Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 44

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 44

 “Hoặc dạ mộng ác quỉ nãi cập gia thân. Hoặc du hiểm đạo, hoặc đa yêm mị, cộng quỉ thần du.” (Hoặc đêm nằm chiêm bao thấy quỉ dữ cho đến kẻ thân thích trong nhà. Hoặc thấy đi trên đường nguy hiểm hoặc bị bóng đè, hoặc với quỉ thần cùng đi.)

  Đoạn này tôi cũng đã trải qua rồi, trước đây thường có, nhất là gặp phải yểm quỉ. Bóng đè tức là gặp phải yểm quỉ. Yểm quỉ cũng là một loại trong bát bộ quỉ thần, chúng ta đọc thấy ở trong kinh. Khi bị quỉ đè, trong tâm biết rất rõ ràng, mà người không thể động đậy được, trước đây thường bị. Nhất là nhà mình ở, thông thường người thế gian gọi là không sạch sẽ, là trong nhà có quỉ. Gặp phải những chuyện này, phần lớn là thời vận của mình tương đối bị sa sút. Khi con người gặp vận may thì những quỉ thần này không dám động đến bạn, chúng lánh xa bạn. Khi thời vận bạn suy, chúng sẽ ức hiếp bạn. Cho nên gặp phải yểm quỉ là biết, biết mình không có vận may, nên bị nó ức hiếp. Sau khi học Phật thì những chuyện này dần dần giảm bớt. Đại khái mười năm đầu học Phật vẫn còn, sau mười năm thì chuyện này không còn nữa. Cho nên tu học thật sự là có hiệu quả. Bạn nhìn thấy bản thân bạn có tiến bộ hay không, công phu có đắc lực hay không, bạn so với trước khi chưa có học Phật, hoặc giả so với lúc vừa mới học Phật, thử so sánh liền biết ngay. Trước đây những cơn ác mộng này nhiều, khi nằm mộng thì thấy lung tung. Về sau tuy là có mộng, nhưng mộng rất sáng suốt, trong mộng là gần giống như đời sống bình thường vậy, vậy là có tiến bộ rất lớn. Nếu như thường hay mộng thấy Phật Bồ-tát, chúng tôi giảng kinh thuyết pháp, thường hay mộng thấy giảng kinh thuyết pháp, đây là việc tốt, cũng có thể nhìn thấy chỗ công phu tu học đắc lực của mình.

  Sau cùng đây là nói tình trạng bệnh khổ. Đoạn này pháp sư Thanh Liên, ở trong chú giải cũng nói rất tường tận. Ngài nói ở trong “Kinh Phật Thuyết Y” nói, bốn bệnh của con người gồm đất, nước, gió, lửa. Đây chính là chúng ta thường nói là tứ đại bất hòa. Nói đến chỗ này thì con người là loài ăn ngũ cốc, lương thực, đâu có lý nào không bị bệnh được? Tôi ở phần trước đã từng báo cáo qua với quí vị đồng tu rồi. Nguồn gốc của bệnh tật, thứ nhất là ăn uống. Ăn uống chính là đời sống vật chất của chúng ta, nếu không cẩn thận, không lưu ý, sẽ nhiễm phải những loại bệnh tật này, đây là loại thứ nhất. Loại thứ hai là oan gia trái chủ. Giống như trong đây nói mộng thấy ác quỉ, người thân quyến thuộc. Người thân chính là người thân quyến thuộc trước đây, đã chết rồi, đã qua đời rồi, hoặc mộng thấy đến những nơi nguy hiểm, hay ngủ bị bóng đè. Những điều này đều có quan hệ với oan gia trái chủ, thuộc bệnh oan nghiệp. Hễ có loại hiện tượng này, chúng ta nhất định phải chăm chỉ nỗ lực đoạn ác tu thiện, sửa chữa lỗi lầm, thật thà niệm Phật. Tại sao vậy? Có những chuyện này là thời vận của chúng ta rất suy rồi, khí không thịnh vượng. Nếu như thời vận của bạn hanh thông, khí thịnh vượng, thì những ác quỉ, ác thần này chúng sẽ tránh xa bạn. Mặc dù trước đây có chuyện xích mích, chúng cũng không dám đến kiếm chuyện với bạn vào lúc này, chúng biết tránh né. Nhất định đợi đến khi thời vận bạn suy yếu, chúng sẽ đến. Cho nên gặp phải chuyện này là biết khí vận của chúng ta lúc này rất suy, nhất định phải nỗ lực cố gắng tu học. Loại bệnh thứ ba là bệnh nghiệp chướng, phía trước nói: “Đau nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống hay muốn chết cũng đều không được.” Đây là bệnh nghiệp chướng. Bệnh này thì vô phương, thuốc thang, chữa trị cũng không thể giúp được. Siêu độ, tiêu tai miễn nạn cũng không có tác dụng, không thể tiêu được. Dựa vào sức của người khác không thể tiêu nổi, phải dựa vào chính mình sám hối. Sức mạnh của sám hối là quá lớn, quá lớn. Chúng sanh tạo tác ác nghiệp, đây là nguồn gốc đích thực của bệnh tật. Phật, Bồ-tát, A-la-hán các Ngài không tạo ác nghiệp. Đây là nguyên nhân tại sao họ không bị bệnh? Đạo lý là ở chỗ này. Phật, Bồ-tát nếu bị bệnh đó là thị hiện, đó là hoằng pháp. Giống như cư sĩ Duy Ma thị hiện bệnh vậy, đó là hoằng pháp lợi sinh, ông không phải thật sự bị bệnh. Ông không thể bị bệnh được, ông không có lý do bị bệnh. Tất cả chúng sanh khởi tâm động niệm, ý niệm nhỏ nhiệm mình không biết. Chúng ta sau khi học Phật, đọc kinh rồi, mới biết có sự việc như vậy. Ý nghĩ, nhỏ yếu ớt đi nữa, nếu như ý nghĩ này không phải là niệm thiện. Ý nghĩ có thể ảnh hưởng đến sức khỏe. Nếu như là ý nghĩ ác cực nặng, nó sẽ làm thay đổi thể chất. Hiện nay nhà khoa học và những thầy thuốc hiện đại cũng đã dần dần hiểu rõ đạo lý này. Cho nên người tâm lý khỏe mạnh, người tâm trạng ổn định, người tâm trạng tốt, họ bị bệnh nghiêm trọng đi nữa, thì sức khỏe cũng rất dễ dàng hồi phục. Người bình thường cho rằng đây là kỳ tích, thực ra đây đâu phải là kỳ tích, là có đạo lý. Mọi người biết rất rõ cư sĩ Lý Mộc Nguyên, đó là một tấm gương rất tốt, mười năm trước ông bị ung thư. Hiện nay những hồ sơ bệnh lý đó của ông đều còn đó, phim X quang ông chụp, dường như có hơn 30 tấm, ông đều đem ra cho tôi xem. Trong ngũ tạng lục phủ đều có tế bào ung thư. Bác sĩ nói ông chỉ còn sống được ba tháng nữa, nhiều nhất là sáu tháng, bệnh đó thật sự là hết cứu. Ông có thể buông xả vạn duyên, hậu sự đều bàn giao xong, nhất tâm niệm Phật, cũng không đi khám bệnh, không uống thuốc, đợi vãng sanh. Tâm lý ông khỏe mạnh, tâm trạng ổn định, dùng sức mạnh này để tiêu diệt tế bào ung thư, dùng loại sức mạnh này hồi phục sức khỏe bình thường, bác sĩ nói là kỳ tích. Chúng tôi thấy không phải là kỳ tích, rất bình thường. Ý nghĩ có thể thay đổi sinh lý của một con người. Cho nên chết, nói thật sự ung thư cũng không chết. Tại sao ung thư bị chết? Sợ mà chết. Lời tôi nói cũng là rất có đạo lý, bạn biết đây không phải là lời giả dối, đều là do sợ mà chết. Bạn nói có oan uổng không? Cho nên bệnh không gây chết người, chết đều là do sợ mà chết. Mình cảm thấy rất sợ hãi, hằng ngày sợ hãi, hằng ngày sợ chết, hằng ngày nghĩ đến chết, thì sao họ không chết cho được? Họ đương nhiên sẽ chết. Chúng ta nhất định phải hiểu đạo lý, biết làm thế nào có thể khắc phục bệnh khổ. Bệnh chắc chắn là nghiệp chướng. Khi nghiệp chướng hiện tiền, thì phải biết làm sao tiêu trừ nghiệp chướng. Phương pháp tốt nhất của tiêu trừ nghiệp chướng là đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, nhất tâm hướng Phật. Phật là chí thiện, tất cả pháp thế gian và xuất thế gian không có gì thiện hơn Phật. Niệm Phật là thiện đứng đầu. Niệm Phật thật sự có thể giải quyết tất cả vấn đề. Tại sao không niệm Phật? Nếu như nói niệm Phật là mê tín, phần trước nói bạn tạo nghiệp nặng, mê tín niệm Phật cũng có thể được phước. Huống chi bạn có thể chánh tín, bạn có thể hiểu rõ. Lợi ích nhận được khi hiểu rõ niệm Phật, là được ngay hiện tại. Mê tín thật sự là chấp mê rồi, họ hiện tại cũng có thể được phước. Bởi vì họ có thể y giáo phụng hành, họ cũng có thể đoạn ác tu thiện, dù họ không hiểu rõ về đạo lý này, nhưng họ thật sự chịu làm. Chịu làm thì được phước. Chúng ta cần hiểu rõ những đạo lý này. Sau cùng chỗ này giải thích.

