Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 36

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 36

  Mời xem đoạn kinh văn dưới đây:

  “Ngô diệt độ hậu, nhữ đẳng chư Bồ-tát đại sĩ, cập thiên long quỉ thần đẳng, quảng tác phương tiện, vệ hộ thị kinh, lệnh nhất thiết chúng sanh chứng Niết bàn lạc.” (Sau khi ta diệt độ, thời hàng Bồ-tát Đại Sĩ các ông cùng với Trời, Rồng, Quỉ, Thần v.v… nên dùng nhiều phương chước để giữ gìn kinh này, làm cho tất cả mọi loài chúng sanh đều khỏi tất cả sự khổ, mà chứng cảnh vui Niết Bàn.)

  Đoạn này Thế Tôn nói ra nguyện vọng của Ngài đối với Bồ-tát Ma Ha Tát, đặc biệt là sau khi Phật thị hiện diệt độ, thế gian này không còn Phật trụ thế nữa. Không còn Phật trụ thế nữa thì chúng sanh sẽ khổ ngay. Mê hoặc điên đảo, tạo tác tất cả tội nghiệp vì không có người dạy họ. Cho nên Phật phải dặn dò các vị Bồ-tát này. “Nhữ đẳng chư Bồ-tát đại sĩ” (Thời hàng Bồ-tát đại sĩ các ông) Thông thường xưng hô ‘Đại sĩ’ là đối với Bồ-tát địa thượng, xưng hô đối với Bồ-tát Đẳng Giác là nhiều nhất. “Thiên long quỉ thần” (Trời, Rồng, Quỉ, Thần) trên thực tế đều là do Bồ-tát ứng hóa. Nếu như không phải Bồ-tát ứng hóa, thật sự là Trời, Rồng, Quỉ, Thần thì đó là phàm phu, rất khó hiểu được lời giáo huấn của Phật Đà. Phật dạy họ phải “Quảng tác phương tiện, vệ hộ thị kinh” (Nên dùng nhiều phương chước để giữ gìn kinh này). Trong “Kinh Duy Ma” nói rất hay, nếu như không có phương tiện. Phương là phương pháp. Tiện là tiện lợi. Bạn không có phương tiện, cho dù có trí tuệ, cũng không thể phát huy được. Là giống như người thật sự có học vấn, có trí tuệ, họ không có tài ăn nói, họ lên bục giảng họ không thể nói ra được, nhưng họ viết văn thì viết rất hay. Chúng tôi đã từng gặp những người như vậy. Họ viết văn rất hay, nhưng lên bục giảng thì không được, khi dạy trước lớp thì không được, họ không thể biểu đạt ý thành lời được. Thuyết pháp cần có biện tài vô ngại, biện tài cũng phải cầu Phật, Bồ-tát gia trì. Làm thế nào mới có thể được Phật, Bồ-tát gia trì vậy? Vẫn là sự cảm ứng chân thành. Ta vì chúng sanh, không vì mình thì mới được Phật, Bồ-tát gia trì. Hầu hết mọi người cầu Phật, tại sao cầu mà không có cảm ứng? Do cầu Phật Bồ-tát mà ở trong vì chúng sanh vẫn còn có mình. 99% vì chúng sanh, vẫn còn một chút vì mình, thì sức mạnh cảm ứng cũng không thể đạt được. Huống chi hiện nay hầu hết mọi người hoằng pháp lợi sinh, nói đại khái là tôi 90% vì mình còn 10% là vì chúng sanh, đại khái là ở tỉ lệ này. Năm mươi năm mươi cũng hiếm có rồi, thì họ làm sao có thể có cảm ứng được? Những sự thật này hy vọng đông tu chúng ta cần quan sát cho thật kỹ, thể hội cho thật tỉ mỉ. Vào thời kỳ mạt pháp nghiệp chướng của chúng ta đều rất nặng, nếu như không được Tam Bảo gia trì, thì chắc chắn không có năng lực giảng kinh, đây là điều rất thực. Trong kinh này nói, ngay cả Bồ-tát Địa Tạng thuyết pháp cho chúng ta cũng phải nương nhờ oai thần của đức Phật gia trì. Huống chi phàm phu chúng ta? Đạo lý này nhất định phải hiểu, cho nên không có phương tiện thiện xảo thì chúng ta sẽ không có năng lực biểu đạt, không có năng lực hiển thị nghĩa kinh thâm sâu để cho người mới học rất dễ dàng hiểu được. Phật ở trong kinh nói với chúng ta tuyệt đối không được phép có tâm ái kiến. Ái là gì? Tôi ưa thích. Kiến là gì? Ý tưởng của tôi, kiến giải của tôi, cách nghĩ của tôi, cách làm của tôi. Nếu như dùng loại tâm thái này trang nghiêm Tịnh Độ, thành tựu chúng sanh thì bạn liền có ngăn ngại, liền có chướng ngại. Chướng ngại cái gì vậy? Chướng ngại trí tuệ chân thật của chính bạn, chướng ngại công đức của chính bạn. Bạn muốn hỏi tại sao? Phật nói cho chúng ta biết chân tướng của vũ trụ nhân sinh là một không phải hai. Bản thân