KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 89
Xin mời mở bản kinh ra, phần khoa chú quyển hạ, trang 61. Mời xem kinh văn:
“Phục thứ Quán Thế Âm Bồ Tát! Nhược vị lai hiện tại chư thế giới trung lục đạo chúng sanh, lâm mạng chung thời, đắc văn Ðịa Tạng Bồ Tát danh, nhất thanh lịch nhĩ căn giả, thị chư chúng sanh vĩnh bất lịch tam ác đạo khổ. Hà huống lâm mạng chung thời, phụ mẫu quyến thuộc, tương thị mạng chung nhân xá trạch, tài vật, bảo bối, y phục, tố họa Ðịa Tạng hình tượng, hoặc sử bệnh nhân vị chung chi thời, nhãn nhĩ kiến văn tri đạo quyến thuộc tương xá trạch bảo bối đẳng, vị kỳ tự thân tố họa Ðịa Tạng Bồ Tát hình tượng.”
(Lại vầy nữa này Quán Thế Âm! Trong các thế giới về thuở hiện tại nay và vị lai sau, những hàng chúng sanh trong sáu đường, như có kẻ sắp mạng chung mà đặng nghe một tiếng danh hiệu của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát thoáng qua lỗ tai, thì kẻ mạng chung đó không còn bị đọa vào chốn khổ ba ác đạo. Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng thân quyến đem của cải nhà cửa, vật báu, y phục v.v… của người sắp mạng chung đó mà làm của chi phí để tô đắp hay họa vẽ hình tượng của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát.)
Đây là chuyển ác nghiệp trong lúc lâm chung. Sự việc này đã có rất nhiều người chú ý đến rồi. Lần này tôi ở Úc Châu, đã có một vị đồng tu đến hỏi tôi về chuyện người già trong gia đình của mình, đến lúc lâm chung phải xử trí như thế nào, giúp đỡ họ như thế nào? Những vị đồng tu này chưa chắc có nhận thức thật sâu sắc về Phật pháp, nhưng họ cũng có quan tâm đến việc lớn lúc lâm chung. Nhà Phật thường nói: “Việc lớn sinh tử”. Bởi vì con người lúc lâm chung, không phải nói là người này đã chết rồi, chết rồi thì mọi thứ đều chấm dứt, vậy thì không cần đến những sự quan tâm lo lắng này nữa. Nhưng thế gian này có không ít người thông minh, có không ít người có trí tuệ, hiếm có hơn nữa là những tín đồ tôn giáo. Mặc dù họ không hiểu rõ ràng đạo lý của việc lớn sinh tử là thế nào, nhưng sự tồn tại của sự thật này, họ đều có thể tin sâu không nghi, đều có thể lo nghĩ sau khi chết rồi sẽ đi đầu thai vào cõi nào? Đi thọ thân vào cõi nào? Có thể giác ngộ được điểm này, là tương đối không dễ rồi. Thông thường nói chính là nhân duyên quả báo, họ có thể ý thức được đến mức này, thì khi ở thế gian khởi tâm động niệm, mọi thứ tạo tác họ cũng sẽ thúc liễm được chút ít. Đây cũng là ý nghĩa mà cận đại Ấn Quang Đại Sư muốn cứu vãn thế đạo nhân tâm, tiêu trừ kiếp nạn cho thế gian, nên Ngài đặc biệt đề xuất giáo dục nhân duyên quả báo, đạo lý là ở chỗ này. Nếu như nói với họ về đạo lý lớn của vũ trụ nhân sinh, thì người thật sự có thể thể hội, lý giải được không nhiều. Nhưng nói lý luận và sự thật về nhân quả báo ứng thì người bình thường đều có thể hiểu được, đều có thể lĩnh hội được. Và đối với việc thay đổi lòng người trong thế gian, khuyến khích mọi người đoạn ác tu thiện, tiêu trừ một số tai nạn trong thế gian, cũng có thể thu được hiệu quả tốt đẹp. “Kinh Địa Tạng” đối với đường lối này, cách dạy học này có thể nói là có khối lượng rất nặng. Đây cũng là điều mà phần trước chúng tôi có nhắc đến, tại sao sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ, Ngài đã đem nhiệm vụ giáo hóa chúng sanh ủy thác cho Bồ Tát Địa Tạng, đạo lý là ở chỗ này. Kinh văn khi vừa mở đầu, liền gọi Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán Thế Âm đại biểu cho chúng sanh lục đạo. Gọi