  “Thử giai thị nghiệp đạo luân đối, vị định khinh trọng, hoặc nan xả thọ, hoặc bất đắc dũ. Nam nữ tục nhãn, bất biện thị sự” (Đây đều là bị nơi nghiệp đạo luận đối chưa quyết định là khinh hay trọng, nên hoặc là khó chết, hoặc là khó lành. Mắt phàm tục của kẻ nam người nữ không thể biện rõ việc đó.)

  Phật ở chỗ này nói cho chúng ta biết, đây là nói rõ loại bệnh nghiệp chướng thứ nhất.

  “Cửu xử sàng chẩm, cầu sanh cầu tử, liễu bất khả đắc” (Đau nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống hay muốn chết cũng đều không được.)

  Đây là do nguyên nhân gì? Nguyên nhân có rất nhiều loại. Có một loại là do oan gia trái chủ của họ, lúc này họ đang tố cáo với vua Diêm La, họ đến nơi đó tranh luận. Sự việc này vẫn chưa kết án, cho nên bệnh này của họ chưa có khởi sắc, đây là một loại, thật sự có. Loại thứ hai “Hoặc là khó chết”. Là như tôi vừa mới nói, họ vẫn còn phước báo chưa có hưởng hết, họ không chịu xả phước báo. Nếu họ chịu xả thì vấn đề đó được giải quyết ngay, họ không chịu xả, vẫn tiếp tục muốn hưởng phước, vậy chỉ có nằm trên giường mà hưởng. Họ không chịu xả, không buông được, đây là một loại. “Hoặc bất đắc dũ” (Hoặc là khó lành) Đây là loại thứ ba. Loại thứ ba ở trong đây nhất định có một số nguyên nhân khác biệt, bệnh này của họ không thể lành, nhưng họ cũng không thể chết được. Người thế gian chúng ta nhìn thấy hiện tượng này, không hiểu được nguyên nhân đích thực của họ. Đây đều là do nghiệp báo với oan gia trái chủ đòi nợ, trả nợ, chiêu cảm nên những oan nghiệp này, mới xảy ra những sự việc như vậy. Người thế gian không có thiên nhãn, không có túc mạng thông, không hiểu được chân tướng sự thật. Nhưng có một nguyên tắc, chỉ cần tu phước là được. Tất cả các thứ nguyên nhân gây bệnh này, tuy khác nhau, nhưng bạn tu phước chắc chắn có lợi ích. Phía dưới đây là dạy cho chúng ta:

  “Đãn đương đối chư Phật Bồ-tát tượng tiền cao thanh chuyển độc thử kinh nhất biến.” (Chỉ phải nên đối trước tượng của chư Phật Bồ-tát, to tiếng mà đọc tụng kinh này một biến.)