chúng ta có tâm ái kiến chính là phân biệt, chấp trước. Phân biệt, chấp trước là mê hoặc, phân biệt, chấp trước là phiền não, phân biệt, chấp trước là chướng ngại, chướng ngại tâm tánh. Ở trong tâm tánh có vô lượng trí tuệ, vô lượng đức tướng, vô lượng công đức thảy đều bị chướng ngại cả. Đây là việc khó nhất, nó là chân tướng sự thật. Nếu như chúng ta lìa khỏi ái kiến, hoặc giả nói lài phân biệt, chấp trước. Ái kiến chính là phân biệt, chấp trước, thì tâm của bạn mới thật sự là thanh tịnh. Trong đề kinh của “Kinh Vô Lượng Thọ” nói: Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Giác. Chúng ta từ năm chữ này giải rộng nó ra thành mười chữ để cho mọi người dễ hiểu: Chân Thành, Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Chánh Giác, Từ Bi. Mười chữ này là giải rộng ra từ năm chữ này, thường giữ tâm này. Tâm này chính là trang nghiêm cõi Phật, chính là thành tựu chúng sanh. Áp dụng vào trong sự tướng, áp dụng vào trong đời sống chính là: Thấy Ra, Buông Xả, Tự Tại, Tùy Duyên, Niệm Phật. Cuối cùng niệm Phật thành tựu công đức cứu cánh viên mãn. Nếu như không niệm Phật, chúng ta cao nhất chỉ có thể đến cảnh giới của Bồ-tát. Còn niệm Phật sẽ đến cảnh giới của Phật, đại viên mãn, thật sự rốt ráo rồi. Quả thật dùng cái tâm này, thì chúng ta tu học, chúng ta làm việc chắc chắn sẽ không có mệt chán. Mệt là mệt mỏi. Chán là chán ngán, bực mình.

  Hôm qua ở Cư Sĩ Lâm, pháp sư Ngộ Toàn đến nói với tôi, thầy sinh tâm hổ thẹn. Thầy nói chúng ta niệm Phật 24 giờ, người tuổi trẻ không bằng rất nhiều cụ bà ở Cư Sĩ Lâm. Người tuổi trẻ niệm đến nửa đêm là đã mệt mỏi rồi, toàn thân đều uể oải, không thể tiếp tục nổi. Nhưng các cụ bà vẫn tiếp tục đang ở đó nhiễu Phật, vẫn ở đó niệm, niệm đến trời sáng các cụ cũng không thấy mệt mỏi. Sau khi trời sáng các cụ còn đi lau chùi, quét dọn môi trường xung quanh. Sau khi nhìn thấy rồi, tâm thầy cảm thấy rất buồn, chúng ta không bằng các cụ. Tại sao bạn thua các cụ? Bạn có vọng tưởng, các cụ không có vọng tưởng, tâm bạn không thanh tịnh, tâm họ thanh tịnh. Bạn niệm Phật lâu rồi mà trong tâm sinh phiền não, cho nên toàn thân đều uể oải. Các cụ sinh pháp hỷ, vui vẻ vô cùng, càng niệm càng hoan hỷ, càng niệm càng hăng say, càng niệm càng có sức sống, đây là sự thật. Cho nên người thật sự đắc thiền định, thì họ sẽ vĩnh viễn sẽ không thấy mệt mỏi. Người đắc thiền định có thể không cần ngủ. Tài, sắc, danh, thực, thùy đây gọi là năm thứ che đậy. Năm thứ này che đậy kín chân tâm bản tánh của bạn. Che đậy chính là chướng ngại. Chướng ngại kín rồi nó không khởi tác dụng được. Cho nên tôi hôm qua có nói với thầy, nhất định phải tu tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh có thể đạt được mục đích này. Phật ở trong kinh nói cho chúng ta biết: “Chú tâm vào một chỗ, thì không có việc gì không làm được”. Nếu như tâm của bạn, đây là nói phàm phu, không phải nói thánh nhân, không phải nói học Phật, sự hứng thú của bạn có thể tập trung vào một điểm, thì người đó cũng không mệt mỏi chán ngán, các ngành các nghề đều có. Người đọc sách thì thích sách vở, họ đọc sách không cảm thấy mệt mỏi, không cảm thấy chán ngán. Nhà khoa học họ ở trong phòng nghiên cứu, thường thường là quên ăn quên ngủ. Quên mất chuyện ăn cơm, quên mất việc ngủ nghỉ. Đó là gì? Chỗ hứng thú của họ là đó, vậy là đều có thể đạt được cả. Chúng ta cũng đã từng nghe nói, Napoléon trước đây của nước Pháp, một ngày ngủ hai giờ đồng hồ, có thể lực hơn hẳn người bình thường. Thể lực đó từ đâu có vậy? Chuyên chú. Ông rất có hứng thú với sự nghiệp, một lòng một dạ vì sự nghiệp, quên hết những thứ khác. Người thế gian còn có thể làm được, huống chi người tu đạo? Cho nên người tu đạo trong lúc nhập định, nhập định không phải