Bồ Tát Quán Thế Âm là cũng giống như gọi tên chúng ta vậy. Lời khai thị của kinh văn từ nay về sau đối với chúng ta mà nói là vô cùng thân thiết. Đặc biệt chúng ta nhìn thấy: “Vị lai hiện tại chư thế giới trung” (Trong các thế giới về thuở hiện tại nay và vị lai sau) đem vị lai đặt lên phía trước. Ngài nói “hiện tại” là đem đại chúng trong pháp hội lúc đó đặt ở vị trí thứ hai, đem vị lai đặt lên hàng đầu. Có thể thấy kinh này trên thực tế ý của giảng kinh là giảng cho chúng ta. “Chư thế giới trung” (Trong các thế giới) là không chỉ mỗi thế giới Ta Bà. Cũng chứng tỏ cho thấy pháp môn Địa Tạng là tận hư không, khắp pháp giới, nó không có khác gì so với với kinh Tịnh Độ, “Kinh Hoa Nghiêm”. Từng li từng tí tỏ rõ được phạm vi của pháp Đại Thừa là tận hư không, khắp pháp giới. Đối tượng của Đại Thừa là tất cả chúng sanh trong pháp giới. Chúng ta thể hội được ý nghĩa này thì tâm lượng của bạn mới có thể mở rộng được. Đây là chân tâm, đây là tâm lượng vốn có của chúng ta. “Tâm lượng bao trùm hư không, khắp các cõi giới” là tâm vốn có của tất cả chúng sanh, không có khác gì so với chư Phật Như Lai. Tại sao tâm lượng hiện nay lại trở nên nhỏ bé như vậy? Tâm lượng nhỏ mới bị tà môn ngoại đạo này lừa gạt, mới gặp phải những chuyện bị thiệt thòi, bị lừa gạt này. Tâm lượng mở rộng thì sẽ không bị như vậy. Hư không pháp giới mọi thứ đều không hai. Cho nên kinh văn từng câu từng chữ đều có ý nghĩa sâu rộng vô hạn, chúng ta cần thể hội cho được, cần học tập ở trong đây, cho nên viết là “Chư thế giới trung” chứ không có viết là thế giới Ta Bà. Trong đây đặc biệt là nói: “Lục đạo chúng sanh”. Cõi nước chư Phật đều có chúng sanh lục đạo. Cõi không có chúng sanh lục đạo là có nhưng không nhiều. Giống như thế giới Tây Phương Cực Lạc là không có chúng sanh lục đạo. Đại đa số cõi nước chư Phật đều có chúng sanh lục đạo, đều rất khổ, mê rất sâu. “Lâm mạng chung thời đắc văn Địa Tạng Bồ Tát danh.” (Lúc sắp mạng chung mà đặng nghe một tiếng danh hiệu của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát.) Chữ mấu chốt ở đây là chữ “Văn”. Chữ văn ở đây là văn tuệ trong tam tuệ của Bồ Tát. Bạn mới biết không phải tùy tiện mà nghe được. Người bình thường trong thế gian chúng ta đã hiểu sai ý nghĩa ở chỗ này. Đây là Kinh Đại Thừa, tất cả đều phải dùng tiêu chuẩn của Bồ Tát Đại Thừa để đo lường. Tam tuệ của Bồ Tát được xây dựng ở trên cơ sở tam học của Thanh Văn. Hiện nay có rất nhiều người nói tụng “Kinh Địa Tạng”, cũng dựa theo những gì trong “Kinh Địa Tạng” nói mà tu hành, nhưng không đạt được quả báo, thế là phỉ báng Phật, phỉ báng pháp, nói “Kinh Địa Tạng” không linh. Họ không có nghĩ rằng bản thân họ đã hiểu sai ý nghĩa chân thật của Như Lai, chứ không phải kinh không linh. Trong kinh nói kẻ thiện nam, người thiện nữ. Bạn có đạt được tiêu chuẩn của “Thiện” chưa? Chưa có người nào nghĩ đến. Tiêu chuẩn của “thiện” là gì? Tam Phước, đã nói với chúng ta rất rõ ràng. Tiêu chuẩn của người thiện trong thế gian là “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ, từ tâm không giết hại, tu thập thiện nghiệp.” bạn có làm được chưa? Bạn làm được rồi, thì bạn là người thiện của thế gian. Phật pháp là được xây dựng trên cơ sở của thiện thế gian. Ngay cả tiêu chuẩn này bạn cũng không làm được, thì việc học Phật của bạn chỉ mới ở ngoài cửa, chưa vào cửa Phật được. Tu như thế nào đi nữa cũng là kẻ ở ngoài cửa, chưa vào cửa được, đạo lý này nhất định phải biết. Sau khi có cơ sở này