  Đây là dạy cho chúng ta phương pháp. Trong khoa chú nói tu phước thoát tội. Đây là nói đọc kinh. Đọc kinh có thể có hiệu quả sao? Chúng tôi từng gặp việc này, người thân quyến thuộc của họ ở trước Phật Bồ-tát, to tiếng đọc tụng kinh này một biến, thử xem có hiệu quả hay không? Kết quả là không có hiệu quả. Đừng nói đọc một biến, mà đọc mười biến, đọc trăm biến, đọc nghìn biến cũng không có hiệu quả. Mấu chốt là ở chỗ nào vậy? Mấu chốt là cách đọc kinh như thế nào. Dùng tâm chân thành cung kính mà đọc. Trong khi đọc kinh khởi vọng tưởng thì không được, thế thì không có hiệu quả. Lần trước tôi kể cho các bạn nghe về chuyện Thích Kế Quang, chẳng phải là rất rõ ràng sao? Đọc “Kinh Kim Cang”, “Kinh Kim Cang” rất ngắn, chỉ có hơn năm nghìn chữ. Trong khi đọc kinh, hơi có một chút xen tạp là không có hiệu quả, kinh dài như vậy, đọc xong một bộ, trong đó khởi một vọng niệm thì không có hiệu quả. Cho nên mở quyển kinh ra từ “Như thị ngã văn” đến “Tín thọ phụng hành” đọc qua một biến, không có một vọng niệm thì có hiệu quả. Người thế gian vẽ bùa, ở Trung Quốc rất thịnh hành. Bùa vẽ ra rất linh. Niệm chú chú cũng rất linh. Linh ở chỗ nào vậy? Linh ở chỗ thành. Dùng tâm chân thành vẽ bùa, người vẽ bùa biết. Họ đặt bút xuống, nét bùa vẽ ra một niệm không sinh, tuyệt đối không có một niệm thì bùa này sẽ linh. Bình thường phải luyện tập, vẽ rất thuần thục, đến khi vẽ không được có một ý nghĩ. Khởi một ý nghĩ thì bùa này sẽ không linh. Niệm chú cũng như vậy. Khi niệm chú Đại Bi có thể trị hết thảy bệnh. Tại sao vậy? Khi niệm chú một niệm không sinh. Đọc kinh cũng như vậy, bộ kinh này khi đọc lên không có một vọng niệm thì niệm kinh này mới linh, mới có hiệu nghiệm. Vừa niệm kinh, vừa khởi vọng tưởng, như thế sao được? Thế thì không linh. Mấu chốt là ở chỗ này. Bạn muốn hỏi tại sao người khác đọc bộ kinh này cho họ, họ đạt được lợi ích? Bạn nghĩ về chuyện Bà La Môn nữ, Quang Mục Nữ ở phía trước bạn sẽ hiểu ngay. Lợi ích mà họ được là một phần bảy, còn người đọc kinh được sáu phần bảy. Nếu như không vì họ bị bệnh, thì bạn sẽ không đọc kinh, sẽ không chuyên tâm đọc như vậy, đạo lý là ở chỗ này. Vì nhờ nhân duyên bị bệnh của họ, mà thành tựu công đức đọc kinh của bạn, nên họ được hưởng một phần. Nếu bạn đọc hai biến, họ sẽ được hưởng hai phần. Cho nên gặp được con cái hiếu thuận, người thân quyến thuộc hiếu thuận, có thể dựa theo phương pháp này mà tu hành, thì sẽ được lợi ích công đức không thể nghĩ bàn, đây là lợi ích công đức thù thắng nhất. Dưới đây nói là lợi ích thứ yếu. Một người ở trong một đời, có thể được mấy lần đọc kinh chuyên tâm như vậy, là rất hiếm có, khó gặp. Đọc kinh như vậy là do tự tánh sáng suốt hiển lộ. Ví dụ chúng ta ở trong vô minh tăm tối, thời gian quá lâu quá lâu rồi, niệm một biến kinh này là giống như tia chớp sáng lên một lần vậy. Trong một trăm nghìn năm khó có ánh sáng chớp một lần. Lần này lại có thể lóe sáng một lần. Ánh sáng lần này là rất hiếm có, có được một lần này, thì họ sẽ có lần thứ hai, có lần thứ hai sẽ có lần thứ ba, giống như niệm Phật đường hiện nay của chúng ta vậy, mọi người đến nơi này để niệm Phật một ngày, hoặc giả là niệm một giờ, niệm hai giờ. Bạn cảm nhận bầu không khí của niệm Phật đường khác nhau, bạn ở trong đây dễ dàng nhiếp tâm. Trong đời bạn khó có thể gặp được một vài lần, đích thân bạn cảm nhận, đích thân thể nghiệm. Bình thường chúng tôi muốn nói với bạn, nhưng rất khó nói ra, bạn rất khó thể hội được. Chỉ đích thân bạn đến nơi đây niệm vài ngày, sẽ hiểu rõ, sẽ cảm nhận được ngay, đây là lợi ích chân thật. Bạn cảm nhận được nơi đây bạn sẽ thường xuyên nghĩ đến niệm Phật, sẽ đánh thức tâm niệm Phật của bạn, thúc đẩy bạn hứng thú niệm Phật. Cho nên công đức của niệm Phật đường này rất lớn, đạo lý là ở chỗ này, nói rõ ra cũng là cùng một đạo lý, niệm Phật nhất định phải dùng tâm chân thành mà niệm. Thường nói là không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn, nhất định niệm đến tâm thanh tịnh của bạn xuất hiện. Tâm thanh tịnh là chân tâm. Vọng niệm dừng hết rồi, thì chân tâm hiện tiền, công đức là ở chỗ này. Phật nói ở trong kinh: “Chú tâm một chỗ, việc gì cũng xong”. Đây là bạn niệm bộ kinh này, bộ kinh này niệm xong tóm lại phải từ một tiếng rưởi đến hai tiếng. Trong khoảng thời gian này bạn chú tâm vào một chỗ, cho nên có thể sinh ra hiệu quả lớn như vậy, đây là công đức đứng đầu, đây là chủ. Phía dưới là phụ trợ. Đây là trợ duyên.

  “Hoặc thủ bệnh nhân khả ái chi vật, hoặc y phục, bảo bối, trang viên xá trạch” (Hoặc lấy những món vật riêng của người bịnh thường ưa tiếc, như y phục, đồ quí báu, nhà cửa ruộng vườn v.v…)

  Đây chính là những tiền tài vật chất của bệnh nhân, bất kể nhiều hay ít nhất định phải dùng để tu phước.

  “Đối bệnh nhân tiền, cao thanh xướng ngôn” (Đối trước người bịnh cất tiếng lớn mà xướng lên rằng:)

  Tu phước cho họ phải nói cho họ biết. Đặc biệt là người lúc sắp mạng chung, đầu óc họ vẫn còn tỉnh táo, phải nhắc nhở họ, trong đời họ đã làm bao nhiêu việc tốt, nhắc nhở họ. Lúc này khiến cho bản thân họ sinh tâm hoan hỷ, nói cho họ biết mình đã từng tu bao nhiêu phước, sau khi họ chết họ sẽ đi về cõi lành. Lời nhắc nhở này, thông thường gọi là khai thị, vô cùng quan trọng. Đừng nhắc đến việc tội lỗi mà trong đời họ đã làm, vào lúc này nếu nhắc đến việc này thì họ sẽ đi về đường ác. Nên nhắc nhở những việc tốt nào, những việc công đức nào mà họ đã làm. Cho nên vào lúc này, nếu như họ không có tu phước, thì người thân quyến thuộc tu phước thay cho họ, phải nói cho họ biết.

  “Ngã mỗ giáp đẳng, vị thị bệnh nhân, đối kinh tượng tiền, xả chư đẳng vật, hoặc cúng dường kinh tượng, hoặc tạo Phật, Bồ-tát hình tượng, hoặc tạo tháp tự, hoặc nhiên du đăng, hoặc thí thường trụ.”

  (Chúng tôi tên đó họ đó, nay vì người bịnh này đối trước kinh tượng đem những của vật này hoặc cúng dường kinh tượng, hoặc tạo hình tượng của Phật Bồ-tát, hoặc xây chùa tháp, hoặc sắm đèn dầu thắp cúng, hoặc cúng vào của thường trụ.)

  Xem tiền của của họ được bao nhiêu, xem nhân duyên hiện tại, những thứ này thảy đều có thể làm, đều tu phước ở trong Tam Bảo, đây không phải là mê tín. Tu phước đức này, đây là việc người thế gian không biết. Người thế gian luôn cho rằng đem tiền này làm từ thiện cứu tế, giúp đỡ những người nghèo khổ, công đức này là lớn, họ không biết tu phước trong Tam Bảo rất thù thắng. Chúng ta ngày nay nói thực ra, hòa thượng người xuất gia các bạn chung qui lại là lừa gạt người ta, họ không tin, cho nên sự việc này rất khó, rất khó. Nói lời thật họ không tin, nói giả họ tin. Đây là thời khắc quan trọng, trong đời không có thời khắc nào quan trọng hơn lúc này. Trong thời khắc này nếu như đem tiền của của họ đi làm cứu tế, làm những sự nghiệp từ thiện, thì phước rất nhỏ, là thật chứ không giả chút nào cả, là phước báo nhỏ, không thể chuyển được nghiệp của họ. Tu phước trong Tam Bảo dâng một đóa hoa, thắp một ngọn đèn, thật sự là tiêu nghiệp chướng, thật sự là được vô lượng phước. Hiện nay tại sao tu phước trong Tam Bảo cảm ứng không rõ rệt? Không có cảm ứng rõ rệt giống như thông thường ghi chép trước đây? Điều này không phải không có đạo lý. Đạo tràng trước đây thật sự có người ở trong đó tu hành, cho nên họ cảm ứng vô cùng rõ rệt. Hiện nay có rất nhiều đạo tràng, nó không đúng như pháp. Trú chúng ở trong đó tu học không đúng như pháp, họ hằng ngày vẫn là làm chuyện thị phi nhân ngã, vẫn là tạo tham sân si mạn, cho nên tu phước ở trong đây không phải không có phước, mà phước không rõ ràng, không nổi bật. Hay nói cách khác, đời này không nhận được, đạo lý là ở chỗ này. Nếu như đạo tràng này thật sự là có người đang tu đạo. Trong tu đạo dễ thấy nhất là thật sự có người niệm Phật. Người niệm Phật này là người như thế nào? Đích thực thân tâm thế giới tất cả buông xả, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, có một người như vậy, thì bạn tu phước ở đạo tràng này công đức sẽ vô cùng thù thắng. Bởi vì người này tương lai họ nhất định vãng sanh, vãng sanh sẽ thành Phật. Khi bạn đốt một nén hương, thắp một ngọn đèn ở trong đây đều là công đức chân thật. Bạn thật sự dâng cúng đến Phật rồi. Cho nên tu phước ngay hiện tiền, chúng ta phải nhận rõ ruộng phước, ruộng phước chân chánh thì được phước sẽ vô cùng rõ rệt. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này là tốt. Trong đây nêu ra mấy sự việc điển hình, duyên tu phước trong Tam Bảo quá nhiều, quá rộng, chỉ nêu ra mấy ví dụ này là thường thấy nhất, mọi người đều có thể hiểu được

  “Cúng dường kinh tượng”. Kinh là kinh điển của Phật. Tượng là hình tượng Phật, Bồ-tát. Cúng dường kinh tượng, cúng dường như thế nào? Cúng dường tài với cúng dường pháp không thể tách rời. Cho nên cúng dường tài chính là cúng dường pháp. Giống như chúng ta hiện nay in kinh vậy, hiện nay ở thời đại này ngoài in kinh ra, ngoài dùng kinh điển để hoằng pháp ra, chúng ta hiện nay có băng ghi âm, băng ghi hình, có CD có nhiều cách thức hơn trước đây. Tiền của của chúng ta dùng vào những việc này, đều là cúng dường kinh tượng. Kinh điển, tượng Phật tùy theo khoa học kỹ thuật mà lưu thông. Giống như hiện nay VCD có hình ảnh, mạng internet tương lai cũng có hình ảnh. Hình ảnh người ta vừa mở ra là nhìn thấy hình Phật trước, sau đó lại nhìn thấy giảng kinh, nghe kinh, trên mạng internet có đầy đủ Tam Bảo. Bạn vừa mở ra là nhìn thấy tượng Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni trước. Chúng ta tu Tịnh Độ, tiếp theo đó là nhìn thấy Tây Phương Tam Thánh, Liên Trì hải hội, chúng ta có ba bức hình. Sau khi xem xong, sau đó lại bắt đầu giảng kinh, đây chính là cúng dường kinh tượng.

  “Hoặc tạo Phật, Bồ-tát hình tượng” (Hoặc tạo hình tượng của Phật, Bồ-tát.)

  Chúng ta xây dựng niệm Phật đường, trong niệm Phật đường phải cúng dường hình tượng Phật Bồ-tát, cúng dường Tây Phương Tam Thánh. Có khả năng thì tự mình tạo một bức. Phần trước đã nói tượng đắp nặn hay điêu khắc bằng gỗ, hoặc đúc bằng vàng bạc, đồng, sắt đều được, tự xem tiền tài sức lực của mình. Nếu như tài lực nhiều thì đúc tượng bằng vàng, bạc, đồng, sắt, tượng này có thể lưu truyền được dài lâu. Còn tượng đắp nặn bằng xi măng, hay điêu khắc bằng gỗ thì không lưu truyền lâu dài bằng tượng kim loại. Bạn lưu truyền càng lâu dài thì sức ảnh hưởng sẽ càng lớn, công đức cũng sẽ lớn. Được phước là nói từ chỗ này. Tượng Phật là tác phẩm nghệ thuật cao độ trong thế gian. Vàng, bạc, đồng, sắt hợp chung lại, đây là hợp kim. Thời xưa dùng cách thức này để đúc tượng rất nhiều, nó là dùng hợp kim để đúc, tạo tượng, thông thường dùng thành phần đồng là nhiều nhất, trong đó có bạc, có vàng. Tạo tượng phần trước nói qua rồi, bất kể hình tượng Bồ-tát lớn hay nhỏ, công đức đều giống nhau. Nếu như đạo tràng này, đạo tràng quan trọng là hằng ngày phải có giảng kinh thuyết pháp, để cho những tín đồ tham bái này đều có thể hiểu được ý nghĩa của pháp tượng trưng trên hình tượng Phật Bồ-tát, để họ được nhiều lợi ích. Giống như chúng ta cúng dường Bồ-tát Địa Tạng. Bồ-tát Địa Tạng là đại biểu cho hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng sư trưởng. Nhìn thấy bức tượng này, liền nghĩ đến ta phải hiếu thảo cha mẹ, nhắc nhở hiếu thảo cha mẹ, nhắc nhở tôn sư trọng đạo. Bạn nói công đức này lớn cỡ nào? Không có hình tượng này là quên hết. Bồ-tát Quan Thế Âm đại biểu cho đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn. Nhìn thấy chúng sanh có khổ, bạn liền dùng tâm từ bi để giúp đỡ họ. Hình tượng Phật Bồ-tát từng giây từng phút đang nhắc nhở bạn, công đức của họ là ở chỗ này. Nếu như không hiểu rõ về ý nghĩa của pháp tượng trưng, đó là thuộc về mê tín. Mê tín cũng được, vừa qua căn tai, vĩnh viễn thành hạt giống đạo, trong a-lại-da thức của họ có hình tượng Phật Bồ-tát. Nhưng lợi ích công đức chân thật của họ, việc đó thì không phải ở đời này. Đến khi nào hiểu rõ, thì lợi ích công đức đó sẽ khởi hiện hành. Họ không hiểu rõ, thì lợi ích công đức này vĩnh viễn hàm chứa trong a-lại-da thức, hạt giống đó rất đáng quý.

  Tháp Tự thì tài lực phải hùng hậu hơn nữa. Tháp là nơi lưu giữ Xá Lợi, lưu giữ xá lợi Phật. Tự là nơi hoằng dương Phật pháp. Ý nghĩa của Tự chúng ta cũng phải hiểu rõ, cũng phải sáng tỏ. Thời xưa đế vương, “Tự” là nơi làm việc của họ, dùng cái danh xưng này, cho nên “Tự” là nơi làm việc. Ý nghĩa này là gì? Ý nghĩa là tiếp nối không dứt, có thể truyền mãi đời đời, Tự là có ý nghĩa như vậy. Hay nói cách khác, cơ quan này là cơ quan vĩnh cửu, chứ không phải lâm thời, là muốn truyền từ đời này sang đời khác, đời đời tiếp nối mãi, là cơ quan vĩnh viễn, cái này gọi là Tự. Tự là cơ quan làm việc, là hoàn toàn khác với miếu. Miếu là nơi tế thần, tế quỉ thần, còn Tự là cơ quan làm việc. Hiện nay mọi người không hiểu ý nghĩa này, đều xem tự là miếu. Hiện nay khi đọc thấy, nhìn thấy chữ này họ đều hiểu sai ý nghĩa, vậy thì vô phương. Chúng ta không thể không thay đổi, hiện nay đạo tràng chúng ta dùng “Học Hội”, dùng danh từ hiện đại, để mọi người nhìn thấy không đến nỗi mê hoặc. Chúng ta ngày nay cũng dùng chữ “Tự”, khi người ta nhìn thấy nói đây là tôn giáo, đây là mê tín, trong đây làm chuyện mê tín, không hiểu được ý nghĩa chính, cho nên nhất định phải giảng kinh thuyết pháp. Giảng kinh thuyết pháp nhất định phải lên lớp.

  “Hoặc nhiên du đăng” (Hoặc sắm đèn dầu thắp cúng)

  Đèn dầu là đại biểu cho sáng suốt, nhất định phải hiểu ý nghĩa. Nhìn thấy đèn liền nghĩ đến, tâm địa của ta phải sáng suốt. Không những tâm địa phải sáng suốt, hơn nữa phải xả mình vì người. Đèn dầu, nghĩa là đốt cháy mình, để soi sáng cho người khác. Đèn dầu là biểu thị cho ý nghĩa này. Cúng Phật cúng đèn dầu, không phải Phật cần đèn. Đèn là pháp tượng trưng, đèn dầu, đèn cầy, tượng trưng vô cùng nổi bật, là đốt cháy mình để soi sáng cho người khác, vì xã hội, vì chúng sanh, xả mình vì người, chúng ta muốn phục vụ, tận tâm tận lực đi làm, tuyệt đối không mong cầu thù lao. Nếu như nói đến thù lao, thế là bạn không phải học Phật rồi, là bạn không phải phục vụ chúng sanh, bạn là giao dịch mua bán rồi. Đây là Phật dạy cho chúng ta, nếu mỗi người đều có được tâm nguyện này, đều có nhận thức chung này, thì thế giới này đương nhiên là ổn định và hòa bình dài lâu, tự nhiên sẽ hưng thịnh phồn vinh, người nào cũng sống cuộc sống hạnh phúc. Mỗi người đều không vì mình, đều có thể vì đại chúng, vì xã hội thì thế giới mới an lành. Ai đi làm vậy? Phật Bồ-tát dẫn đầu làm. Chúng ta làm người đệ tử của Phật làm theo. Cho nên trong Phật pháp, không cho phép có ý riêng của mình. Là đạo lý gì? Ý của mình chính là ý của lục đạo luân hồi. Có ý của mình liền có chấp ngã. Cảnh giới do chấp ngã biến hiện ra chính là lục đạo luân hồi. Vô ngã thì không có lục đạo luân hồi. Có ngã liền có lục đạo luân hồi, vô ngã thì không có lục đạo luân hồi. Phật dạy chúng ta là pháp chân thật, chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay mê luyến ở trong sanh tử lục đạo. Phật đánh thức chúng ta dậy, bảo chúng ta phải giác ngộ. Thật sự giác ngộ rồi thì không còn ngã nữa, bạn mới có thể thoát khỏi Tam Giới, Lục Đạo, không còn ngã. Cho nên tôi khuyên mọi người, không còn ngã, chúng ta sống ở trên thế giới này để làm gì? Diễn kịch. Cách diễn như thế nào? Kinh điển chính là kịch bản, diễn theo kịch bản, là không có ý của ta, dựa theo kịch bản. Trong kịch bản dạy chúng ta làm như thế nào thì chúng ta làm như thế ấy, dạy chúng ta cái nào không được phép làm thì chúng ta không làm, hoàn toàn diễn kịch dựa theo kịch bản. Tất cả kinh mà Phật nói chính là kịch bản. Phật diễn theo kịch bản này, Bồ-tát cũng diễn theo kịch bản này, cho nên các Ngài ở trong thế gian này gọi là du hý thần thông. Bạn hỏi các Ngài có ý riêng của mình hay không? Không có. Kinh là do Phật nói ra. Đây có phải là ý của Phật hay không? Không phải. Phật ở trong “Kinh Bát Nhã” đã phủ định, Phật chưa từng giảng kinh, là không có ý của mình. Kinh điển đó rốt cuộc là gì vậy? Kinh điển là vốn dĩ như vậy ở trong tự tánh. Cho nên chúng ta sống đời sống như vậy, là sống đời sống vốn có của tự tánh. Đời sống vốn có của tự tánh, chính là đời sống của chư Phật Bồ-tát. Đâu có một chút ý nào của mình! Vĩnh Gia đáp với Lục Tổ rất hay: “Phân biệt cũng chẳng phải ý”, chấp trước cũng chẳng phải ý. Phân biệt, chấp trước không phải ý của mình. Nghĩa là gì? Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Chúng sanh phân biệt như vậy, nên tôi nương theo phân biệt của anh, chúng sanh chấp trước như vậy, nên tôi nương theo chấp trước của anh, chứ bản thân tôi không có phân biệt, cũng không có chấp trước. Cho nên phân biệt, chấp trước đều chẳng phải ý. Như thế tự tại biết bao! Vô ngã. Vô ngã thì không có sinh tử, thảy đều là biểu diễn, là diễn kịch, phải hiểu rõ đạo lý này, đây mới là chân tướng sự thật của nhà Phật, cũng gọi là chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Nếu bạn không chịu diễn kịch thì bạn tạo lục đạo luân hồi. Phật Bồ-tát du hý thần thông, chúng ta học Phật cũng phải học du hý thần thông, cho nên phải hiểu được nghĩa thú tượng trưng của từng câu từng chữ. Trong một đoạn kinh văn, một câu kinh văn chúng ta cần phải học tập như thế nào, làm sao thực tiễn vào trong đời sống để đạt được thọ dụng chân thật.

  “Hoặc thí thường trụ” (Hoặc cúng vào của thường trụ)

  “Thường trụ” dùng cách nói hiện nay để nói chính là ngân quỹ ở trong đạo tràng. Là những chi phí thường ngày ở trong đạo tràng, là nhu cầu thiết yếu trong đời sống của tứ chúng đồng tu và người tu đạo, đây là thuộc về thường trụ, đây là công đức chân thật. Đại chúng xã hội hiện nay vẫn còn hiểu không rõ ràng, điều này có thể chậm một bước. Đồng tu đã học Phật chúng ta, trong tứ chúng đệ tử không thể không biết, không thể không giảng rõ ràng. Chỉ có khi bạn hiểu rõ ràng, minh bạch rồi, thì bạn mới có thể dẫn đầu đi làm, mới chịu đi làm, có niềm tin nghị lực kiên định, nhất định không bị dao động. Trong chú giải này của Ngài rất hay, tạo tượng thì trích dẫn trong “Kinh Phước Báo Tạo Tượng”. Trong “Tạp Bảo Tạng Kinh” nói đến công đức của xây Tự. Đốt đèn thì trong “Thí Đăng Kinh”, quý vị đều có thể tự mình xem lấy. Mời xem kinh văn dưới đây:

 “Như thị tam bạch bệnh nhân, khiển lệnh văn tri” (Xướng lên như vậy ba lần để cho người bịnh được nghe biết.)

  Đây là lúc người bệnh vẫn còn tỉnh táo, vẫn còn sáng suốt, phải nói ba lần cho họ biết, đây là làm họ nhớ thêm sâu đậm hơn. Thực ra nếu như khi người bệnh bị bệnh nặng, cần phải làm thế nào? Mỗi ngày nói với họ vài lần, để họ có ấn tượng thật sâu, việc này quan trọng. Để họ biết bản thân họ đã làm những việc tốt lợi ích công đức, việc này giúp ích rất lớn đối với cõi họ sanh đến sau khi chết. Đây là nói lúc người bệnh còn tỉnh táo. Dưới đây nói:

  “Giả lệnh chư thức phân tán chí khí tận giả.” (Giả sử như thần thức của người bịnh đã phân tán đến hơi thở đã dứt)

  Chư thức phân tán chính là bất tỉnh nhân sự. Lúc này bạn nói với họ, họ không có phản ứng. Phần trước nói, khi ý chí của họ vẫn chưa phân tán, bạn nói với họ, họ gật đầu, họ biết. Nếu như lúc tinh thần còn tốt hơn nữa, họ hiểu được, họ cũng sẽ nói họ hoan hỷ. Đến khi thể lực vô cùng suy yếu, khi không thể nói chuyện được, họ hiểu họ cũng sẽ đồng ý, họ sẽ ám thị với bạn. Đến khi các thức phân tán, họ không còn tri giác, không còn tri giác vẫn phải nói.

  “Chí khí tận giả, nãi chí nhất nhật, nhị nhật, tam nhật, tứ nhật chí thất nhật dĩ lai” (Đến hơi thở đã dứt, thời hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, cho đến bảy ngày.)

  Tức là bảy ngày sau khi họ đã dứt hơi thở, vẫn là phải thường xuyên nói với họ. Tại sao vậy? Sợ a-lại-da thức của họ chưa có lìa khỏi. Làm vậy chỉ có lợi ích, chứ không có hại.

  “Đãn cao thanh bạch, cao thanh độc kinh” (Cứ lớn tiếng xướng bạch như trên và lớn tiếng tụng kinh này.)

  Mỗi ngày đọc kinh, đọc cho họ một biến hoặc hai biến. Khi đọc kinh nhất định phải nhớ kỹ, tâm chân thành, tâm cung kính, nhất định phải làm đến mức không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Không gián đoạn, tức là đọc một lần là phải hết trọn bộ kinh này, không được chia thành mấy đoạn, nếu chia thành mấy đoạn thì trong đó sẽ có xen tạp, hiệu quả sẽ thấp, sẽ kém đi rất nhiều. Nên khi đọc kinh, tuyệt đối không được có bất kỳ việc gì đến quấy nhiễu, điểm này rất quan trọng. Nếu như đọc kinh ở nhà, việc quấy nhiễu nhất là điện thoại. Nên khi đọc kinh tốt nhất là tắt điện thoại đi, đừng để bất kỳ người nào quấy nhiễu bạn. Bạn dùng tâm thanh tịnh để đọc, bạn mới có thể thu được hiệu quả. Bình thường nếu như thường hay bị quấy nhiễu, lúc đọc thường hay gián đoạn, thì kiểu đọc kinh này là giúp bạn làm quen, khiến bạn dần dần đọc kinh tương đối thuộc, là giúp bạn quen thuộc, là ở giai đoạn luyện tập, làm vậy không có tác dụng gì lớn lắm. Lúc này đọc kinh yêu cầu không xen tạp, không gián đoạn, cũng giống như là đi đánh giặc vậy, lúc này không phải luyện tập, là nhất định yêu cầu được hiệu quả công đức chân thật. Cho nên nhất định phải biết, bình thường luyện tập đó lại là một chuyện, là làm quen, bình thường đọc là cho quen, lúc đó gián đoạn không có sao cả, là cho có việc để làm, khi không có việc niệm một đoạn, thường xuyên đọc để cho quen nó. Sau khi thuộc rồi, thật sự nói đến tu hành, mỗi ngày đến khi đọc kinh, tuyệt đối không được có quấy nhiễu. Đọc kinh, phía trước tôi đã từng nói qua nhiều lần với quý vị rồi, Giới Định Tuệ tam học hoàn thành cùng lúc. Cách đọc kinh này cũng là hoàn thành giới định tuệ tam học cùng lúc, cho nên nó là thuộc về công phu tu hành, công đức tu học. Cách đọc này khác với cách đọc kinh bình thường. Từ đó cho thấy, lợi ích của cách đọc kinh này có công đức lớn hơn giảng kinh. Giảng kinh nói thực ra là tu phước, không phải công đức. Đọc kinh là công đức, giảng kinh là phước đức. Trong công đức có phước đức, trong phước đức không có công đức, đây cũng là đạo lý nhất định. Trong giảng kinh nếu như muốn có công đức, đó là một cảnh giới khác. Cổ nhân thường nói tùy văn nhập quán, đó là công đức. Bạn giảng đoạn kinh văn này, mình thật sự nhập vào cảnh giới này, đây là công đức. Nếu như không vào được cảnh giới này thì đó là phước đức, vào cảnh giới này là công đức. Từ đó cho thấy, đều ở cá nhân mỗi người.

  “Thị nhân mạng chung chi hậu, túc ương trọng tội, chí ư ngũ Vô Gián tội, vĩnh đắc giải thoát, sở thọ sanh xứ, thường tri túc mạng.” (Sau khi người bịnh đó mạng chung thời dầu cho từ trước có tội vạ nặng nhẫn đến năm tội Vô Gián, cũng được thoát khỏi hẳn, thọ sanh vào đâu cũng thường nhớ biết việc đời trước.)

  Lợi ích này là quá lớn rồi, thật sự không thể nghĩ bàn. Rất nhiều người đọc đến “Kinh Địa Tạng”, nói “Kinh Địa Tạng” có lợi ích lớn như vậy, tạo tác tội nghiệp cực nặng, hình như niệm bộ kinh này quá dễ dàng, liền có thể khiến cho họ thoát khỏi năm tội nghiệp Vô Gián, nên chẳng có ai tin. Bạn không tin, nên khi bạn đọc kinh này bạn có hoài nghi, khi bạn đọc vẫn có vọng tưởng ở trong đó, bạn lại có xen tạp, cho nên không thu được hiệu quả, nên càng tin kiến giải này của mình là không sai, đều cho rằng lợi ích công đức mà trong kinh Phật nói hình như quá khoa trương, hình như là để khuyên người ta đọc, chứ trên thực tế không thể có được lợi ích như vậy, đây là tâm phàm phu, dùng vọng tưởng phàm phu để đo lường tri kiến của Phật Bồ-tát, vậy là sinh ra sai lầm rất lớn. Chúng ta nên biết, tội hay phước là ở trong khoảng một niệm, một niệm bạn chuyển đổi trở lại, liền từ trong địa ngục chuyển đến cảnh giới Phật. Pháp môn Tịnh Độ, bình đẳng thành Phật chính là đạo lý này. Chúng sanh trong địa ngục A Tỳ, vừa xưng nam mô A-Di-Đà Phật đều có thể thành Phật. Mấu chốt là cái tâm đó thật sự chuyển trở lại, tâm cực ác chuyển đổi thành tâm thanh tịnh tột cùng. Bạn muốn hỏi có thể chuyển trở lại được không? Được. Trên lý luận chắc chắn là được. Tại sao vậy? Vọng niệm là giả, vọng tưởng là giả. Bồ-tát Mã Minh nói rất hay: “Bất giác vốn không, bổn giác vốn có.” Thế sao không thể chuyển trở lại được? Bất giác chính là vọng niệm, địa ngục A Tỳ là bất giác, bất giác vốn không có. Chỉ cần bạn thật sự giác ngộ triệt để, vốn dĩ không có, bỗng chốc liền xả sạch sẽ. Vốn dĩ có thì lập tức hồi phục ngay. Cho nên từ địa ngục A Tỳ siêu sanh đến Phật đạo viên mãn đều ở trong khoảng một niệm, vấn đề là một niệm của bạn có thể chuyển trở lại được hay không? Điều này có căn cứ lý luận, chứ không phải nói tùy tiện. Đọc bộ kinh này thật sự có thể làm được không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn, niệm một mạch là xong, thì trong khoảng một niệm này liền chuyển thành Phật đạo. Cho nên trong khoảng một niệm này là giới định tuệ tam học viên mãn. Dùng công đức như vậy siêu độ người nghiệp chướng sâu nặng, họ thật sự nhận được lợi ích. Chỗ này nói: “Sở thọ sanh xứ, thường tri túc mạng” (Thọ sanh vào đâu cũng thường nhớ biết việc đời trước.)

  Công đức của người đọc kinh là quá lớn rồi. Còn hơn thế nữa, ở đây “thọ sanh vào đâu” hoặc là sanh đến nhân gian, hoặc là sanh về cõi trời, loại siêu độ này, cao nhất chỉ có thể đến trời Đao Lợi. Tại sao vậy? Dựa vào phước của người khác, hưởng phước của người khác, chỉ có thể đến trời Đao Lợi. Tự mình tu hành thì còn hơn thế nữa. Cho nên chúng ta từ xưa đến nay, chúng ta nhìn thấy Bảo Chí Công siêu độ cho phi tử của vua Lương Vũ Đế đến trời Đao Lợi. Bảo Chí Công là Bồ-tát Quan Thế Âm tái lai. Mọi người hiện nay tụng Lương Hoàng Sám, sám nghĩa của Lương Hoàng Sám chính là Bảo Chí Công siêu độ phi tử của vua Lương Võ Đế, sinh về trời Đao Lợi. Chúng ta ở trong kinh này nhìn thấy Quang Mục Nữ, Bà La Môn nữ siêu độ cho người thân của họ, cũng là sanh về trời Đao Lợi, phước báo lớn nhất chỉ có thể về trời Đao Lợi. Muốn lên trên cõi trời Đao Lợi thì phải dựa vào công phu tu hành của mình, không có công phu tu hành của mình, chỉ dựa và phước báo của người khác thì không được. Phước chỉ có thể sanh đến trời Đao Lợi, Tứ Vương Thiên, Đao Lợi Thiên. “Thọ sanh vào đâu cũng thường nhớ biết việc đời trước.” Biết việc đời trước là rất có lợi, hơn nữa lợi ích rất lớn, biết được chân tướng sự thật của nhân duyên quả báo. Người biết việc đời trước chắc chắn không dám tạo nghiệp ác. Bởi vì họ biết làm ác có ác báo, làm thiện được quả thiện, họ biết đoạn ác tu thiện, họ biết chăm chỉ đi làm những việc tích lũy công đức này, cho nên biết được việc đời trước là có lợi như vậy. Từ đó cho thấy, tu hành phải dựa vào lúc mình còn khỏe mạnh, lúc còn thể lực, chăm chỉ làm, thật sự là tu công đức viên mãn của mình, chứ không phải được một phần bảy, đây là do người khác tu họ được một phần bảy.

Tốt rồi, hôm nay thời gian đã hết. Chúng ta chỉ giảng đến chỗ này.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *