiếp về thuở trước, có đức Phật ra đời, hiệu là Liên Hoa Mục Như-Lai. Đức Phật đó thọ bốn mươi kiếp.)
Chúng ta nhìn từ trên tuổi thọ, liền biết phước báo của người lúc đó, thật sự là không thể nghĩ bàn. Phần trước chúng ta xem thấy tuổi thọ sáu vạn kiếp, còn chỗ này xem thấy bốn mươi kiếp, đều là dùng kiếp để tính. Quay về thử nghĩ nhân gian chúng ta hiện nay tuổi thọ chỉ có 100 tuổi, là trường thọ. [Những người]chưa đến 50 tuổi mà đã đi rồi rất nhiều. Nếu quý vị mỗi ngày thử xem trên báo chí đăng những bài văn cáo phó này, [người] chưa đến 50 tuổi qua đời, chiếm khoảng hơn một nửa. Người xưa nói: Đời người sống được 70 tuổi là xưa nay hiếm, là rất ít rồi. Tất cả phước báo dùng tuổi thọ để biểu thị. Bạn xem thấy chúng sanh tuổi thọ dài, tuổi thọ của Phật giống như tuổi thọ của chúng sanh vậy. Ngài thị hiện nhất định là bằng nhau, không thể có chuyện đặc biệt hơn. Là biết chúng sanh thời đại này, trí tuệ, đức hạnh của họ chiêu cảm được phước báo. Điều này chúng ta lĩnh hội được rất sâu ở trong Kinh Đại Thừa. Y chánh trang nghiêm là do tâm tánh biến hiện ra. Tâm địa lương thiện thì biến hiện ra cảnh giới tốt, cảnh giới thiện, thù thắng. Tâm tánh chúng sanh bất thiện, tạo tác ác nghiệp, thì hoàn cảnh y báo của chúng ta sẽ suy yếu. Khiến chúng ta cảm nhận sâu sắc thấy thế gian này không đáng lưu luyến, không có nơi nào có thể khiến mọi người sinh tâm yêu thích. Truy tìm nguyên nhân căn bản của nó là: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến” tự làm tự chịu, đâu thể trách người được? Mời xem kinh văn:
“Tượng pháp chi trung, hữu nhất La Hán phước độ chúng sanh.” (Trong thời mạt pháp, có một vị La Hán phước đức cứu độ chúng sanh.)
Đây là vào thời kỳ tượng pháp của đức Thanh Tịnh Liên Hoa Như-Lai, đây là chứng tỏ Phật đã nhập Bát Niết Bàn rồi, không còn trụ ở thế gian nữa. Pháp vận của tất cả chư Phật, đều có ba thời kỳ: Chánh pháp, Tượng pháp, Mạt pháp. Tuổi thọ của Phật dài, thì đương nhiên pháp vận của Ngài cũng dài. Nhưng vào thời kỳ tượng pháp, thời kỳ tượng pháp nghĩa là thời đại của Tháp Tự (Chùa tháp) kiên cố.
“Nhân thứ giáo hóa, ngộ nhất nữ nhân tự viết Quang Mục, thiết thực cúng dường.” (Nhơn vì đi tuần tự giáo hóa mọi người, La-Hán gặp một người nữ tên là Quang Mục, nàng này sắm sửa đồ ăn cúng dường La-Hán.)
Đây là thời đại tượng pháp, ở trong chùa chiền chỉ đắp nặn hình tượng Phật. Hình tượng Phật có thể giáo hóa tất cả chúng sanh, cho nên công đức tạo tượng rất lớn. Nhưng tuy có những cơ sở vật chất này, nếu như không có thiện tri thức giảng kinh thuyết pháp. Người bình thường nhìn thấy chùa tháp, nhìn thấy hình tượng Phật, Bồ-tát, tuy gieo thiện căn, thiện căn này không thể chín muồi ở trong đời này được. Nghĩa là mắt bạn nhìn thấy tượng Phật, tai nghe thấy danh hiệu Phật, Bồ-tát, vừa qua căn tai mãi mãi thành hạt giống đạo. Trong đời này họ không biết tu hành, tâm nguyện, tín tâm của họ không thể phát khởi được, nhưng hạt giống đã gieo xuống rồi, hạt giống Kim Cang vĩnh viễn không bị hư hoại. Nếu như có thể làm cho hạt giống này của họ chín muồi sớm hơn, vậy thì phải có thiện tri thức giảng kinh thuyết pháp. Họ nhìn tượng biết ý nghĩa của tượng, nghe danh hiệu biết ý nghĩa của danh hiệu, từ đó sinh ra tín tâm thanh tịnh đích thực, phát khởi hạnh nguyện giống như Phật, vậy thì đời nay họ thành tựu rồi, công đức đó là không thể nghĩ bàn. Nếu như không gặp được thiện tri thức, chỉ là nghe danh hiệu, nhìn thấy tượng, không hiểu nghĩa kinh, không thể phát tâm tu hành, thì lợi ích mà họ đạt được là hữu hạn. Tuy hữu hạn, nói thực ra cũng là không thể nghĩ bàn. Cô Quang Mục sắm sửa đồ cúng Phật là cúng ở trước hình tượng Phật trong chùa chiền.
“La-Hán vấn chi: Dục nguyện hà đẳng” (La-Hán thọ cúng rồi hỏi: “Nàng muốn những gì?”)
Trong thời tượng pháp có một vị La-Hán. La-Hán là người xuất gia, đây là một vị thiện tri thức, sống ở trong chùa chiền độ hóa chúng sanh. Quang Mục là một tín đồ trong chùa, cô hôm nay đến sắm đồ chay để cúng Phật. La-Hán hỏi cô: “Cô muốn những gì?”. Cô hôm nay đến sắm sửa đồ chay muốn cầu điều gì?
“Quang Mục đáp ngôn: Ngã dĩ mẫu vong chi nhật, tư phước cầu bạt vị tri ngã mẫu sanh xứ hà thú.” (Quang Mục thưa rằng: “Ngày thân mẫu tôi khuất, tôi làm việc phước thiện để nhờ đó mà cứu vớt thân mẫu tôi, chẳng rõ thân mẫu tôi thác sanh vào đường nào?”)
Quả nhiên cô đến là có mục đích. Đúng như lời ngạn ngữ nói: “Không có việc thì không đến điện Tam Bảo”. Cô vào trong chùa để lễ Phật, nhất định là trong tâm có mong cầu, điều cô cầu cũng rất tốt, mẹ cô qua đời rồi, nên sắm sửa đồ chay để cầu siêu bạt độ. Pháp sư đã hỏi cô, trong tâm cô rất muốn biết mẹ mình hiện nay ở nơi nào? Mẹ tôi hiện nay ở cõi nào? “Hà thú” chính là ở cõi nào trong lục đạo. Có thể thấy người làm con cái, đối với sau khi cha mẹ qua đời, thường xuyên nhớ ở trong tâm, niệm niệm không quên, đây là ý nghĩ hiếu thảo. Thường xuyên ôm ấp tâm nguyện, làm sao giúp đỡ người thân qua đời.
“La-Hán mẫn chi vi nhập định quán, kiến Quang Mục nữ mẫu đọa tại ác thú thọ cực đại khổ.” (La-Hán nghe nói cảm thương bèn nhập định quan sát, thời thấy bà mẹ của Quang Mục đọa vào chốn địa ngục rất khổ sở.)
Đây là đọa vào trong địa ngục. La-Hán, quý vị ở chỗ này suy nghĩ xem, Ngài vẫn phải nhập định, mới có thể nhìn thấy. Nếu Ngài không nhập định, thì không thể thấy được. Đây là người có công phu thiền định cạn. Nếu người định công sâu thì không cần nhập định, bạn vừa nói qua họ liền biết, liền nhìn thấy ngay. Còn đây vẫn phải nhập định. Sau khi xuất định nói cho cô biết cảnh giới mà ở trong định Ngài nhìn thấy. Quý vị phải biết, tại sao khi không nhập định thì không thể nhìn thấy? chúng ta cần hiểu rõ đạo lý này. Khi không nhập định thì tâm tán loạn. Tâm của La-Hán thanh tịnh hơn tâm chúng ta nhiều. Chúng ta sao có thể sánh bằng? Định công của người ta là định bậc thứ chín. Tứ thiền bát định lên trên nữa là định thứ chín. Định công sâu như vậy mà vẫn không được, vẫn phải nhập định mới có thể nhìn thấy cảnh giới, không nhập định vẫn không được. Từ đó cho thấy, tâm của phàm phu chúng ta là tâm tạp loạn. Tạp là xen tạp. Loạn là bất định. Tâm như vậy sẽ tạo thành rất nhiều chướng ngại. Cái chướng ngại này là gì vậy? Chính là nhà khoa học hiện nay gọi là thời không, không gian ba chiều, không gian bốn chiều, không gian năm chiều, đến không gian vô hạn chiều. Thời không (thời gian và không gian) vốn dĩ là một. Một chính là nhà Phật nói nhất chân pháp giới. Nhất chân pháp giới tại sao lại biến thành vô lượng pháp giới vậy? Ở trong Phật pháp chúng ta nói pháp giới, chính là nhà khoa học gọi là chiều không gian và thời gian khác nhau. Không gian ba chiều là một ranh giới, không gian bốn chiều lại là một ranh giới, năm chiều, sáu chiều mỗi cái có ranh giới khác nhau, chướng ngại hết. Chúng ta ngày nay chỉ có thể nhìn thấy không gian ba chiều,chỉ có thể tiếp xúc được không gian ba chiều, không gian bốn chiều, năm chiều chúng ta không thể tiếp xúc được. Vô lượng vô biên pháp giới, chúng ta chỉ có thể tiếp xúc được pháp giới trước mắt này. Chúng ta gọi là pháp giới người. Ở trong pháp giới súc sanh chúng ta nhìn thấy được một bộ phận, vẫn còn một bộ phận không nhìn thấy. Số chúng ta nhìn thấy là bộ phận nhỏ. Tại sao vậy? Bộ phận súc sanh này cũng sống ở không gian ba chiều, nên chúng ta nhìn thấy. Nếu chúng ở không gian bốn chiều, năm chiều thì chúng ta không thể nhìn thấy được, đạo lý nó là như vậy. Nhập định, định là tâm thanh tịnh. Tạm thời điều phục được tâm tán loạn. Sau khi điều phục được rồi, thì không gian của họ được mở rộng, được đột phá. Định càng sâu thì đột phá không gian càng rộng.Định cạn có thể đột phá ba chiều, nhìn thấy bốn chiều, chúng ta bèn nói người này có thần thông, có công năng đặc biệt. Định càng sâu đột phá tiếp một chiều nữa, có thể nhìn thấy không gian năm chiều, đạo lý nó là như vậy. Hiện nay người Tây Phương có một cuốn sách bán rất chạy, nói về những lời tiên tri tựa đề là “Mật Mã Thánh Kinh”, có lẽ các bạn có người đã xem qua. Người viết cuốn sách này vô cùng khách quan, ông nói lời tiên tri này, tiên đoán chính xác như vậy, và sách này là do người 3000 năm trước viết ra. Ông rất khẳng định, ông nói chắc chắn không phải do thượng đế. Ông nói nếu như là do thượng đế, thì đáng lý phải giải quyết được vấn đề này. Họ không thể giải quyết được vấn đề này, chỉ có thể nhắc nhở chúng ta rằng sẽ có tai nạn này xảy ra. Có thể thấy họ không phải là thượng đế, cho nên ông suy đoán, nhất định là người rất có trí tuệ, rất có tâm từ bi viết ra, cách nói này là chính xác. Đầu óc ông rất sáng suốt, không mê tín. Có người đến hỏi tôi, tại sao có thể đem chuyện 3000 năm sau nói ra rõ ràng, minh bạch được như vậy? Cổ đức đã từng nói với chúng ta, lời tiên đoán có hai loại căn cứ. Trung Quốc cũng có không ít lời tiên đoán. Trước đây khi lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam còn tại thế, chúng tôi cũng đã từng thỉnh giáo thầy. Thầy cũng nói y như vậy. Thầy nói loại thứ nhất là toán học, đại đa số là căn cứ vào lý số để suy đoán. Trung Quốc có rất nhiều lời tiên đoán là do toán học suy đoán ra, cho nên nguồn gốc của nó là “KinhDịch”. “Kinh Dịch” là môn toán học cao sâu. Toán học là mẹ của khoa học. Giống như ở Trung Quốc rất thịnh hành nghề chấm tử vi, xem tướng, đều là căn cứ theo “Kinh Dịch”, đều là căn cứ theo lý số(khoa học về thuật toán). Nhưng lý số là cách gián tiếp, chứ không phải trực tiếp. Nếu như có một chút xíu tính toánkhông đúng, thì kết quả sẽ khác nhau. Hay nói cách khác, tính chính xác của nó có thể đạt đến năm, sáu, bảy chục phần trăm, chứ không phải thật viên mãn. Điều này phải dựa vào trình độ của người tính toánmà có chỗ khác nhau. Nhưng mà quan sát từ trên định công, thế thì khác nhau hoàn toàn. Định công là cảnh giới hiện lượng, chính mắt họ nhìn thấy, đây không phải do tỉ lượng. Suy tính là tỉ lượng, còn đây là hiện lượng. Cho nên người viết “Mật Mã Kinh Thánh” này, họ là dùng định công, ở trong Thiền Địnhnhìn thấy. Ở trong Thiền Định nhìn thấy chuyện của 3000 năm sau, chẳng có gì lạ,đâu có gì là kỳ lạ? Một ngày ở trời Đao Lợi là 100 năm nhân gian chúng ta, là một ngày của trời Đao Lợi. Một tháng ở trên trời Đao Lợi, là 3000 năm nhân gian. Nếu như đi lên trên nữa, thế thì càng dễ dàng hơn rồi. Một ngày ở cõi trời Dạ Ma là 200 năm nhân gian, vậy 3000 năm thì mới 15 ngày. Lên trên nữa đến cõi trời Đâu Suất, một ngày ở cõi trời Đâu Suất là 400 năm nhân gian. Từ đó cho thấy, nếu như đến tầng trời thứ sáu cõi Dục Giới, thì thời gian 3000 năm chưa đến một ngày của người ta, chuyện ở trong một ngày sao họ không thấy rõ ràng được? Đương nhiên biết rõ. Cho nên người viết cuốn sách này, theo sự quan sát trong cửa Phật chúng ta thì họ là [dùng] định công. Định công này có thể đột phá giới hạn không gian và thời gian. Đạo lý này hiện nay khoa học biết, họ thừa nhận, họ khẳng định. Nhưng hiện nay họ không tìm ra phương pháp làm sao có thể bước vào “đường hầm thời gian”, họ gọi là đường hầm thời gian. Làm sao có thể đi vào tương lai, hoặc giả trở về quá khứ, họ biết trên lý luận là có thể làm được, nhưng hiện nay chưa tìm ra được kỹ thuật. Họ không biết Thiền Định ở trong Phật pháp cổ xưa có kỹ thuật này. Bạn nhập Thiền Định thật sâu, bạn có thể quay về quá khứ, cũng có thể đi đến tương lai, “Mật Mã Thánh Kinh” được viết ra như vậy, cho nên tính chính xác của nó là 100%. Cục diện này có thể thay đổi hay không? Có thể. Cách nói này của họ rất đúng trọng tâm, nhưng tai nạn có thể hóa giải. Hóa giải dùng phương pháp gì vậy? Nhân tâm. Nhân tâm đều có thể hướng thiện, thì tai nạn này liền được hóa giải ngay. Có thể thấy họ cũng nhận định cái tâm hạnh thiện ácnày là mấu chốt thay đổi những kiết hung họa phúc trên thế gian này, cách nói này rất chính xác. Quyển sách này hiện nay rất được lưu hành trên thế giới, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Ở Đài Loan chúng ta cũng nhìn thấy bản dịch tiếng Trung, đáng để chúng ta cảnh giác. Nếu chúng ta muốn cứu bản thân, cứu xã hội, cứu tất cả đại chúng, nhất định phải biết đoạn ác tu thiện. Và cách giáo dục đoạn ác tu thiện không có gì bằng “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện”. Cho nên Thế Tôn ở pháp hội tại cung trời Đao Lợi lần này, đem nhiệm vụ độ chúng sanh trong khoảng thời gian từ thời kỳ mạt pháp trở về sau mãi cho đến trước khi Phật Di Lặc ra đời dài như vậy giao phó cho Bồ-tát Địa Tạng, là chính xác,chúng ta có thể hoàn toàn khẳng định, Bồ-tát Địa Tạng chủ trì việc giáo hóa, còn Quan Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc phụ trợ cho Bồ-tát Địa Tạng. Giống như ở trong trường học, Bồ-tát Địa Tạng là hiệu trưởng, Phật không còn ở đời Ngài đại diện cho Phật, tất cả Bồ-tát khác đến phụ trợ Bồ-tát Địa Tạng, giúp Bồ-tát Địa Tạng để giáo hóa những chúng sanh khổ nạn này. La Hán nhập định, trong định đột phá giới hạn không gian thời gian, Ngài nhìn thấy địa ngục, nhìn thấy mẹ của Quang Mục nữ thọ khổ ở trong địa ngục, rất khổ sở. Sau khi xuất định:
“La Hán vấn Quang Mục ngôn: “Nhữ mẫu tại sanh tác hà hành nghiệp, kim tại ác thú thọ cực đại khổ.” (La-Hán hỏi Quang Mục rằng: “Thân Mẫu ngươi lúc sanh tiền đã làm những hạnh nghiệp gì, mà nay phải đọa vào chốn địa ngục rất khổ sở như thế?”)
Hỏi cô Quang Mục: Mẹ của cô khi còn sống làm những việc gì? Nói thực ra đây là văn tự trong kinh. Chính là nói bà đã tạo những tội nghiệp gì? Bà hiện nay đọa vào địa ngục, rất khổ.
“Quang Mục đáp ngôn” (Quang Mục thưa rằng:)
Cô Quang Mục bèn trả lời rất thành thật với La Hán rằng.
“Ngã mẫu sở tập” (Thói quen của thân mẫu tôi)
Tập là tập tánh, sự ưa thích, yêu thích.
“Duy hiếu thực đạm ngư, miết chi thuộc” (Ngày còn sống, thân mẫu tôi chỉ ưa ăn thịt loài cá trạch.)
Ngày nay gọi là hải sản. Bà vô cùng ưa thích ăn hải sản.
“Sở thực ngư miết đa thực kỳ tử, hoặc sao, hoặc chử, tứ tình thực đạm. Kế kỳ mạng số thiên vạn phục bội. Tôn giả từ mẫn, như hà ai cứu?” (Phần nhiều là hay ăn cá con và trạch con, hoặc chiên, hoặc nấu, tha hồ mà ăn cho thỏa mãn. Nếu tính đếm số cá trạch của người đã ăn thời đến hơn nghìn muôn. Xin Tôn Giả thương xót chỉ dạy phải làm cách nào để cứu thân mẫu tôi?”)
Chúng ta ngày nay ở trong ăn uống, nói ăn thịt không có tội, nói vậy có trôi chảy không? Nhất định phải giác ngộ. Đọc xong kinh này, hiểu rõ chân tướng sự thật, thì sao dám ăn thịt chúng sanh được? Nhất là ưa thích ăn trứng cá, ưa thích ăn những con cá con, trong một đĩa, một chén có biết bao sinh mạng? Bạn nói nghiệp sát này nặng cỡ nào? Những chúng sanh bị giết này oán hận của nó sâu cỡ nào, nó có cam tâm tình nguyện cho bạn ăn không? Nếu như cam tâm tình nguyện đem thịt này đến cúng dường cho bạn, như thế nó là Bồ-tát, nó giác ngộ rồi, nó không phải chúng sanh. Chỉ cần là chúng sanh, khi bạn đi bắt nó, bạn quan sát thật kỹ xem, nó chạytrốn, nó không phải cam tâm tình nguyện để cho bạn ăn. Bạn muốn giết heo, bạn bảo heo ơi đến đây ta giết ngươi, để lấy thịt ăn. Có phải nó ngoan ngoãn chạy đến hay không? Nó vừa nhìn thấy con dao liền sợ hãi bỏ chạy, chạy lung tung khắp nơi. Nó biết bạn muốn giết mạng nó, nó bị bạn bắt được, bị bạn giết nó, đây là do nó không có năng lực phản kháng, bạn biết cái oán hận này sâu cỡ nào! Kết oán thành thù. Con người không phải [có] một đời, còn [có] đời sau, súc sanh cũng có đời sau. Cơ duyên chín muồi rồi, thì đâu có lý nào không trả thù? Tại sao có chiến tranh trên thế gian? Phật nói đều là từ sát sanh ăn thịt mà ra. Phật đã từng nói một câu rằng: Nếu muốn thế gian vĩnh viễn không có kiếp đao binh, không có chiến tranh. Ngài nói trừ khi chúng sanh không ăn thịt. Chúng sanh không ăn thịtthì chiến tranh, tai nạn trên thế gian này sẽ không còn nữa. Hay nói cách khác, chúng sanh trên thế gian vẫn còn ăn thịt, thì chắc chắn không thể tránh khỏi kiếp đao binh. Tại sao ngày nay chiến tranh mỗi ngày một tàn khốc hơn? Do oan nghiệp tích lũy quá nặng! Theo như trong ký ức của chúng tôi mà nói, chiến tranh thế giới lần thứ nhất và chiến tranh thế giới lần thứ hai, hiện tượng người chết thảm khốc trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất nhẹ hơn nhiều, lần thứ hai nghiêm trọng hơn nhiều. Chiến tranh hạt nhân lần thứ ba thì càng khủng khiếp hơn nữa! Suy nghĩ thấy lời Phật nói có đạo lý. Chúng ta ngày nay tạo tác tội nghiệp giống như mẹ của cô Quang Mục vậy.
“Tứ tình thực đạm” (Tha hồ mà ăn cho thỏa mãn)
Mặc tình phóng túng, ỷ mạnh hiếp yếu, vậy có tàn khốc không?
“Kế kỳ mạng số, thiên vạn phục bội.” (Nếu tính đếm số cá trạch của người đã ăn thời đến hơn nghìn muôn)
Không chỉ một ngàn mạng sống, một vạn mạng sống mà còn tăng hơn rất nhiều lần, đó là số mạng sống mà trong đời bà giết hại, ăn thịt. Đây là tội nghiệp mà bà đã tạo tác. Hai câu nói dưới đây là cầu mong pháp sư làm sao cứu giúp bà.
“Tôn giả từ mẫn” (Tôn Giả thương xót)
Tôn Giả chính là hiện nay chúng ta thường gọi là tôn kính,là pháp sư tôn kính, La-Hán tôn kính, Ngài nhất định phải giúp, phải nghĩ cách cứu mẹ của cô.
“La-Hán mẫn chi” (La-Hán thương xót)
La-Hán nhìn thấy người con gái hiếu thảo, có tâm hiếu như vậy, nên vô cùng đồng cảm với cô, hướng dẫn cho cô:
“Khuyên Quang Mục ngôn: Nhữ khả chí thành niệm Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như-Lai, kiêm tố họa hình tượng, tồn vong hoạch báo.” (Ngài khuyên Quang Mục rằng: “Người phải đem lòng chí thành mà niệm đức thanh tịnh liên hoa mục Như-lai, và vẽ đắp hình tượng đức Phật, thời kẻ còn cùng người mất đều được phước lợi!”)
Mấu chốt ở chỗ này chính là ba chữ “Chí thành niệm” này, dùng tâm chân thành mà niệm Phật. Chúng ta xem thấy ở trong kinh này, để tiêu trừ tội nghiệp cực nặng, độ tội báo khổ nhất đều là dạy pháp môn niệm Phật,chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này. Tại sao trong kinh không dạy cô niệm A-Di-Đà Phật? Phật thuyết pháp là nói lời chân, lời thật, lời như,chúng ta ở chỗ này có thể nhìn thấy, đây là vô lượng kiếp về trước, ở thế gian đó xuất hiện đức Phật đó, hiệu là Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như-Lai, là bổn sư của họ. La Hán hướng dẫn cô niệm Phật bổn sư, tạo hình tượng Phật, phước này sẽ rất lớn.
“Tồn vong hoạch báo” (Thời kẻ còn cùng người mất đều được phước lợi)
Tồn là cô Quang Mục, cô còn sống, cô tu phước, cô được phước báo. Vong là mẹ của cô. Mẹ của cô cũng được phước báo, đây là dạy cô làm việc này. Đương nhiên La Hán giảng kinh thuyết pháp cho cô, nói rõ cho cô biết những đạo lý và chân tướng sự thật này. Văn tự trong kinh điển đã tỉnh lược bớt, chúng ta nhất định phải hiểu rõ.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.