rồi, vậy mới có thể vào cửa Phật. Tiêu chuẩn vào cửa Phật là phước thứ hai: “Thọ trì tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi.” Bạn đã làm được chưa? Tam quy, mọi người ngày nay chỉ làm trên hình thức, không có nội dung thực chất, thì sao có thể có cảm ứng được? Trong Giới Kinh đã nói với chúng ta rất rõ ràng, bạn thật sự thọ trì Tam Quy, thì bạn sẽ được ba mươi sáu vị thần hộ pháp ngày đêm bảo vệ bạn. Ngày nay bạn đã thọ trì Tam Quy rồi, mà không có vị thần hộ pháp nào. Bạn thọ ngũ giới, bạn thọ một giới liền có năm vị thần hộ pháp bảo vệ bạn. Nếu đầy đủ ngũ giới liền có hai mươi lăm vị thần hộ pháp ngày đêm bảo vệ bạn. Ngày nay bạn chẳng có vị thần hộ giới nào cả, chẳng có vị thần hộ pháp nào cả. Vậy là thọ Tam Quy, Ngũ Giới của bạn là uổng công rồi. Phật giáo ngày nay chúng ta phải hiểu rõ ràng, mọi người phát tâm tiếp nối huệ mạng Phật, hoằng pháp lợi sinh, đây là sự nghiệp lớn tuyệt vời, bất kỳ sự nghiệp thế gian nào cũng không thể sánh bằng sự nghiệp này. Cho nên Phật pháp quan trọng ở hành, chứ không phải nói. Nói nhiều đi nữa cũng không có tác dụng, nhất định phải làm được. Đầy đủ phước thứ hai thì văn tuệ mới có cơ sở, đây là Phật pháp sơ cấp, tu tam học giới, định, tuệ. Nhờ giới đắc định, nhờ định khai tuệ. Sau khi tuệ khai rồi mới có văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ. Chữ “Đắc văn” (được nghe) ở chỗ này là Bồ Tát văn danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng. Vừa nghe danh hiệu liền tương ưng ngay. Tương ưng với cái gì? Tương ưng với toàn kinh. Bồ Tát Địa Tạng là tên của bộ kinh này. Nghe thấy cái tên này thì lý luận, phương pháp, cảnh giới mà trong kinh này nói đồng thời đều có thể hiện tiền. Bạn mới có thể ngộ nhập cảnh giới này. Cho nên nói: “Nhất thanh lịch nhĩ căn giả, thị chư chúng sanh vĩnh bất lịch tam ác đạo khổ.” (Vừa qua căn tai, thì các chúng sanh này vĩnh viễn không còn trải qua nỗi khổ trong ba ác đạo) Là vĩnh viễn không còn bị đọa ba ác đạo. Đây là cảnh giới gì? Các bạn đồng tu đều biết rõ, các bạn đã học qua giáo lý rồi. Chứng quả Tu-đà-hoàn thì vĩnh viễn không còn bị đọa ba ác đạo. Nếu như chưa chứng được quả Tu-đà-hoàn, thì không thể tránh khỏi ba ác đạo được. Ở đây nói nghe được danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng liền chứng sơ quả. Địa vị này ở Đại Thừa viên giáo chính là Bồ Tát quả vị sơ tín. Vậy chẳng phải là nói với bạn đã siêu phàm nhập thánh rồi sao? Bạn muốn hỏi sao họ vừa nghe danh hiệu Bồ Tát là có thể vào được cảnh giới này? Quý vị thử nghĩ rất nhiều công án của Thiền Tông trước đây ở Trung Quốc, không nhất định là nghe danh hiệu Phật, danh hiệu Bồ Tát, không chừng bạn nhìn thấy một cái gì đó, nghe thấy âm thanh gì đó liền hoát nhiên khai ngộ. Đây là chuyện chúng ta nghe thấy rất nhiều ở trong công án Thiền Tông. Việc đó khó, đó là cảnh giới khế nhập tự tánh. Việc này thì dễ, Giáo Hạ dễ hơn Tông Môn. Nhưng mà mức ngộ nhập của Giáo Hạ thì không triệt để giống như Tông Môn được. Tông Môn không ngộ thì vô phương, vừa ngộ họ kiến tánh. Còn ở đây khi ngộ nhập, chưa chắc là kiến tánh. Nhưng mà một niệm nghĩ đến thì những lời giáo huấn, những lời căn dặn trong kinh giáo chỉ dạy chúng ta tự nhiên sẽ sinh khởi lên trong tâm mình, liền có thể ngay đó mà sám trừ nghiệp chướng của mình, là có thể phát tâm noi theo hành nghi của Bồ Tát Địa Tạng, vậy là vào quả vị Bồ Tát sơ tín. Quả vị Bồ Tát Sơ Tín ở trên đoạn đức mà nói, là tương đồng với sơ quả Tiểu Thừa. Thật sự là vĩnh viễn không còn trải qua ba ác đạo. Tuy chưa có ra khỏi lục đạo luân hồi, nhưng chắc chắn không còn đọa ba ác đạo. Bạn muốn hỏi tại sao không đọa ba ác đạo? Là cắt đứt duyên của ba ác đạo rồi. Duyên của ba ác đạo là gì? Là tham, sân, si, mạn. Người này luôn luôn nghĩ đến Bồ Tát, luôn luôn noi theo Bồ Tát, nên cái tâm tham, sân, si, mạn, nghi này đều dứt hết, thật sự không còn nữa, niệm niệm tương ưng với thanh tịnh, bình đẳng, giác, từ bi. Người mê khởi tâm động niệm không có quên bản thân mình, lúc nào cũng lấy mình làm trung tâm, đây là mê, chấp trước, không buông xả. Người giác ngộ rồi thì luôn luôn nghĩ đến tất cả chúng sanh. Tai nạn của thế giới này nhiều như vậy, chúng sanh khổ như vậy. Người giác ngộ khởi tâm động niệm là luôn nghĩ chúng ta làm sao giúp đỡ họ, làm sao cứu vãn tai nạn này. Bản thân chúng ta không đủ trí tuệ, không đủ năng lực, cũng không có phước báo. Vậy khởi cái tâm này, động cái niệm này, chẳng phải là khởi vọng tưởng sao? Không sai, đó là vọng tưởng. Nếu như dùng chân tâm nghĩ đến vấn đề này, thì tự nhiên sẽ được Phật Bồ Tát gia trì. Chúng ta không có trí tuệ, nhưng Phật có trí tuệ, chúng ta không có năng lực, nhưng Phật có năng lực, chúng ta không có phước báo, nhưng Phật có phước báo. Điều này trước đây đại sư Chương Gia chỉ dạy tôi. Chính ông cụ dạy tôi phải nương tựa Phật Bồ Tát mới được, không nên nương tựa người. Người có người hộ pháp lớn, họ ở trong thế gian này làm quan lớn, phát tài to, bạn nương tựa những người đó! Những người đó không đáng tin cậy. Nương tựa Phật Bồ Tát mới đáng tin. Chúng ta dùng tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, giác, dùng tâm đại từ bi vì xã hội, vì chúng sanh, đặc biệt là vì chúng sanh khổ nạn, vậy là rất tương ưng với Bồ Tát Địa Tạng rồi. Chư Phật Như Lai, chư đại Bồ Tát, pháp thân, báo thân, ứng hóa thân của họ, đều ở trong tận hư không, khắp pháp giới. Nơi nào có cảm thì nơi đó liền có ứng, cảm ứng đạo giao không mảy may sai chạy. Đạo lý lớn này chúng ta phải thông đạt, sáng tỏ, sau đó tâm của bạn mới thanh tịnh được, bạn mới có thể có cảm ứng. Chúng ta học Phật nương nhờ vào điều gì? Là nương nhờ vào điểm này. Bản thân chúng ta thành tựu thì chúng sanh có phước, bản thân chúng ta không thành tựu thì chúng sanh sẽ thọ khổ, sẽ gặp tai nạn. Cho nên sự khổ nạn của tất cả chúng sanh, trước đây tôi thường hay nhắc nhở các đồng tu, ai tạo nên khổ nạn vậy? Do ta tạo nên, do ta tu không tốt mới khiến chúng sanh thọ khổ, nhất định phải tự mình gánh vác trách nhiệm này, tuyệt đối không được đùn đẩy cho người khác. Việc này không có liên quan gì đến ta, có vị Phật Bồ Tát nào nói chúng sanh khổ nạn là không có liên quan gì đến mình không? Bạn tra hết kinh cũng không thấy nói như vậy. Phật Bồ Tát khác với người thế gian, mọi người đều biết giác, mê khác nhau. Người mê hoặc điên đảo họ đùn đẩy trách nhiệm, chối bỏ trách nhiệm. Người giác ngộ thì hoàn toàn không đùn đẩy trách nhiệm. Cho nên đoạn đức giống nhau, nhưng trí tuệ khác nhau. Trí tuệ của Bồ Tát quả vị sơ tín, cao hơn quá nhiều so với sơ quả Tiểu Thừa, đây là điều chúng ta cần phải học tập. Bạn hiểu rõ đạo lý, sáng tỏ chân tướng sự thật này, bạn sẽ không còn nghi hoặc khi đọc đoạn kinh văn này, mới biết đây là lời chân thật. Dưới đây là nói tu phước. Có thể tu phước thì sẽ tốt hơn nữa. Đây là nói:
“Hà huống lâm mạng chung thời, phụ mẫu quyến thuộc, tương thị mạng chung nhân xá trạch, tài vật, bảo bối, y phục.”
(Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng thân quyến đem của cải nhà cửa, vật báu, y phục v.v…)
Đoạn này rất quan trọng. Nhất định là của chính họ, là đem tài sản của chính họ ra để tu phước, vậy mới có công đức. Đem tài sản của người khác ra để tu tích công đức, thì mình không được gì cả. Công đức tu tích được là của người khác, mình vẫn rơi vào tình trạng tội nghiệp đầy mình, điều này phải biết, nhất định phải là của mình. Tài sản của mình mới gọi là tịnh tài. Nếu như họ ở thế gian phước báo rất lớn, nhà cửa của gia đình họ rất lớn, rất nhiều đất đai. Thời cổ đại ở Trung Quốc chúng ta nhìn thấy, thường thường họ đem nhà cửa đất đai của mình ra hiến tặng làm đạo tràng, điều này trong lịch sử chúng ta nhìn thấy rất nhiều. Giống như cư sĩ Dương Nhân Sơn thời cận đại, đó là vị trưởng giả rất giàu có. Trước lúc ông vãng sanh, lúc chưa vãng sanh, ông đã viết di chúc, đem nhà cửa đất đai của mình ra hiến tặng làm Kim Lăng Khắc Kinh Xứ. Hiện nay các bạn đến Nam Kinh hãy đến thăm Kim Lăng Khắc Kinh Xứ, đó là nhà của Dương Nhân Sơn. Số tài sản này của ông, ông không có để lại cho con cháu của mình, đem ra hiến tặng làm sự nghiệp Phật giáo, đây là tấm gương rất tốt cho chúng ta. Tài sản, vật báu của ông thật sự là đều đem ra hiến tặng hết. Bố thí, y phục, quần áo của bạn quá nhiều đem tặng người khác, người khổ nạn trong thế gian rất nhiều. Họ không có cơm ăn, không có quần áo mặc, tại sao bạn không đem ra hiến tặng bố thí? Đây là tu phước đích thực. Bản thân chúng ta dùng vài bộ quần áo thay ra thay vào là đủ rồi, có vài đôi giày thay ra đổi vào cũng đủ rồi. Gia đình giàu có một người, chúng tôi trước đây xem thấy ở trên báo, có một vị phu nhân của tổng thống, giày của bà có đến mấy nghìn đôi, còn nhiều hơn cả tiệm bán giày. Quần áo bao nhiêu bộ thì chúng tôi không biết, vì trên báo không có đăng. Một mình bạn làm sao mang nổi? Bố thí là tu phước. Có rất nhiều phương pháp bố thí tu phước, ở đây là nêu ra một ví dụ. Cho nên chúng ta đọc kinh cũng không nên chết cứng ở trên câu kinh, thế là sai rồi. Phương pháp bố thí rất nhiều, ở đây chỉ nêu ra một ví dụ là “Tố họa Địa Tạng hình tượng” (Đắp vẽ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng.) Tại sao vậy? Việc này là dễ làm nhất. Nếu như bảo bạn làm giống như Dương Nhân Sơn đem nhà cửa đất đai hiến tặng làm đạo tràng, vậy thì khó rồi. Rất nhiều người sẽ nói tôi không có sức lớn như vậy được, nhà của tôi rất nhỏ, không có thì dù quyên góp cũng không thể làm đạo tràng được. Nêu ra ví dụ này, nếu như nói đắp vẽ hình tượng Địa Tạng, cái này thì không khó. Tùy theo tài lực của bạn, bạn có khả năng thì đắp nặn hình tượng Bồ Tát Địa Tạng trang nghiêm cao lớn. Sức mình nhỏ thì nhờ một người vẽ cho bạn một bức hình Bồ Tát Địa Tạng, đây chính là tùy theo sức lực. Nhưng vào thời đó thì được, không có vấn đề gì, công đức tạo tượng rất lớn. Hiện nay thời đại này tạo tượng, hỏi bạn có công đức hay không? Là có công đức, không thể phủ nhận, nhưng không rõ rệt, hiện tiền không nhận được quả báo. Đạo lý này ở chỗ nào vậy? Phật pháp hoằng dương không được rộng lớn. Người tụng “Kinh Địa Tạng” rất nhiều, nhưng mấy người hiểu được ý nghĩa ở trong “Kinh Địa Tạng”? Từ đó cho thấy, nếu như khiến tất cả chúng sanh tạo công đức chân thật ở trong cửa Phật, có thể nhận được quả báo ngay hiện tiền, thì nhất định phải có người tuyên dương, đem pháp môn Địa Tạng giảng thật thấu triệt, thật rõ ràng. Người ta vừa nhìn thấy hình ảnh Bồ Tát Địa Tạng, cảm nhận của họ sẽ khác. Nếu như đối với Phật pháp hoàn toàn không hiểu rõ, không sáng tỏ, thậm chí là có hiểu lầm, cho đây là tượng đất vô tri. Hình tượng Bồ Tát Địa Tạng thờ cúng khi họ nhìn thấy không hề có mảy may tâm cung kính, vả lại còn phê bình là thờ tượng đất vô tri, là mê tín! Chúng ta thử hỏi đối với loại người phê bình, chỉ trích này có lợi ích hay không? Có lợi ích, “Vừa qua căn tai vĩnh viễn thành hạt giống đạo”, thế là vô lượng kiếp về sau mới khởi tác dụng, chứ hiện nay không khởi tác dụng. Trong kinh nói rất rõ ràng, tội phỉ báng vẫn là phải đọa địa ngục để thọ tội. Đợi đến sau khi thọ xong cái tội đó rồi, thì hạt giống đạo vừa qua căn tai này, tương lai gặp được thiện duyên, họ có thể khởi hiện hành. Từ đó cho thấy, công việc hoằng pháp thời hiện nay là quan trọng hơn hết. Bất kỳ sự nghiệp thế gian và xuất thế gian nào cũng không thể quan trọng bằng sự nghiệp hoằng dương Phật pháp. Đồng học chúng ta phát tâm xuất gia, bất kể nhân duyên xuất gia của bạn là gì, tóm lại là do thiện căn, phước đức, nhân duyên hiện nay đầy đủ rồi. Nhân duyên phát tâm có thể không cần phải bàn cãi, trong đời này có cơ hội tiếp xúc được chánh pháp, có cơ hội nghe được chánh pháp, tu học chánh pháp, vậy là thành công rồi. Đây không chỉ là việc đáng vui mừng trong đời chúng ta. Đúng như lời cổ đức nói, đó là cơ hội hiếm có, khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay. Đời này chúng ta gặp được rồi, nhất định phải biết quý trọng, nhất định phải hăng hái. Hăng hái là khắc phục tập khí phiền não của mình, đây gọi là hăng hái. Chúng ta trong đời này không có bỏ phí cơ duyên này. Nếu không thể khắc phục tập khí phiền não của mình, thuận theo tập khí phiền não của mình thì vô cùng đáng tiếc. Trong kinh đức Phật gọi là “Kẻ đáng thương xót”. Đáng thương xót là không phải chỉ người khác. Một người trong đời không có gặp được Phật pháp, vậy thì có gì đáng thương chứ? Gặp được Phật pháp mà ngay đó bỏ lỡ, thì người này thật đáng thương. Từ đó cho thấy trong kinh đức Phật nói “Kẻ đáng thương xót” là chỉ ai vậy? Là chỉ hạng người chúng ta đây, bỏ lỡ cơ hội ngay trước mặt. Không thể khế nhập cảnh giới ngay trong đời này, nguyên nhân là bạn vẫn cứ thuận theo tập khí phiền não, bạn vẫn không thể khắc phục được mình. Sau khi niệm Phật đường xây dựng xong, rất nhiều đồng tu đã làm nên tấm gương khắc phục bản thân cho chúng ta thấy. Vốn dĩ bản thân phiền não rất nặng, tập khí rất nặng, ngủ rất nhiều, uể oải rả rời, bước vào niệm Phật đường không có một chút niềm tin nào, làm sao có thể chịu đựng nổi suốt từ hai mươi bốn giờ đến ba mươi sáu giờ đồng hồ? Sau khi bước vào, niệm được mấy lần là có thể khắc phục được tập khí phiền não rồi, đây là tấm gương rất rõ rệt. Cho nên niệm Phật đường đã thành tựu được rất nhiều người, nên công đức của nó là vô cùng thù thắng. Người lớn tuổi nhìn thấy người trẻ tuổi tinh tấn như vậy, cảm thấy mình không còn nhiều thời gian, nên càng phải tinh tấn hơn nữa, họ nhận được sự khích lệ. Người tuổi trẻ nhìn thấy người lớn tuổi, tuổi tác cao như vậy mà suốt hai mươi bốn giờ đến ba mươi sáu giờ họ không ngủ không nghỉ, thì người trẻ sẽ càng hổ thẹn hơn, khích lệ lẫn nhau, cảnh sách lẫn nhau, nó có thể thu được hiệu quả này. Một người niệm Phật sẽ dễ bị giải đãi, rất dễ thuận theo tập khí phiền não. Đây chính là nguyên nhân tại sao đại sư Mã Tổ và Bá Trượng thời triều Đường đề xướng cộng tu. Xây tùng lâm chính là đề xướng cộng tu, cái hay của cộng tu là ở chỗ này, là nương tựa vào đại chúng. Trước thời gian này, đức Phật giảng kinh thuyết pháp, hướng dẫn đại chúng tu hành, đó là việc của cá nhân mình. Ở trong kinh Phật chúng ta không có nhìn thấy đức Phật lãnh chúng tu hành, không có! Đức Phật chỉ có giảng kinh thuyết pháp, còn tu hành là chuyện của mỗi người. Thời đó mỗi người đều biết dụng công, không cần người khác đốc thúc, mà người nào cũng thành tựu. Từ thời Chánh Pháp đến Tượng Pháp, sau đó thời Tượng Pháp chuyển đến Mạt Pháp, căn tánh của con người mỗi đời một tệ, dần dần giải đãi, lười biếng, phóng dật, rất khó khắc phục tập khí phiền não của mình, cho nên Ngài Mã Tổ, Bá Trượng mới đề xướng cộng tu. Mã Tổ, mọi người nghe cho rõ, đó không phải là Mã Tổ mà dân gian thờ cúng. Nếu bạn hiểu như vậy, là bạn đã quá đỗi sai lầm rồi. Tổ, Ngài là Tổ Sư của Thiền Tông, họ của Ngài là họ Mã, mọi người xưng Ngài là Mã Tổ. Pháp danh của Ngài là Đạo Nhất, là thiền sư Đạo Nhất, người ta thường quen gọi Ngài là Mã Tổ, chứ không phải là Mã Tổ mà dân gian thờ cúng. Thiền sư Đạo Nhất và thiền sư Bá Trượng hai Ngài là người phát khởi xây tùng lâm đề xướng cộng tu, đề xướng nương vào đại chúng. Đây là điểm đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc, đặc biệt là thời kỳ Mạt Pháp. Trước đây tiên sinh Phương Đông Mỹ đã nói với tôi rất nhiều lần. Ngài nói Phật giáo muốn phục hưng trở lại, thì nhất định phải khôi phục lại chế độ tùng lâm. Khôi phục chế độ tùng lâm tức là khôi phục chế độ cộng tu. Ngày nay chúng tôi đề xướng làng Di Đà chính là muốn hiện đại hóa tùng lâm. Trên hình thức là khác với tùng lâm trước đây, nhưng thực chất là giống nhau. Đây chính là nhà Phật thường nói tiếp nối huệ mạng Phật. Chúng tôi thay đổi ở trên hình thức, nhưng thực chất là không có thay đổi. Cho nên nền giáo dục của nhà Phật, chúng ta nhất định phải làm cho xã hội nhận biết. Cách thức dạy học của chúng ta khác với cách thức dạy học của xã hội hiện nay. Tại sao khác nhau? Mục đích khác nhau. Giáo dục của xã hội là bồi dưỡng dạy kỹ năng, còn mục đích giáo dục của Phật pháp là nhằm khai mở trí tuệ, phá mê khai ngộ, là hướng đến trí tuệ chân thật, chứ không phải đặt kỹ thuật, năng lực lên hàng đầu. Chúng ta là đem trí tuệ chân thật đặt lên hàng đầu, vậy là hoàn toàn khác nhau. Nền giáo dục nhà Phật là ở giới, định, tuệ. Sách giáo khoa của chúng ta cũng là giới, định, tuệ tam học. Bộ “Đại Tạng Kinh” này người ta gọi là Tam Tạng. Tam Tạng là ba tạng Kinh, Luật, Luận. Nội dung bên trong nói chính là giới, định, tuệ tam học, cái này là hoàn toàn khác với cách dạy học trong trường học thế gian. Chúng ta cần phải đem điều này nói cho người đời biết. Nếu như dùng khái niệm của họ để nói, thì nhà Phật chú trọng ở giáo dục đức hạnh. Nền giáo dục xã hội hiện nay thiếu sót ở khâu này, là không có cái khâu này. Nếu như muốn xã hội ổn định, thế giới hòa bình, muốn xã hội đa nguyên văn hóa, có thể đạt đến đôi bên tôn trọng lẫn nhau, yêu thương, kính trọng lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau, thì giáo dục đức hạnh là vô cùng quan trọng. Đây là nền giáo dục đặc thù, chứ không phải là giáo dục phổ thông. Nếu như dùng khái niệm giáo dục phổ thông, dựa theo pháp lệnh, quy tắc của họ, thì giáo dục Phật giáo sẽ không có cách gì đạt đến mục tiêu của mình được, điều này chúng ta nhất định phải hiểu rõ, phải biết. Nền giáo dục cổ đại của Trung Quốc là rất gần với giáo dục Phật giáo. Nhưng nền giáo dục hiện nay là hoàn toàn khác với giáo dục cổ đại Trung Quốc và giáo dục nhà Phật. Chúng ta cần phải nhận thức rõ ràng, cũng cần phải khiến cho đại chúng xã hội cùng biết, khiến cho tương lai giáo dục Phật giáo có thể thông suốt chứ không có chướng ngại. Chúng ta có thể cống hiến thành quả của chúng ta cho xã hội, chúng ta bồi dưỡng, huấn luyện những vị pháp sư này. Pháp sư có pháp sư xuất gia, có pháp sư tại gia. Pháp sư xuất gia, tại gia là người có cống hiến đối với xã hội. Đây là đoạn này nói ra việc tu phước. Đoạn này dưới đây, đây là nói chuyển nghiệp. Chuyển nghiệp tốt nhất là khiến cho bệnh nhân biết, biết người thân quyến thuộc tu phước cho họ. Tại sao vậy? Trong kinh luận thường nói “Cảnh chuyển theo tâm”. Người thân quyến thuộc tu phước cho họ, mà bản thân họ không biết thì khó chuyển đổi, chuyển đổi chậm, bởi vì họ không biết, không biết mình có phước, họ có tâm tự ti. Nếu như biết mình có phước báo thì sẽ chuyển đổi nhanh. Trong đại kinh thường nói: “Cảnh chuyển theo tâm”, “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Cho nên chúng ta tu phước cho họ nhất định phải khiến cho họ biết. Họ biết mình đã tu được những phước báo nào, có phước báo chân thật thì họ sẽ sinh tâm hoan hỷ, vì vậy chuyển nghiệp dễ dàng. Bởi vì nguyên nhân này, khiến cho bệnh nhân lúc chưa lâm chung, đầu óc họ còn tỉnh táo, nói cho họ biết người nhà đem tiền của của họ đi làm rất nhiều việc phước báo như vậy. Hôm qua cư sĩ Lý đến bàn tính với tôi. Niệm Phật đường kiến nghị của tôi là thờ một vạn bức tượng Phật A Di Đà. Cho nên ông cùng tôi nghiên cứu, một vạn bức tượng Phật A Di Đà là dùng cách thức điêu khắc gỗ hay là đắp phù điêu, cách làm như thế nào? Trong niệm Phật đường, tại sao chúng ta lại thờ nhiều tượng Phật như vậy? Có hai ý nghĩa; ý nghĩa thứ nhất là đây là tất cả chư Phật Như Lai gia trì, tất cả chư Phật Như Lai đều niệm Phật A Di Đà. Cho nên bạn bước vào niệm Phật đường này, thì tất cả chư Phật mười phương ba đời đều gần gũi. Ý nghĩa thứ hai là, người niệm Phật chúng ta tương lai đều thành Phật, niệm Phật A Di Đà đều làm Phật A Di Đà, mỗi người chúng ta đều là hóa thân của Phật A Di Đà. Bước vào niệm Phật đường, tượng Phật trong niệm Phật đường có một bức là mình, bạn nói thân thiết biết bao! Cho nên bước vào trong đây là ta người không hai, chúng sanh và Phật không hai, chúng sanh với Phật là một. Ở trong đây có chứa đựng ý nghĩa biểu tượng, công đức này là vô cùng thù thắng, vô cùng trang nghiêm. Mỗi người chúng ta khi bước vào niệm Phật đường cảm thấy rất thân thiết. Cho nên tượng Phật phải tạo cho thật trang nghiêm. Chúng ta cũng dùng cách thức này để phát triển đạo tràng này, khiến cho mọi người đều có thể sinh tâm hoan hỷ, hết lòng hết sức để thành tựu đạo tràng này. Hy vọng đạo tràng này trở thành tấm gương tốt cho đạo tràng niệm Phật trên toàn thế giới. Hiện nay mỗi tháng các tổ chức đoàn thể từ các nơi ở hải ngoại phát tâm đến nơi đây để niệm Phật ngày càng nhiều rồi, tự nhiên nơi đây trở thành một ngôi niệm Phật đường trung tâm niệm Phật, cho nên có được cảm ứng không thể nghĩ bàn.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.