ngủ. Nếu như nói ngồi xếp bằng họ nhập định ngủ, thì hình ảnh ngủ đó rất khó coi. Tại sao vậy? Nhất định là đầu khom xuống chạm vào chân, đó là đang ngủ. Nếu như họ lúc nhập định thân thể ngay thẳng thì họ không phải là đang ngủ. Họ trong định có cảnh giới trong định của họ, không phải ngủ, họ tỉnh táo. Nếu bạn muốn kêu họ xuất định, thì dùng khánh để ngay trước lỗ tai họ gõ thật nhẹ ba cái, họ liền xuất định ngay, đây là có người kêu họ rồi. Cho nên phải biết họ không phải ngủ. Tĩnh tọa mà ngủ có thể nhìn biết ngay, họ ngáy khò khò, đầu khom xuống đụng với chân. Những chướng ngại này chúng ta cần phải khắc phục, phải khôi phục tinh thần, thể lực của chúng ta mới có thể hoằng pháp lợi sinh, mới có thể tiếp nhận lời dặn dò của Thế Tôn. “Quảng tác phương tiện vệ hộ thị kinh”. Ý nghĩa của chữ vệ này là bảo vệ. Ý nghĩa của vệ hộ chính là gìn giữ bảo vệ. Phật ở chỗ này khuyên Bồ-tát, nói thực ra cũng là khuyên chúng ta. Kinh này vô cùng quan trọng đối với xã hội hiện nay, đối với chúng sanh thời mạt pháp. Tôi đã giảng mấy mươi năm trên bục giảng rồi, tôi thường hay khuyến khích đại chúng tu học Phật pháp đại thừa, lấy “Địa Tạng” làm cơ sở. Địa là tâm địa, người hiện nay chúng ta gọi là xây dựng tâm lý. Cho nên trong bộ kinh này nói là gì? Xây dựng tâm lý, đây là căn bản. Từ trong bộ kinh này, mới có thể sinh ra tình yêu thương rộng lớn. Người hiện nay gọi là bác ái. Hai chữ “bác ái” này xuất hiện ở trong “Kinh Vô Lượng Thọ”. Trông Phật pháp gọi là đại từ đại bi. Tâm đại từ bi sinh ra từ đâu vậy? Là sinh ra từ trong kinh này. Cho nên kinh này là căn bản. Nội dung của kinh này chính là nói về hiếu thân tôn sư. Đây là lấy đạo hiếu làm cơ sở. Toàn bộ hết thảy pháp đều sinh ra từ trong đạo hiếu. Nội dung của kinh này là đại hiếu, từ trong hiếu sinh từ bi, từ trong từ bi sinh trí tuệ. Từ bi là phước, phước chỉ tâm linh. Từ trong trí tuệ, mới thật sự phát khởi tâm rộng lớn, phổ độ tất cả chúng sanh. “Lệnh nhất thiết chúng sanh chứng Niết bàn lạc” (Làm cho tất cả chúng sanh chứng cảnh vui Niết bàn) Niết bàn là thật, không phải giả. Niết bàn là bất sanh bất diệt. Ý nghĩa của Niết bàn là cứu cánh viên mãn không có một mảy may khiếm khuyết. Cho nên Phật ở chỗ này khuyên bảo mọi người cần phải dùng nhiều phương chước để gìn giữ bảo vệ lưu thông, vả lại cần chú trọng hiệu quả. Nhất định phải giúp đỡ đại chúng hiểu rõ về chân tướng của vũ trụ nhân sinh, sau đó đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, vĩnh viễn không đọa Tam Đồ, thoát khỏi biển khổ. Ở thời đại này nếu thật sự muốn lìa khổ được vui, vĩnh viễn không bị thối chuyển nữa, thế thì không cầu sanh Tịnh Độ là không được. Nếu như không cầu sanh Tịnh Độ, dù ở địa vị Bồ-tát vẫn còn thối chuyển. Thối chuyển là việc phiền phức vô cùng lớn. Đây là khuyên chúng ta niệm Phật đạo lý là ở chỗ này. Mời xem kinh văn:

  “Thuyết thị ngữ dĩ, hội trung hữu nhất Bồ-tát danh viết Phổ Quảng hiệp chưởng cung kính nhi bạch Phật ngôn: ‘Kim kiến Thế Tôn tán thán Địa Tạng Bồ-tát hữu như thị bất khả tư nghị đại uy thần đức. Duy nguyện Thế Tôn vị vị lai thế mạt pháp chúng sanh tuyên thuyết Địa Tạng Bồ-tát lợi ích nhân thiên nhân quả đẳng sự, sử chư Thiên Long Bát Bộ, cập vị lai thế chúng sanh đỉnh thọ Phật ngữ.” (Nói lời ấy xong, trong pháp hội có một vị Bồ-tát tên là Phổ Quảng cung kính chắp tay mà bạch cùng Đức Phật rằng: ‘Nay con nghe đức Thế Tôn ngợi khen Ngài Địa Tạng Bồ-tát có đức oai thần rộng lớn không thể nghĩ bàn như thế. Trông mong đức Như-lai lại vì những chúng sanh thời mạt pháp sau này, mà tuyên nói các sự nhơn quả của Ngài Địa Tạng Bồ-tát làm lợi ích cho hàng Trời, Người. Làm cho hàng Trời, Rồng, bát bộ và chúng sanh trong đời sau kính vâng lời của đức Phật.’)

