KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.
TỔNG CỘNG 102 TẬP
Tập 7
Xin mời mở bản Kinh ra. Hôm qua giảng đến chỗ Thế Tôn phóng quang hiện tướng lành. Trong mười thứ quang minh vân này, chúng ta giảng đến loại thứ 5 là “Đại tam muội quang minh vân”. Bây giờ chúng ta bắt đầu xem từ loại thứ 6 là “Đại kiết tường quang minh vân” (Tạm dịch: Vầng mây sáng đại kiết tường).
“Kiết tường” là một từ thông dụng dùng để chúc tụng, hỏi thăm vào thời xưa ở Trung Quốc. Sao gọi là kiết tường? Cổ đức nói đây là từ nghĩa lợi. Nghĩa là nói những gì chúng ta đáng phải có, đều có thể có được một cách viên mãn, đây là kiết tường. Cái không nên có mà bạn có được thì đó chính là tai họa, cho nên nói đó là bất nghĩa. Bất nghĩa, chúng ta lấy của cải để làm ví dụ, của bất nghĩa chính là phạm giới trộm cắp ở trong Phật pháp, là bạn không nên có, bất kể bạn dùng thủ đoạn gì để đạt được thì tội lỗi này đều rất nặng. Cho nên kiết tường là những gì đáng phải có, bạn đều có thể có được viên mãn, đây là cái lợi có nghĩa. Nghĩa tức là đáng phải được. Câu này là nói rất rõ ràng, đây là đức của cái lợi có nghĩa.
Đại Bồ Đề, đại Niết Bàn ở trong Phật pháp là cái chúng ta đáng phải có được. Trí tuệ, đức năng vốn có trong tự tánh là cái chúng ta đáng phải có được, không có khác gì so với trí tuệ, công đức trong quả địa chư Phật, chúng ta hiểu được ý nghĩa này. Mặc dù mình…. Chúng ta là lấy phàm phu để bàn luận. Tánh đức của chúng ta chưa có khai mở, ở thế gian này có thể nói là không chỉ là đời này, mà đời đời kiếp kiếp phước báo của chúng ta đều là do tu mà có, không phải xứng tánh. Kiến tánh rồi thì trí tuệ, phước báo trong tự tánh của bạn mới có thể hiện tiền, phước báo đó mới chân thật, giống như dòng suối tuôn ra vậy, lấy hoài không hết, dùng mãi không cạn, đó là phước báo xứng tánh. Trước khi chưa có kiến tánh, thì phước báo này là do tu mới có. Phước do tu thì có thể dùng hết. Chỗ này chúng tôi nêu một ví dụ để mọi người dễ hiểu. Tánh đức, ví như bản thân bạn có gia tài, có gia nghiệp, trong nhà bạn có mỏ vàng. Số lượng vàng chứa trong mỏ vàng nhiều vô cùng, bạn đời đời kiếp kiếp cũng dùng không hết, nhưng hiện nay mỏ vàng này bị đất đá vùi lấp, chưa có khai thác, bạn không có một xu nào cả. Bạn muốn có cơm ăn phải đi làm thuê, bạn kiếm một chút tiền để sống tạm qua ngày, tuy trong nhà bạn có tài sản ức vạn mà bạn không thể sử dụng được. Bát nhã, trí tuệ, công đức, tiền của trong tự tánh chúng ta là giống như mỏ vàng vậy, chưa có khai thác. Cho nên hiện nay rất khổ sở, phải đi làm thuê từng ngày ở ngoài đường, phước báo này là có thể hưởng hết. Hơn nữa, nhất định phải đi làm thuê như lý như pháp. Nếu như đầu cơ trục lợi, làm càn làm bậy là bạn phạm tội. Phạm tội không những bạn không thể có được cái bạn đáng phải được, trái lại bạn còn bị pháp luật trừng phạt. Đạo lý này cũng như vậy. Cho nên thế gian này chúng ta nhất định phải hiểu rõ, không phải cái mà chúng ta đáng lý phải có thì quyết định không được lấy.
Giới trộm cắp của nhà Phật, ý nghĩa của trộm cắp là không cho mà lấy. Bất kể dùng thủ đoạn gì, tài sản không phải của mình mà bạn nhận lấy là họa chứ không phải phước. Điều này nhất định phải biết. Cho dù của cải trong số mạng mình có đi nữa, chúng ta cũng phải giác ngộ. Mình ở trong đời sống hưởng thụ, nói thực ra là rất ít. Chúng ta đừng nên nghĩ đến cả đời, nghĩ đến cả đời thì sẽ rất dễ phạm nhiều lỗi lầm. Người giác ngộ chân chánh, họ nghĩ như thế nào vậy? Một ngày. Ta hưởng thụ trong ngày hôm nay, tuyệt đối sẽ không nghĩ đến ngày mai. Nghĩ đến ngày mai bạn sẽ có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bạn liền sai ngay. Chỉ nghĩ ngày hôm nay, không có ngày mai. Nhu cầu sống trong ngày hôm nay còn dư bao nhiêu đều đem bố thí cho người khác. Có phước thì cùng hưởng với tất cả chúng sanh. Bạn muốn hỏi ngày mai làm thế nào? Ngày mai sẽ được càng nhiều hơn. Sao được càng nhiều hơn vậy? Họ đang gieo phước. Gieo phước thì cái phước báo này sẽ vĩnh viễn tăng trưởng thêm, phước họ không bị mất. Chúng ta nhìn thấy người thế gian, trên toàn thế giới mỗi khu vực đều có thể nhìn thấy được, người có của cải dốc sức tích chứa, dốc sức làm tăng thêm của cải của mình, đối với sự nghiệp phúc lợi xã hội, như nhìn thấy người nghèo khổ thì một xu cũng không cho. Nhưng chẳng được mấy năm, họ bị sa sút, nhà tan cửa nát, tài sản của họ thảy đều bị tiêu hao mất sạch, đều mất hết. Loại hiện tượng này xưa nay trong và ngoài nước thường hay gặp. Lưu ý một chút, sẽ thấy thế gian này hiện nay ngày càng rõ ràng. Tại sao không đem số còn dư đó đi tu phước? Đây chính là mê hoặc điên đảo. Chúng ta nói đến kiết tường nhất định phải hiểu được ý nghĩa này.
Tánh đức, chúng ta tạm thời không bàn đến. Ở trên tu đức biết mình tu như thế nào, làm sao mới tu được phước lợi lớn. Trong Kinh này muốn dạy cho chúng ta điều này.
Loại thứ bảy là: “Đại phước đức quang minh vân” (Vầng mây sáng đại phước đức). Thêm vào ba chữ quang minh vân đều là xứng tánh.
“Phước đức” là trợ đạo, tức là từ bố thí đến thiền định trong hạnh Bồ-tát đều là thuộc về trợ đạo. Bởi do sự trợ duyên của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định thì mới có thể thành tựu trí tuệ vô lậu. Nếu không có năm loại phía trước, cho dù có trí tuệ thì trí tuệ đó là hữu lậu. Trí tuệ hữu lậu, trong Phật pháp gọi là thế trí biện thông, chứ không phải trí tuệ Bát nhã. Tại sao Phật đặc biệt chú trọng ở tu phước vậy? Khi chúng ta thọ Tam Quy, quy y Phật nhị túc tôn. Chữ nhị chính là hai loại phước và tuệ này. Túc là viên mãn. Thành Phật rồi, thì hai loại phước đức và trí tuệ này của họ đều viên mãn, phước đức không ai có thể sánh bằng, cho nên xưng là tôn quý nhất. Từ đó cho thấy Phật tuyệt đối không phản đối người ta tu phước, mà còn khuyến khích người ta tu phước. Tại sao vậy? Tu đạo là công việc tương đối không dễ dàng. Nhân duyên chướng ngại đạo rất nhiều, trong quá trình bạn tu học, chứng đạo có rất nhiều chướng ngại. Phước đức có thể bảo vệ chánh pháp, có thể thật sự hộ trì bạn. Chúng ta nói thiên long quỷ thần hộ pháp đến hộ pháp cho bạn, họ dựa vào cái gì để hộ pháp cho bạn vậy? Nhìn thấy bạn có phước, có đức. Nếu bạn không có phước đức, không tu phước đức, hằng ngày cứ cúi đầu hành lễ, thì người ta cũng chẳng thèm quan tâm đến bạn. Dựa vào cái gì để hộ pháp cho bạn đây? Bạn chịu tu bố thí, thì người ta khâm phục bạn, tán thán bạn. Bạn chịu trì giới, thì người ta tôn kính bạn. Cho nên chúng ta muốn cầu mong được chư Phật hộ niệm, long thiên ủng hộ, thì không phải hằng ngày cúi lạy các Ngài, hằng ngày cầu các Ngài, bợ đỡ các Ngài, nịnh nọt các Ngài. Việc này là vô ích! Chỉ cần mình nghiêm túc dựa theo lời giáo huấn của Phật Đà mà làm, không cần cầu các Ngài, không cần quan tâm các Ngài, các Ngài sẽ tự nhiên hộ trì. Tại sao vậy? Các Ngài tôn kính bạn. Bạn ở trong quảng đại quần chúng, bạn khác họ. Người ta tạo nghiệp, còn bạn tu phước. Là đạo lý như vậy, chúng ta phải hiểu rõ. Trên hình thức thì chúng ta làm nghi lễ, nhưng thật sự mà nói là làm cho đại chúng xã hội thấy. Dùng loại cách thức này gợi ý cho đại chúng, để cho những chúng sanh mê hoặc điên đảo này giác ngộ, quay đầu, cho nên những nghi thức này làm rất long trọng trang nghiêm, đạo lý là ở chỗ này. Tuy đại chúng xã hội chưa nhìn thấy chúng ta làm nghi thức này long trọng trang nghiêm, nhưng quỷ thần nhìn thấy rồi. Từ đó cho thấy, tất cả mọi hình thức là nhằm phổ độ tất cả chúng sanh mà làm. Đó là bề ngoài. Có ngoài thì phải có trong. Bên trong là thật tu. Nội tâm thanh tịnh, bình đẳng, giác. Biểu hiện ra bên ngoài là lục độ vạn hạnh, thành tựu phước báo rộng lớn chân thật. Phước báo có thể trừ được chướng ngại, có thể giúp chúng ta khai mở trí tuệ. Ngạn ngữ thế gian nói là “Phước chí tâm linh”, người này phước báo đến rồi thì họ sẽ rất thông minh. Bình thường thấy họ rất khờ, nhưng khi phước báo hiện tiền thì họ bỗng nhiên thông minh ngay, lời nói này cũng có đạo lý.
Tu định là nguyên nhân chủ yếu của khai tuệ, tu phước là trợ duyên, giúp bạn khai tuệ, cho nên cần phải phước tuệ song tu. Câu dưới đây là: “Đại công đức quang minh vân.” (Vầng mây sáng đại công đức.)
“Công đức” khác biệt so với phước đức. Phước đức chúng ta bình thường gọi là phước báo. Phước báo có thể hưởng chung với người khác, còn công đức thì vô phương. Công đức là gì vậy? Công là công phu tu học. Tu học có công phu thì bạn nhất định có thu hoạch. Chữ “Đức” này có cùng ý nghĩa với chữ được trong được mất, bạn nhất định có thu hoạch. Ví dụ trì giới có công, tu giới rất tốt, có công. Thiền định là được, do giới được định. Giới tu tốt đi nữa mà không thể được định là do công phu còn thiếu một chút. Giữ giới rất tốt, nhưng tại sao không thể đắc định vậy? Cổ đức nói rất hay, bản thân tu hành rất tốt, theo cách nói hiện nay là rất đáng tự hào, vậy là xong rồi, rất đáng tự hào là xong rồi. Bạn nghiên cứu Kinh điển rất tốt, rất đáng tự hào. Giảng Kinh trên bục giảng rất hay, rất đáng tự hào. Tự hào là xong rồi, liền mất hết công đức rồi. Tự hào là gì vậy? Phiền não. Trì giới đến cuối cùng phiền não hiện tiền. Nên đại sư Lục tổ Huệ Năng nói rất hay, nói trong “Đàn Kinh”: “Nếu người thật tu đạo, không thấy lỗi thế gian”. Nếu bạn trì giới đến mức không thấy lỗi của người thế gian thì liền đắc định ngay, bạn trì giới đã biến thành công đức rồi. Trì giới đắc định, thì trì giới là công đức. Trì giới không thể đắc định thì trì giới là phước đức. Cho nên trì giới có hai loại: Một cái là công đức, một cái là phước đức. Do giới được định.
Tu định cũng là như vậy. Tu định nếu khai trí tuệ thì định biến thành công đức, định đó có công. Tu định mà không thể khai trí tuệ, thì định này là thiền định thế gian, tu tốt đi nữa cũng chỉ là tứ thiền bát định. Quý vị nên biết, tứ thiền bát định đều chưa có khai trí tuệ, không thể ra khỏi tam giới. Đạo lý này chúng ta nhất định phải biết. Người tu hành rất dễ khởi tâm tăng thượng mạn. Tăng thượng mạn chính là người thế gian thường nói là rất đáng tự hào, người khác không bằng ta, ta cao hơn người khác một bậc. Chỉ cần khởi lên ý nghĩ này, thì công đức của bạn hoàn toàn không còn nữa.
Công đức lớn có thể diệt tội, có thể diệt ác, có thể sinh thiện. Công đức là có thể diệt ác sinh thiện. Nếu chúng ta tu học mà ác vẫn tăng trưởng, thiện không thể sinh, vậy là hoàn toàn sai lầm rồi. Điều này chúng ta không thể không biết.
Cương lĩnh, nguyên tắc tu hành của Nhà Phật chú trọng ở tu quán. Tông Thiên Thai nói tam chỉ tam quán. Chúng ta niệm Phật cũng không có lìa khỏi nguyên tắc tu quán,. Quán là gì vậy? Quan niệm. Tu quán chính là đem những quan niệm sai lầm trước đây của chúng ta điều chỉnh trở lại, đây gọi là tu quán. Thông thường nói tu học có ba cấp bậc. Trong Tông Môn thường nói, cấp thứ nhất là quán chiếu. Thế nào gọi là quán chiếu vậy? Thường xuyên nhắc nhở những quan niệm giác ngộ, nhắc nhở từng giây từng phút, đây là quán chiếu. Công phu quán chiếu đắc lực rồi, theo Tông Tịnh Độ của chúng ta mà nói chính là công phu thành khối. Có được công phu như vậy thì nhất định được sanh Tịnh Độ. Tại sao vậy? Niệm niệm có thể không mê, niệm niệm đề khởi được quán chiếu. Ở trong Tông Tịnh Độ chúng ta chính là đề khởi câu Phật hiệu. Tâm địa vừa động niệm, 6 căn tiếp xúc cảnh giới 6 trần, trong tâm khởi ý niệm. Ý niệm thì không ngoài thiện- ác. Thuận theo ý của mình liền khởi niệm tham, không hợp theo ý của mình thì khởi sân hận, sẽ động cái ý nghĩ này. Khi không có thuận nghịch thì khởi vô ký. Những cái này đều không tốt. Cho nên sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, tính cảnh giác của họ rất cao, ý niệm vừa khởi lên liền A-Di-Đà Phật, lập tức chuyển thành A-Di-Đà Phật. Việc này trong Tông Môn nói chính là quán chiếu, chính là công phu quán chiếu. Cổ đức nói là: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Ý niệm khởi lên không sao cả, phải cảnh giác cho nhanh, câu Phật hiệu lập tức đề khởi lên, đem ý niệm này đổi lại, đây là công phu quán chiếu. Khi công phu quán chiếu sâu rồi thì tự nhiên những ý niệm vọng tưởng này không khởi lên nữa. Công phu thật sự có thể khống chế được, không khởi nữa, thì đây chính là sự nhất tâm bất loạn. Trong Tông Môn gọi là chiếu trụ. Chiếu trụ là đắc định, thiền định hiện tiền. Đến khi công phu bậc cao nhất là chiếu kiến. Chúng ta đọc “Tâm Kinh”: “Quán tự tại Bồ-tát, chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chiếu kiến, kiến là đã khai trí tuệ rồi. Từ trong định khai tuệ rồi. Trong Tịnh Tông chúng ta là lý nhất tâm bất loạn, là chiếu kiến rồi. “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Ngũ uẩn giai không chính là chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Nhìn thấy tất cả pháp trong vũ trụ, chân tướng của nó là “Vô sở hữu, bất khả đắc.” Hai câu nói này Phật đã lặp lại mấy trăm lần trong “Kinh Đại Bát nhã”. Cho nên bạn đem 600 quyển “Đại Bát Nhã” xem lướt qua một lần, những câu khác đều không thể nhớ được, đều quên hết, chứ ấn tượng của câu này là quá sâu rồi. Chỉ cần bạn nhớ được 6 chữ này, thì tinh hoa của 600 quyển “Đại Bát Nhã” bạn đã nắm được rồi. Thế Tôn thuyết pháp quả thật có sự khéo léo của Ngài, lúc nào cũng khiến bạn nhớ được trọng điểm.
Tại sao vô sở hữu, bất khả đắc vậy? Là lời trong “Kinh Kim Cang” nói: “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”. Trong phẩm Thập Định của “Kinh Hoa Nghiêm” nói thấu triệt hơn. Chân tướng sự thật là gì? Sát-na tế, đây mới là chân tướng sự thật. Sát-na tế chính là bất sanh bất diệt. Nếu như bạn thật sự thấu triệt, sáng tỏ, khế nhập cảnh giới này, thì chúc mừng bạn, bạn quá tuyệt vời rồi. Tại sao vậy? Bạn chứng được quả vị vô sanh pháp nhẫn. Vô sanh pháp nhẫn chính là sáng tỏ sát-na tế, tất cả pháp bất sanh bất diệt, sanh diệt đồng thời. Trong “Kinh Lăng Nghiêm” nói: “Ngay đó sinh ra, ngay đó diệt mất” chính là sát-na tế. Cho nên mới là vô sở hữu, mới là bất khả đắc. đây là chân tướng sự thật. Bạn cho rằng có sở hữu, cho rằng có sở đắc, đây là vọng tưởng. Chúng sanh trong thập pháp giới, đừng nói là lục đạo đều chưa có lìa khỏi vọng tưởng. Có thể thấy cái cánh cửa vọng tưởng này rất khó đột phá. Đột phá được cánh cửa vọng tưởng này bạn liền thoát khỏi thập pháp giới, bạn nhập nhất chân pháp giới. Cho nên công đức nhất định phải tu, phước đức cũng phải tu. Phước đức chú trọng ở trên sự tướng, công đức chú trọng ở trên tâm địa.
Xem tiếp câu thứ 9: “Đại Quy Y quang minh vân” (Vầng mây sáng Đại Quy Y).
Chỗ này nói quy y là trở về tự tánh, đây là “Đại quy y”. Quy y Tam Bảo, nói thực ra lý luận của nhà Phật nói quy y Tam Bảo chính là căn cứ vào câu này. Cái đầu tiên của Tam Bảo là Phật bảo. Phật bảo là tự tánh giác. Tự tánh trùm khắp pháp giới, cho nên chỗ này dùng mây Quang Minh để hiển thị. Phàm phu đã mê mất tự tánh, nên chiêu cảm đến vô lượng vô biên tai nạn. Chúng ta dùng một ví dụ để nói, như tánh tướng viên mãn. Tuy tánh không có tướng, nhưng có thể hiện tất cả tướng. Tướng hiện ra là tướng phần của tự tánh, tánh tướng là một, chắc chắn không phải hai. Chúng ta ví dụ hiện tướng của tự tánh là thân thể, cái này quý vị dễ hiểu, dụ cho thân thể. Trong thân thể có một phần là giác ngộ, nhưng cũng có một phần đang mê hoặc. Phần nào đang mê hoặc vậy? Bất định. Nơi nào đó trong cơ thể mọc mụt, nung mủ, thối rữa, sưng lên rồi là mê hoặc, là chúng sanh phần này đang mê hoặc. Cánh tay này mọc mụt, thối rữa rồi, thì tay kia mau mau giúp đỡ nó. Tay kia là Phật Bồ-tát, tay này là chúng sanh, là cùng một thể. Chúng sanh không biết tận hư không khắp pháp giới là chính mình, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là bệnh độc. Một chỗ nào trong mình mọc mụt, thối rữa, thì mình đang thọ khổ. Cho nên chúng sanh thọ khổ thì Phật thọ khổ, chúng sanh được vui thì Phật được vui, là cùng một thể. Phật A-Di-Đà là ai vậy? Là tự tánh Di Đà. Tỳ Lô Giá Na là ai vậy? Là tự tánh Tỳ Lô Giá Na, không phải người khác, mà chính là mình. Ai biết? Cho nên nếu nói thật với bạn, bạn sẽ giật mình, bạn cũng không tin, còn phỉ báng Phật, tạo tội nghiệp càng nặng hơn nữa. Cho nên có rất nhiều lời chân thật nhưng Phật không nói, nói ra sợ bạn hoảng sợ, bạn không tin, không thể tiếp nhận. Nếu chúng ta thật sự tỉnh ngộ ra được, hư không pháp giới đều là mình, thì lòng đại từ đại bi của bạn đối với bất kỳ người nào, bất kỳ sự việc nào, bất kỳ vật nào cũng đều yêu quý. Tâm yêu thương, quan tâm, giúp đỡ đó sẽ nảy sinh một cách tự nhiên, chứ làm gì có phân chia đó đây nữa? Bạn cung kính tôi, tán thán tôi, tôi vẫn yêu quý bạn, giúp đỡ bạn. Bạn phỉ báng tôi, chà đạp tôi, làm nhục tôi, tôi vẫn yêu quý bạn, giúp đỡ bạn. Tại sao vậy? Bạn mê, tôi không mê. Người không mê biết là cùng một thể, còn người mê thì phân chia ta, người. Giống như trên cơ thể bị bệnh, mọc mụt vậy, tế bào của bộ phận này bị mê hoặc điên đảo, không thể điều hòa với toàn bộ cơ thể, bất hòa với mọi người. Hòa thì khỏe mạnh, bất hòa thì xảy ra vấn đề ngay.
Chư Phật Như-lai tán thán Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện vào thời ngũ trược ác thế, giáo hóa chúng sanh ương ngạnh, khó giáo hóa. Ý nghĩa của câu nói này sâu vô cùng. Nhóm chúng sanh ương ngạnh khó dạy này giống như một bộ phận trên cơ thể bị mọc mụt mủ vậy. Họ bất hòa với mọi người, họ ở trong đây phân chia ta người, bản thân họ đang bị khổ nạn. Đọa địa ngục, biến thành ngạ quỷ phải nhận những tội khổ này. Vốn dĩ không có, vốn dĩ không đáng phải nhận, nhưng họ nhất định muốn tạo tác, nhất định phải đi nhận thì có cách gì bây giờ? Vậy thì vô phương rồi. Điều mà Phật có thể giúp đỡ là dạy bảo, hướng dẫn, nói rõ chân tướng sự thật. Bản thân chúng ta phải giác ngộ, nhất định phải quay đầu. Quay đầu là bờ.
Quy chính là quay đầu. Y là nương tựa. Phải nương tựa tánh đức. Ở chỗ này dùng “Quang Minh Vân” để biểu thị, trong “Kinh Hoa Nghiêm” dùng “Đại Phương Quảng” để biểu thị. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói Đại Phương Quảng chính là Quang Minh Vân mà chỗ này nói. Quý vị phải biết 10 câu trong đoạn này, Quang Minh Vân này là hàm nhiếp toàn bộ “Kinh Hoa Nghiêm”. “Kinh Hoa Nghiêm” hàm nhiếp toàn bộ Phật pháp. Vô lượng vô biên pháp môn mà toàn bộ tất cả chư Phật 10 phương 3 đời nói đều bao gồm trong 10 loại Quang Minh Vân này, không sót một pháp nào cả. Chúng ta phải thể hội được ý nghĩa này.
Quy y pháp. Pháp là tự tánh chánh. Tự tánh chánh là gì vậy? Là tự tánh vốn đầy đủ trí tuệ Bát nhã. Tự tánh giác là căn bản trí. Tự tánh chánh là hậu đắc trí, chúng ta gọi là quyền trí. Khi đối nhân xử thế, chúng ta phải từ chỗ này mà thể hội, mà khế nhập, sau đó uyển chuyển thực hiện nó vào trong đời sống, trong công việc, trong đối nhân xử thế, bạn mới khế nhập cảnh giới Phật. Nhập cảnh giới Phật thì tự nhiên sẽ thoát khỏi thập pháp giới. Không cần bàn đến lục đạo luân hồi nữa, vì thoát khỏi thập pháp giới rồi, chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói việc làm không có khác gì so với pháp thân đại sĩ. Chúng ta hoàn toàn chưa chứng được pháp thân, nhưng thật sự là giống y như pháp thân đại sĩ vậy. Đây chính là phàm phu tâm lượng lớn mà trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói. Phàm phu tâm lượng lớn niệm Phật vãng sanh, xin thưa với quý vị chắc chắn sanh về Thực Báo Trang Nghiêm Độ. Tứ độ, tam bối, cửu phẩm, chúng ta thảy đều có phần. Đại sư Thiện Đạo nói rất hay, đại đức xưa trước thời Thiện Đạo thường nói 4 phẩm thượng là: Thượng thượng phẩm, thượng trung phẩm, thượng hạ phẩm, trung thượng phẩm. Người trước đó nói 4 phẩm thượng đó đều là Bồ-tát vãng sanh, phàm phu không có phần. Đại sư Thiện Đạo, đây là Phật A-Di-Đà tái lai. Ngài nói cho chúng ta biết 9 phẩm vãng sanh đều do duyên, là do gặp duyên khác nhau. Lời này nói rất hay! Chúng ta là phàm phu, gặp được duyên thù thắng thì chúng ta liền thượng phẩm thượng sanh. Bồ-tát nếu không gặp được cái duyên này, nếu họ vãng sanh có thể vẫn chỉ là trung hạ phẩm, là bởi gặp duyên khác nhau, chứ không phải do chuyện khác. Vậy mới gọi là pháp bình đẳng, phù hợp với giáo nghĩa “Thanh tịnh, bình đẳng, giác” trong đề Kinh. Cho nên chúng ta đọc Kinh, nghiên cứu giáo lý không được luống qua, không được uổng phí.
Thời gian hiện nay của tôi tương đối cấp bách một chút, cùng lúc giảng đến 4 bộ Kinh. Nơi đây là ba bộ, đến Hồng Kông giảng “Tứ Thập Hoa Nghiêm”. Tuy tôi giảng là thực tiễn vào trong đời sống hiện tại, nhưng những chú sớ của đại đức xưa này tôi xem rất nghiêm túc. Tôi không nhất định giảng theo họ, nhưng những gì tôi giảng nhất định là khế hợp với ý của họ. Giảng theo chú giải của cổ nhân, người hiện nay nghe không hiểu, vô phương tiếp nhận, cũng không thể làm được. Chúng ta phải thật sự hiểu rõ nghĩa Kinh, những gì cổ nhân viết ra có thể cung cấp cho chúng ta làm tham khảo, thử nghe xem các Ngài nói như thế nào. Lại nhìn xem hiện nay là thế giới ra làm sao? Chúng sanh hiện nay là thuộc căn cơ dạng nào, họ bệnh ở chỗ nào? Cái họ cần là gì? Chúng ta được Kinh điển gợi ý, được chú sớ của đại đức xưa gợi ý, bỏ cũ làm mới, chúng ta đến giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn thời hiện nay. Ngày nay giải quyết vấn đề xã hội, giải quyết vô lượng vô biên tai nạn, tai họa cho chúng sanh do con người tạo ra cũng vậy, do tự nhiên cũng vậy, đều phải làm một cuộc chuyển biến lớn từ trong tâm, đó là nhất định phải yêu thương người đời, bạn mở rộng tâm yêu thương mình ra, để yêu thương tất cả chúng sanh, thì toàn bộ tất cả tai nạn đều tiêu trừ. Chỉ biết có mình không thấy người khác, thậm chí là làm những việc tổn người lợi mình, đây là lời người thế gian nói, người mê hoặc điên đảo nói. Người thật sự sáng suốt thấy là gì vậy? Tổn người thì nhất định không lợi mình, việc làm tổn người là tổn mình. điều này quý vị phải biết. Như thế nào mới là thật sự lợi mình vậy? Lợi người mới đích thực là lợi mình, lợi ích cho xã hội mới là thật sự lợi ích cho gia tộc bạn. Người thế gian mê hoặc điên đảo không biết cái đạo lý này, không biết chân tướng sự thật. Tại sao vậy? Bởi vì cả xã hội, cả thế giới là những tế bào trong thân thể của mình. Quan tâm bộ phận này, lơ là bộ phận kia thì bộ phận kia sẽ bị bệnh, bạn cần phải chăm sóc toàn diện, ăn uống sinh hoạt, hấp thu dinh dưỡng, mỗi một bộ vị trong thân thể đều phải đạt đến. Ăn uống thiên lệch sẽ sinh bệnh, bộ phận nào đó hấp thu được dinh dưỡng, còn bộ phận kia bị thiếu hụt, thì bạn tứ đại sẽ không điều hòa. Dùng cái ví dụ này để ví cho thế giới này là giống nhau. Chỉ quan tâm đến quốc gia của ta, không quan tâm đến quốc gia người khác, cuối cùng quốc gia người ta gặp nạn, thì chúng ta cũng bị liên lụy. Sự thật này hiện nay mọi người dần dần đã nhìn thấy rồi, nhưng họ không biết quay đầu, không biết nguyên nhân căn bản ở chỗ nào? Cho nên Phật pháp trước tiên là mở rộng tâm lượng của chúng ta, “tâm bao thái hư, lượng chu sa giới” (Tâm lượng bao trùm hư không và cõi giới nhiều như cát”. Đây mới là đích thực quy y chánh. Thấy biết như thật vốn có trong tự tánh, làm căn cứ cho tất cả sinh hoạt đối nhân xử thế của chúng ta.
Thứ ba là quy y tăng. Ý nghĩa của Tăng là tịnh. Tăng dùng cách nói hiện nay để nói là hiệp hội, đoàn thể. Trong Phật pháp bốn người được gọi là chúng. Chúng dùng cách nói hiện nay để nói chính là một đoàn thể nhỏ. Bốn người trở lên sinh hoạt chung với nhau, làm việc chung với nhau, đây gọi là một đoàn thể nhỏ. Thành viên ở trong đoàn thể này đều có thể tu “Lục hòa kính” thì gọi là tăng đoàn, cho nên gọi là tăng chúng. Người nào cũng tu lục hòa kính, người nào cũng tâm địa thanh tịnh viên mãn thì tăng đoàn này là đáng được mọi người tôn kính nhất trong toàn bộ tất cả đoàn thể ở cõi trời và cõi người. Tại sao vậy? Họ hòa hợp, hòa thuận. Cổ nhân Trung Quốc cũng nói: “Hòa vi quý”. Trong “Luận Ngữ” nói: “Lễ chi dụng, hòa vi quý”. Hòa là tôn quý nhất. “Chúng” này là chúng trung tôn. Tôn là đáng được mọi người tôn kính, là một đoàn thể rất cao quý. Đoàn thể này càng lớn, số người càng nhiều mà kiến bất hòa, thì đó không phải là tăng đoàn, không phải đoàn thể mà người ta tôn kính.
Ý kiến từ đâu mà có vậy? Ý kiến đều là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Quý vị thử nghĩ xem có đúng không? Là không phải thật. Trong tự tánh vốn dĩ không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Ý nghĩa trong mười câu này rất sâu, nó mở đầu bằng “đại viên mãn” và kết thúc bằng “Đại tán thán”, thật sự là viên mãn đến cực điểm rồi. Tám điều trong đây, Từ Bi là chỗ chúng ta dựa vào để phát tâm, Trí Tuệ là điểm tựa để chúng ta tu hành, Bát Nhã phá hết thảy mê hoặc điên đảo, Tam Muội trừ hết thảy chướng ngại, Cát Tường là đức hạnh chỉ nhận cái lợi có nghĩa Phước Đức là cái đức trợ đạo, Công Đức là diệt ác sinh thiện, Tam Bảo là nơi trở về nương tựa đích thực, đây là đại cương của tánh đức viên mãn, sau cùng tổng kết bằng tán thán. Ai tán thán vậy? Người không hiểu, không biết về những sự lý này thì họ làm sao có thể tán thán được? Người có năng lực tán thán, có tư cách tán thán là chư Phật Như-lai, các Ngài sáng tỏ triệt để rồi, cho nên chư Phật Như-lai tán thán, tán thán thành tựu của bạn, tán thán bạn đã thật sự quay đầu. Ở chỗ này chúng ta nhất định phải biết, chúng sanh và Phật vốn dĩ không hai, cho nên chư Phật Như-lai lễ kính chúng sanh. Chỉ có chúng sanh mới coi thường Phật, Bồ-tát, chẳng coi ra gì, phỉ báng Phật, Bồ-tát, không tin Phật, Bồ-tát, nói xấu Phật, Bồ-tát, nhưng Phật, Bồ-tát quyết không vì thế mà xa lìa chúng sanh, vẫn cứ vĩnh viễn ở nơi đó quan tâm, mãi mãi yêu thương. Phật không có xa lìa chúng sanh, chúng sanh rời bỏ Phật, Bồ-tát, đây là chân tướng sự thật. Chúng ta ngày nay học Phật phải học Phật, Bồ-tát, học cách dùng tâm của Phật Bồ-tát, học cách hành trì của Phật Bồ-tát, không nên học theo chúng sanh. Học chúng sanh thì chúng ta lại phải tạo lục đạo luân hồi, lục đạo luân hồi đã tạo vô lượng kiếp rồi, khổ không thể tả, vẫn muốn tiếp tục tạo nữa sao? Trước đây chưa có gặp được Kinh Đại Thừa, đây là chướng nạn, không có duyên giác ngộ, chưa có duyên quay đầu. Hôm nay gặp được rồi, đích thực là nhân duyên hy hữu từ vô lượng kiếp. Sau khi gặp được rồi phải biết quý trọng, phải quay đầu từ đây, không tạo nghiệp luân hồi nữa, thân tâm thế giới tất cả buông xả, y giáo phụng hành, thật thà niệm Phật, như vậy mới tốt!