  Đoạn này là nói về người đương cơ khải thỉnh. Người đương cơ là một vị Bồ-tát, Bồ-tát Phổ Quảng. Bồ-tát Phổ Quảng đại biểu cho những vị Bồ-tát tại pháp hội, tiếp nhận lời dặn dò của Thế Tôn, phát nguyện lưu thông bộ kinh điển này, hoằng dương pháp môn này, Ngài đến làm đại biểu. Hàm nghĩa ở trong danh hiệu Bồ-tát cũng có ý nghĩa tương ưng với đức Phật phóng ra ánh sáng, dùng âm thanh lớn tuyên bố. Ý nghĩa của chữ “Phổ”. Phổ là phổ biến, khắp nơi mới gọi là phổ. “Quảng” là rộng lớn không có bờ mé. Cảm đều tương ưng với ứng. Ở chỗ này Phật Thích Ca Mâu Ni khuyên bảo các Bồ-tát tham dự pháp hội, Phật là cảm, các vị Bồ-tát sau khi nghe xong chịu tiếp nhận, đây là ứng. Từ đó cho thấy cảm và ứng là hai phương diện cảm ứng lẫn nhau. Pháp sư Thanh Lương ở chỗ này giải thích cho chúng ta biết ý nghĩa của danh hiệu Bồ-tát: “Từ tâm phát khởi trí tuệ, trí tuệ trùm khắp pháp giới gọi là phổ” Đây gọi là phổ, giải thích rất hay. Không có trí tuệ không chịu tiếp nhận. Hiện nay đem sự việc này căn dặn với bạn, bạn cứ từ chối, cứ khách sáo không dám nhận lời. Các vị Bồ-tát tham dự pháp hội thì không như vậy, các Ngài khởi trí tuệ Bát nhã của tự tánh từ trong chân tâm, trí tuệ này phổ biến khắp pháp giới, đây là ý nghĩa của chữ Phổ. Trí mới có thể dẫn đường cho hành. Cũng chính là nói, trí thực tiễn vào trong sự tướng chính là hành vi, chính là hành động. Trí trùm khắp pháp giới, thì hành cũng đầy cả hư không, cũng trùm khắp pháp giới, nên gọi là quảng. Chân tâm là thể. Phổ quảng là dụng. Phổ là nói trí tuệ. Quảng là nói sự tướng. Cũng hiển thị ba thân là một thể, cũng hiển thị ba đức là một thể. Ngài chỗ này là nói tâm là pháp thân. Phổ là Bát nhã. Quảng là giải thoát. Giải thoát chính là phương tiện tự tại. Chúng ta gọi là tự tại tùy duyên. Tự tại tùy duyên chính là giải thoát. Ý nghĩa của đoạn này cũng rất sâu, chúng ta cần phải khéo léo mà học tập. Ở trong Phật pháp đều là nói chân tướng. Chân tướng nhất định không được phép chấp trước thân là ta, coi vật ở ngoài thân thành cái ta sở hữu, ngã sở. Ta còn không có, thì làm gì có ngã sở? Bạn mới thật sự giác ngộ rồi. Bạn phải buông xả được ngã, ngã sở. Buông xả không dễ dàng. Tại sao bạn không thể buông xả được? Vì đạo lý và chân tướng sự thật này bạn chưa có hiểu rõ ràng, chưa có làm sáng tỏ. Nếu như thật sự hiểu rõ, thật sự sáng tỏ rồi, thì bạn sẽ rất thích buông xả. Bạn không thể không buông xả, đây là đạo lý nhất định. Sáng tỏ chính là thấy ra. Sao gọi là thấy ra? Lý sự nhân quả biết rõ rồi, sáng tỏ rồi, nên bạn là thứ gì cũng buông xả được. Sau khi buông xả rồi, thì đời sống đó, thọ dụng đó đối với bản thân mà nói là tự tại, đối với người khác mà nói là tùy duyên. Cho nên tự tại là tự thọ dụng, tùy duyên là tha thọ dụng, giúp tất cả chúng sanh tùy duyên. Ở trong tùy duyên không có phân biệt, không có chấp trước. Có phân biệt, có chấp trước, không phải tùy duyên, mà gọi là phan duyên. Sự khác biệt của tùy duyên với phan duyên là ở chỗ này. Tâm của tùy duyên là thanh tịnh, là bình đẳng, là giác ngộ. Tâm của phan duyên là không thanh tịnh, không bình đẳng, là mê chấp, mê hoặc. Sự khác biệt ở trong đây rất lớn. Thế Tôn tán thán Bồ-tát Địa Tạng, tán thán các vị Bồ-tát lớn tham dự pháp hội, dụng ý ở trong đây rất sâu. Các vị Bồ-tát lớn biết tất cả pháp rốt cuộc là không, lại có thể thị hiện đủ dạng sắc tướng để giáo hóa chúng sanh, vậy mới đáng được Như-lai tán thán. Người thế gian không biết tánh của các pháp vốn không, nên họ tạo nghiệp, thọ báo đó cũng là đủ dạng thị hiện, mà không tự tại. Nhị Thừa, Quyền Giáo, đặc biệt là người Nhị Thừa biết các pháp đều không mà không phát tâm giúp tất cả chúng sanh, nghĩa là “Rơi vào hầm Niết Bàn” nên đức Phật không tán thán. Đây chính là nói phàm phu chấp có, Nhị Thừa chấp không, đều đọa lạc vào hai bên. Phật tán thán Bồ-tát, Bồ-tát là không chấp hai bên, nghĩa là các Ngài hành trung đạo, là có lợi ích chân thật đối với mình, đối với người, nên đức Phật mới tán thán. Dụng ý của tán thán là khiến cho người mới học như chúng ta học theo Bồ-tát, không nên học theo phàm phu, không nên học theo Nhị Thừa. Học theo phàm phu chấp có là sai rồi, tạo lục đạo luân hồi! Học theo Nhị Thừa chấp không cũng sai rồi, là rơi vào thiên chân Niết Bàn. Dụng ý của Phật nói là ở chỗ này. Bồ-tát Phổ Quảng đại diện chúng ta khải thỉnh, trong lời Ngài nói là: “Nay con nghe đức Thế Tôn ngợi khen Ngài Địa Tạng Bồ-tát có đức oai thần rộng lớn không thể nghĩ bàn như thế.” Đây là lời phía trước nói. Bồ-tát Địa Tạng đã nhiều kiếp phát nguyện thành tựu cho vô lượng vô biên chúng sanh làm Phật rồi, công đức này bao lớn. Hơn nữa vẫn tiếp tục không ngừng phổ độ tất cả chúng sanh khổ nạn. Bồ-tát ở chỗ này đặc biệt nhắc đến: ‘Trông mong đức Như-lai lại vì những chúng sanh trong thời mạt pháp sau này.’ chính là chỉ chúng ta. Chúng ta hiện nay sống ở thời kỳ mạt pháp của Thế Tôn. Lời đức Phật nói trong kinh, pháp vận của Phật có ba thời kỳ; thời kỳ thứ nhất là thời kỳ chánh pháp, cách Phật không xa nên Phật pháp lưu truyền ở thế gian ý nghĩa còn rất chính xác. Người có duyên nghe được Phật pháp, rất dễ dàng chứng quả. Dựa theo phương pháp, lý luận của Phật pháp tu học, người thành tựu rất nhiều. Phật nói thời gian này là một ngàn năm. Có thể thấy chúng ta ngày nay nói là sức ảnh hưởng, Phật giáo hóa chúng sanh có sức ảnh hưởng sâu như vậy, lớn như vậy, trong một ngàn năm người tiếp xúc được Phật pháp đều có thể tu hành chứng quả, bạn thấy sức ảnh hưởng này bao lớn. Nhưng đến một ngàn năm thứ hai, thì sức ảnh hưởng này kém hơn một chút, Phật pháp dần dần biến chất rồi, nên gọi là thời Tượng Pháp. Tượng tức là không có trong sáng chân thật được như thế. Tượng là tương tự. Người tu hành chứng quả không còn nữa, ít rồi! Người đắc Thiền Định rất nhiều, dựa theo phương pháp này, đắc thiền định khai trí tuệ vẫn còn, là thời kỳ tượng pháp. Thời kỳ Mạt Pháp, đây là sau khi Phật diệt độ hai ngàn năm, kéo dài mãi cho đến mười ngàn năm. Cho nên pháp vận của Phật, cũng chính là sức ảnh hưởng của Phật giáo hóa chúng sanh, tổng cộng là mười hai ngàn năm. Mười ngàn năm sau này bèn gọi là thời kỳ Mạt Pháp, sức ảnh hưởng này dần dần suy yếu rồi, chúng ta có thể nhìn thấy từ trên lịch sử. Cho nên sự tu học Phật pháp, sự hoằng dương Phật pháp, người thế gian thường nói mỗi đời một tệ dần là có nguyên nhân của nó ở trong đó. Nhưng tuy là mỗi đời một tệ dần, vậy Phật pháp ở thời Mạt Pháp có lúc nào cao trào hay không? Có. Có cao trào, nhưng cũng có lúc đi xuống. Đây là nguyên nhân gì? Đây chính là cái gọi là: “Người có thể hoằng đạo, chứ không có đạo hoằng người.” Nếu như ở thời đại này thật sự có phàm phu tâm lượng lớn, họ giác ngộ rồi, họ sáng tỏ rồi, y giáo tu hành, hết lòng hết sức hoằng dương Phật pháp, thì Phật pháp được hưng thịnh lên. Nếu như ở thời đại này, ở khu vực này không có người hoằng dương, không có người thật sự y giáo tu hành, thì Phật pháp ở thời đại này lại suy yếu xuống rồi. Có thể thấy thịnh hay suy là do con người, chứ không do pháp. Phật nói cho chúng ta biết, trong một vạn năm này thật sự có lên có xuống. Lúc tôi mới học, đại sư Chương Gia nói với tôi, khích lệ tôi, bảo tôi đừng nên nản lòng. Không phải Phật pháp cứ suy thoái xuống mãi, không phải vậy, có khi hưng thịnh lên. Có thể thấy đây là việc do con người làm. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, chúng ta phát tâm đưa Phật pháp thời kỳ Mạt Pháp lên cao trào là được công đức vô lượng, chư Phật tán thán, không phải là không thể. Tôi trước đây cũng thường hay khuyến khích các đồng tu. Chúng ta nếu nghĩ đến Phật Thích Ca Mâu Ni năm xưa sáng lập đạo nghiệp với năm Tỳ Kheo. Ở vườn Lộc Dã đầu tiên có năm người học trò, một thầy, khởi nghiệp như vậy, sáng lập đạo nghiệp như vậy. Sáu người này có thể khởi nghiệp, sáng lập đạo nghiệp. Ngày hôm nay nếu như có sáu người thật sự phát tâm, thì sao có thể không phục hưng được? Sáu người là rất khó tìm. Sáu người phải như thế nào? Là sáu người sáng suốt, sáu người giác ngộ, sáu người thân tâm thế giới tất cả đều buông xả thì Phật giáo sẽ hưng thịnh lên được. Chúng ta có chịu làm hay không? Có chịu xả nó cho thật sạch sẽ, xả đến cùng hay không? Năm xưa ở Hồng Kông, khi pháp sư Tẩy Trần còn tại thế, sư đến Đài Loan để thăm tôi, sư cũng rất hộ trì Phật pháp, có bàn đến chuyện làm thế nào có thể chấn hưng Phật pháp với tôi? Vào lúc đó tôi giảng “Kinh Kim Cang” ở Đài Loan, giảng “Giảng Nghĩa” của cư sĩ Giang Vị Nông, giảng rất tỉ mỉ. Cư sĩ Giang Vị Nông có đề xướng ở trong “Kinh Kim Cang Giảng Nghĩa”. Ông nói nếu như muốn Phật pháp hưng thịnh, thì nhất định phải thực hành chế độ trì bát. Tôi đồng ý với cách nhìn của ông. Người xuất gia khôi phục về cái thời đại đó của Thế Tôn là ba y một bát, ngoài ra chẳng có gì cả, mới có thể chấn hưng Phật pháp được. Tôi kiến nghị với pháp sư Tẩy Trần. Tôi nói thầy đi tìm, chỉ cần năm người, năm vị Tỳ Kheo chúng ta. Hiện nay phước báo của chúng ta không bằng thời đó của đức Thế Tôn. Tại sao vậy? Thể lực chúng ta không tốt. Ngày nay bảo chúng ta ngủ qua đêm dưới gốc cây, ngày ăn một bữa, chưa đến một tuần là đã ngã bệnh, đưa vào bệnh viện rồi! Phước báo không đủ. Cho nên hoàn cảnh sống phải hơi nâng cao hơn một chút so với thời đó. Chúng ta không thể ngủ qua đêm dưới gốc cây, chúng ta ở trong lều. Hiện nay lều trại của các em hướng đạo sinh, lều trại nhỏ mỗi người một cái, xếp lại rất nhỏ gọn, có thể cho vào trong túi ba lô. Tôi nói chúng ta tìm khoảng năm người, ban ngày chúng ta đi khất thực, giảng kinh thuyết pháp hoằng hóa, tối đến tìm một gốc cây lớn, năm người vây quanh gốc cây căng lều ngủ là được rồi. Chúng ta cũng không cần phải tĩnh tọa, nằm xuống ngủ là được rồi. Đem mức sống hạ xuống đến mức thấp nhất, trong tâm một tạp niệm cũng không có, nhất tâm hành đạo. Khi không giảng kinh, không thảo luận, không hoằng pháp, thì mọi người ngồi chung lại niệm Phật. Tôi nói với sư, sư dẫn đầu làm, tôi sẽ ghi tên tôi là một trong năm người đó, sư hãy tìm tiếp đi. Sau khi sư trở về Hồng Kông thì bặt tăm tích. Pháp sư Tẩy Trần qua đời cũng rất lâu rồi, thật sự chịu phát tâm. Lúc tuổi trẻ có thể lực có thể làm được, phải phát tâm nguyện lớn quên mình vì người, vì chúng sanh trên trái đất này, đem Phật pháp chấn hưng lên. Tuổi tác cao rồi, thể lực suy yếu thì không được rồi, vậy là làm không được. Pháp thế gian và xuất thế gian đều phải dựa vào sức trẻ. Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện 19 tuổi ngộ đạo, 30 tuổi ra hoằng pháp lợi sinh, thuyết pháp 49 năm, giảng kinh hơn 300 hội, phải tuổi trẻ mới được. Ở Trung Quốc, các bạn thử xem đại sư Lục Tổ Huệ Năng Thiền Tông, 24 tuổi tiếp nhận y bát, Ngũ Tổ truyền đạo cho Ngài, lúc đó Ngài 24 tuổi, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Tuổi tác lớn rồi làm sao được? Xưa nay những người này, sự trải nghiệm của họ, đủ dạng thị hiện của họ, là để cho chúng ta làm tham khảo, gợi ý rất lớn cho chúng ta, hy vọng người hậu học chúng ta có thể noi theo họ, có thể học tập theo họ, thì Phật pháp mới có thể trụ lâu ở thế gian được, mới có thể lợi ích tất cả chúng sanh. Tinh thần của Bồ-tát Địa Tạng đặc biệt đáng để chúng ta noi theo, tâm nguyện của Ngài xưa nay chưa từng thối chuyển, sự hành trì của Ngài vĩnh viễn đều đang dũng mãnh tinh tấn, đều đang làm: “Các sự nhân quả, làm lợi ích cho hàng Trời, Người”. Bồ-tát Phổ Quảng khải thỉnh, các Ngài là nương theo lời dạy của Phật, gánh vác lên sứ mệnh hoằng Kinh. Nhưng làm sao có thể đem sự việc này làm có hiệu quả. “Chúng sanh đời sau đều kính vâng lời đức Phật” Đây là nói hiệu quả, điều này phải dựa vào Phật gia trì. Tuy Bồ-tát đang làm, có thể thu được hiệu quả hay không, họ cũng không dám nói, cầu Phật gia trì. Chỗ này thỉnh Phật khai thị chính là cầu Phật gia trì.

  “Nhĩ thời Thế Tôn cáo Phổ Quảng Bồ-tát cập tứ chúng đẳng” (Bấy giờ, đức Thế Tôn, bảo Ngài Phổ Quảng Bồ-tát cùng trong tứ chúng rằng)

  Bồ-tát Phổ Quảng ở chỗ này là đại biểu cho đương cơ. “Đẳng” là người tham dự pháp hội. Không chỉ là tham dự pháp hội, trong kinh văn phần trước nói: “Phổ cáo với hết thảy chư Bồ-tát Ma Ha Tát trong các thế giới chư Phật.” Chữ Đẳng” nghĩa là như vậy, không nhất định là ở pháp hội, đây là tất cả Bồ-tát Ma Ha Tát trong 10 phương cõi nước chư Phật. Ý nghĩa ở trong chữ đẳng là rất rộng. “Cập tứ chúng đẳng” là bao gồm cả đại chúng Trời Rồng.

  “Đế thính, đế thính” (Lóng nghe! Lóng nghe!)

  “Đế thính” đế là như thật, rất trung thực. Dùng cách nói hiện nay của chúng ta để nói là nghe thật kỹ, chăm chú nghe, là có ý như vậy.

  “Ngô đương vi nhữ lược thuyết Địa Tạng Bồ-tát lợi ích nhân thiên phước đức chi sự” (Ta sẽ vì các ông nói lược về những sự phước đức của Ngài Địa Tạng Bồ-tát làm lợi ích cho người cùng Trời.)

  Người thế gian, đặc biệt là phàm phu lục đạo, người giác ngộ ít, niệm niệm vẫn lưu luyến phước đức nhân thiên, không chịu từ bỏ phước đức nhân thiên, cho nên họ không thể thoát khỏi lục đạo luân hồi. Nhưng Phật Bồ-tát giáo hóa chúng sanh nhất định phải tùy thuận theo căn tánh của họ, thuận theo sự yêu thích của họ, dẫn dụ dần dần. Chúng sanh chú trọng ở phước, có người nào không cầu phước đâu? Người không tin Phật thì có, chứ người không cầu phước thì không có. Có người nào không cầu phước đâu? Bạn ở Singapore, đi trên mỗi con đường thấy người ta dán ngược chữ “phước”, dán ngược nghĩa là “phước đến” rồi. Họ đang cầu phước. Phước có thật sự đã đến hay chưa vậy? Rất khó nói. Có thể thấy tâm cầu phước, không có người nào không như vậy cả. Sao gọi là phước đức? Nói thực ra họ cũng không hiểu. Họ cho rằng thăng quan phát tài là phước đức. Nho Gia là lấy Khổng Lão Phu Tử làm đại biểu, trong “Luận Ngữ” nói Phu Tử có năm loại đức hạnh: Ôn, lương, cung, kiệm, nhượng. Nói thực ra đây là căn bản của làm người, là cơ sở của cõi người. Ôn hậu, là tâm địa hiền hòa phúc hậu. Biểu hiện ra bên ngoài là ôn hòa, lương thiện. Cung thận. Cung là cung kính. Thận là cẩn thận, thận trọng. Tiết kiệm, nhường nhịn. Ngũ đức của Phu Tử chiêu cảm nên phước báo. Người xưa nói Ngũ Phước, ngũ phước lâm môn. Ở trong Ngũ phước cái đầu tiên là phước Thọ, chúng ta ngày nay gọi là khỏe mạnh trường thọ, đây là phước đầu tiên. Thứ hai là phú quý. Phú là có tiền của. Quý là có địa vị. Bạn ở trong xã hội có địa vị, có tiền của. Thứ ba là khang ninh. Khang là khỏe mạnh, an ninh, thân tâm an ổn, thân tâm vui vẻ. Tâm không có lo nghĩ, thân không có khổ nạn, thân hưởng lạc, trong tâm vui sướng, đây là khang ninh. Thứ tư là hiếu đức. Thứ năm là khảo chung. Khảo chung chính là chết an lành. Ở trong ngũ đức thì phước thọ, phú quý, khang ninh, khảo chung đều là nói đến quả, là cái bạn hưởng thụ. Hiếu đức là nhân, tu nhân. Nếu bạn không tu nhân thì sao bạn được cái quả báo này? Hiếu đức chính là ôn, lương, cung, kiệm, nhượng. Bạn có tu đức, thì bạn mới được phước. Khi hưởng phước vẫn phải tu đức thì phước báo của bạn mới có thể lâu dài, mới không đến nỗi hưởng hết. Tu học ở trong Phật pháp còn thù thắng hơn cái này nữa. Nhưng chúng ta phải biết năm chữ ôn, lương, cung, kiệm, nhượng này thật sự là căn bản. Chúng ta tu học cũng xem cái này là căn bản, dưỡng ngũ đức, tu lục hòa. Ngày nay chúng ta tu học pháp môn Tịnh Độ, chúng ta đặt cơ sở ở trong “Kinh Phật Quán Vô Lượng Thọ” nói tam phước. Là “Kinh Phật Quán Vô Lượng Thọ”, đây là cơ sở của chúng ta. Tam phước là gì vậy? Tam phước chính là “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện”. Ở trong tam phước, phước đầu tiên là: Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ, từ tâm không giết hại, tu thập thiện nghiệp. Phước thứ hai là “Thọ trì tam quy, giới luật đầy đủ, không phạm oai nghi”. Phước thứ ba là “Phát tâm Bồ đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả.” Quý vị nghĩ xem tổng cộng mười một câu này, những gì mà mười một câu này nói có phải là “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” hay không? Cho nên bộ kinh này, chính là tam phước này. Mười một câu nói là nói rõ tường tận mà thôi. Phật đã nói ba điều này là “Tam thế chư Phật, tịnh nghiệp chánh nhân” (Chánh nhân tịnh nghiệp của ba đời chư Phật.) Tám chữ này vô cùng quan trọng. Thế Tôn nói rõ cho chúng ta, tất cả chư Phật mười phương ba đời, từ lúc sơ phát tâm tu hành chứng quả, chính là dựa theo cơ sở này. Có thể thấy mười một câu này không những là cơ sở tu hành của Tịnh Tông chúng ta thôi, mà bất kỳ pháp môn nào, tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, bất kỳ pháp môn nào cũng đều phải xây dựng trên cơ sở này. Cơ sở này chính là “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện”. Nếu như không đặt cơ sở trên bộ kinh này, thì tu học bất kỳ pháp nào cũng không thể thành tựu được. Cho nên tôi nói đây là pháp căn bản ở trong pháp hành, vô cùng vô cùng quan trọng. Pháp sư Thanh Liên ở trong chú giải nói với chúng ta Lục Trai Nhật, nói với chúng ta ngũ giới thập thiện. Ngài đặc biệt chỉ ra cái này chính là “Những việc lợi ích phước đức nhân thiên”. Ở trên cơ sở này lại nhấn mạnh tiếp cơ sở căn bản nhất là nhất định phải tu ngũ giới, nhất định phải tu thập thiện. Không thể tu hạnh thanh tịnh mỗi ngày, thì cũng phải mỗi tháng tu sáu ngày. Lục trai nhật hiện nay người bình thường dùng âm lịch là quá ít rồi, rất khó nhớ, sẽ đem lại phiền phước trong đời sống của bạn, vậy thì làm thế nào? Chúng ta dùng ngày chủ nhật, hoặc giả dùng ngày thứ bảy cũng giống nhau. Mỗi tuần tu một lần, giống như chúng ta hiện nay đề xướng mỗi tuần chúng ta cử hành niệm Phật một ngày 24 giờ. Niệm Phật 24 giờ, bước vào niệm Phật đường thì ngũ giới thập thiện đã viên mãn rồi. Bạn ở trong đó không còn khởi vọng tưởng, nhất tâm niệm Phật. Cho nên bước vào niệm Phật đường, thì tịnh nghiệp tam phước thảy đều tu rồi, giới định tuệ tam học cũng được viên tu viên chứng. Đúng như lời trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói: Một tức tất cả, tất cả tức một. Chúng ta dùng một pháp môn niệm Phật có thể dung nhiếp tất cả pháp môn một cách viên mãn. Cho nên pháp môn niệm Phật rất hay, đáng được đề xướng, không câu nệ số người nhiều hay ít, tốt nhất mỗi tuần niệm một lần, 24 giờ không gián đoạn. Chúng tôi cố hết sức đề xướng pháp môn này, tương lai thôn Di Đà ở nơi này niệm Phật đường sẽ làm đến mỗi ngày 24 giờ, quanh năm suốt tháng đều không gián đoạn. Hay nói cách khác, niệm Phật đường nơi đây là niệm Phật đường tinh tấn, chứ không phải niệm Phật đường thông thường. Năm xưa niệm Phật đường ở núi Linh Nham của Ấn Quang Đại Sư, mỗi năm vẫn cử hành Phật thất tinh tấn. Chúng ta ở nơi đây, hằng ngày đều là Phật thất tinh tấn, cho nên nói vô cùng hiếm có. Hy vọng các đồng tu, đồng tu ở nơi khác, hiện nay giao thông thuận tiện, có thể thường xuyên đến tham gia niệm Phật ở nơi này. Nếu như có đạo hữu cùng tham học có thể tổ chức thành nhóm nhỏ, đến Singapore, bên này vô cùng hoan nghênh, nhiệt liệt hoan nghênh, đến nơi đây bạn niệm một tháng cũng được, niệm bảy ngày cũng được, thường trụ ở bên này hoàn toàn cúng dường, tứ sự cúng dường, không cần phải mang theo một xu nào đến cả, thành tựu mọi người làm Phật, đây là công đức thù thắng vô song.

Tốt rồi! Hôm nay chúng ta chỉ giảng đến chỗ này.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *