KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 96
Ở đây Thế Tôn dạy cho chúng ta phương pháp tu học. Mời xem kinh văn:
“Thị nhân tiên đương niệm Địa Tạng Bồ Tát danh vạn biến.”
(Người ấy trước khi đi nên niệm danh hiệu của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát một muôn biến.)
Kẻ thiện nam, người thiện nữ. Cách niệm như thế nào? Vẫn là phải chí tâm xưng niệm, thành tâm thành ý niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng. Ở trong chú giải pháp sư Thanh Liên nói với chúng ta. Chúng ta hãy đọc qua chú giải một lược.
“Thử hiển xưng danh chi ích” (Điều này tỏ rõ lợi ích của việc xưng danh) Đây là Thế Tôn dạy chúng ta. “Thị nhân, thông chỉ cửu giới” (Người đó là chỉ chung cho chín pháp giới) Không chỉ là chỉ cõi người chúng ta. Chín pháp giới là bao gồm cả Bồ Tát ở trong đó. Sau đó Ngài nói: “Dĩ Sơ Địa Bồ Tát thượng bất miễn hổ lang chi nạn” (Bởi lẽ, Bồ Tát Sơ Địa còn không thể tránh khỏi nạn cọp, sói.) Huống chi là những cõi dưới Bồ Tát? Điều này chúng ta phải biết. Tại sao bạn lại gặp phải những tai nạn này? Pháp thế gian hay Phật pháp đều nói cho chúng ta biết, là “Giọt nước hạt cơm, đều do tiền định”. Cọp, sói, sư tử, trong đời quá khứ bạn không có kết oán thù với chúng, chúng nhìn thấy bạn cũng chẳng thèm quan tâm, chúng sẽ không làm tổn hại bạn. Chúng làm tổn hại bạn là do trong quá khứ chắc chắn bạn đã kết oán thù với chúng. Bạn là Bồ Tát sơ địa, bạn gặp phải oan gia, họ cũng sẽ không tha cho bạn, điều này phải biết. Cho nên oan gia phải hóa giải chứ đừng kết thêm. Chúng ta xem thấy An Thế Cao ở trong “Truyện Cao Tăng”, nói thực ra cũng là thị hiện. Rốt cuộc Ngài là nhân vật nào, chúng ta không thể biết được. Ngài đến Trung Quốc để đền mạng hai lần. Điều này ở trong “Truyện Ký” của Ngài có ghi rất rõ ràng. Nghĩa là nợ mạng thì nhất định phải đền mạng, nợ tiền thì nhất định phải đền tiền, chứ không có cách gì. Nhân quả thông ba đời. Nói người nào giành phần hơn với người nào đó, người nào đó bị thiệt thòi, là không có chuyện này. Nói giành phần hơn, nói thiệt thòi, đó là người thế gian chỉ nhìn thấy cái đoạn trước mắt này, chứ chưa có nhìn thấy nhân quả trước sau. Nếu nhìn thấy được nhân quả trước sau, thì mới biết chân tướng sự thật. Cho nên nếu như chúng ta gặp phải chuyện người khác đã giành phần hơn với mình thì chúng ta nên mỉm cười, đừng để chuyện ấy ở trong tâm. Chúng ta bị thiệt thòi, bị mắc lừa cũng chẳng sao cả, nghĩ rằng hết thảy đều là trả nợ. Món nợ này của ta đã xóa rồi, xóa hết nợ rồi. Bất kể bị oan khuất như thế nào đi nữa, cũng đều nghĩ là trả nợ, tuyệt đối không oán trời trách người. Mình tu tốt đi nữa, làm nhiều việc tốt đi nữa, bị người ta đổ oan, bị người ta vu oan, thậm chí là bị người ta hãm hại cũng không có sao cả. Biết đều có nghiệp nhân quả báo. Bồ Tát Sơ Địa còn không tránh khỏi những quả báo ác này, chúng ta là hạng người nào? Cho nên nếu gặp phải những quả báo xấu ác này hiện tiền phải nên thản nhiên thọ nhận, không oán trời, không trách người. Sau khi những tai nạn này đi qua rồi thì sẽ hết, nghĩa là hết mưa trời sẽ sáng, tai họa qua rồi thì phước báo hiện tiền. Nếu như vào lúc này có hoài nghi, cả đời tôi làm việc tốt, vẫn phải gặp loại quả báo này, trong tâm bạn có oán hận, thì tai nạn của bạn không thể tiêu trừ, phước báo không thể hiện tiền, đạo lý này chúng ta nhất định phải biết, phải hiểu rõ. Quyết định tin lời giáo huấn của Phật Bồ Tát, y giáo phụng hành, nghiêm túc soi lại, kiểm điểm. Không nên cho rằng người khác cái gì cũng đều sai cả, đây là lỗi lầm lớn nhất của người tu hành. Người tu hành chân chánh từng giây từng phút nghiêm túc kiểm điểm, tất cả là do mình sai, người khác không có gì sai cả, lỗi lầm đều là do mình, cứ như vậy mà nghiêm túc nỗ lực sám hối, sửa chữa lỗi lầm, thì đường Bồ-đề mới thuận buồm xuôi gió, mới giảm bớt chướng nạn. Lời đại sư Huệ Năng dạy chúng ta vô cùng có đạo lý: “Nếu người tu đạo chân thật, thì không thấy lỗi thế gian.” Hai câu nói này không phải là người bình thường có thể nói ra được. Hay nói cách khác vẫn còn thấy thế gian có lỗi lầm, mình không có lỗi lầm, người khác có lỗi lầm thì bạn tu học sẽ gặp khó khăn, bạn sẽ gặp chướng ngại. Đến khi nào thật sự làm được không thấy lỗi thế gian, chỉ thấy lỗi mình, bạn mới được xem là thật sự có tiến bộ, thật sự tiêu nghiệp chướng, chuyển họa thành phước. Cho dù chẳng may mất đi mạng sống, bị người ta hãm hại hoặc bị người ta giết, cũng là chuyển họa thành phúc. Tại sao vậy? Bạn chắc chắn sanh về cõi lành. Bạn xả bỏ thân này, thọ tiếp cái thân khác, so với hoàn cảnh hiện nay không biết là tốt hơn gấp bao nhiêu lần. Cho dù không thể vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, cũng chắc chắn sanh về cõi trời để hưởng phước. Nếu như gặp tai nạn, mà bạn sinh một niệm tâm oán hận, tai nạn không thể tránh khỏi, mà còn phải đọa lạc tam đồ. Sự khác biệt ở chỗ này lớn cỡ nào? Lý và sự chúng ta đều phải biết cho thật rõ ràng, minh bạch. Bày ngay trước mắt chúng ta là thập pháp giới. Thập pháp giới là mười con đường. Người có trí tuệ, thì mười con đường này là do mình chọn lựa, chọn lựa đường lành. Chỉ có những người ngu muội không biết, tự cho mình là đúng, họ không biết chọn lựa, đọa lạc vào đường ác. Chúng ta có thể hiểu được những sự lý này, đây là nhờ sự chỉ dạy Phật, Bồ Tát và tổ sư đại đức, ơn đức này là quá lớn, quá lớn. Nếu như chúng ta không có gặp được Phật pháp, thì đâu thể biết được? Gặp phải những tai nạn này, tâm của chúng ta làm sao có thể bình ổn lại được? Ngày nay có thể bình tâm lắng khí quan sát thế gian đều là nhờ sự chỉ dạy của đức Phật. Cho nên ơn đức của Phật, Bồ Tát và Tam Bảo, nói thực ra là hơn cả cha mẹ.
Dưới đây là những lợi ích mà bạn đạt được.
“Sở quá thổ địa quỷ thần vệ hộ, hành trụ tọa ngọa vĩnh bảo an lạc. Nãi chí phùng ư hổ lang sư tử, nhất thiết độc hại bất năng tổn chi.”
(Được thế thời đi qua nơi nào chốn nào cũng có các vị Quỉ Thần hộ vệ, lúc đi đứng, khi nằm ngồi, đều được an ổn vui vẻ luôn, cho đến dầu gặp loài hùm sói sư tử… nhưng tất cả thứ độc hại đều không thể phạm đến người đó được.)
Thường ngày bạn có thể đoạn ác tu thiện, bạn là kẻ thiện nam, người thiện nữ. Khi bạn đi du lịch, lại có thể niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng một muôn biến, lại tu thêm pháp môn Bồ Tát Địa Tạng. Cách tu thêm là tu như thế nào? Tăng cường hiếu thảo cha mẹ, tôn kính thầy tổ, đoạn ác tu thiện, tăng cường thương xót, từ bi, cứu giúp đối với tất cả chúng sanh, đây chính là tu thêm pháp môn Bồ Tát Địa Tạng. Trong khi bạn đi du lịch, bạn có thể được trời đất quỷ thần phù hộ, những nơi bạn đến bạn đều được yên ổn. Cho dù gặp phải tai nạn, thì tai nạn cũng sẽ không khiến cho bạn bị tổn hại. Ở đây đức Thế Tôn chỉ dạy chúng ta, đây đều là nêu ra ví dụ để nói. Nói thực ra dựa theo phương pháp giáo huấn trong kinh điển tu học là lợi ích vô lượng vô biên, đâu thể nói hết được? Nói tới đây, vậy là tổng cộng đã nêu ra tám ví dụ. Phía sau đức Phật đã làm một cái tổng kết. “Tổng thuyết lợi ích vô tận”
“Phật cáo Quán Thế Âm Bồ Tát: “Thị Địa Tạng Bồ Tát ư Diêm Phù Đề hữu đại nhân duyên”.
(Đức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát: ‘Ngài Địa-Tạng Bồ Tát có nhơn duyên rất lớn với cõi Diêm Phù Đề)
“Diêm Phù Đề” là chỉ địa cầu của chúng ta. Nói thực ra câu nói này là đức Thế Tôn đặc biệt nhấn mạnh cho chúng ta biết, Bồ Tát Địa Tạng và Bồ Tát Quán Thế Âm đều có hạnh nguyện lớn đối với tất cả chúng sanh trong tận hư không, khắp pháp giới, chứ không phải chỉ đối với nơi này của chúng ta. Bởi vì đức Phật nói với chúng ta, nên phải đặc biệt nhấn mạnh.
“Nhược thuyết ư chư chúng sanh kiến văn lợi ích đẳng sự, bách thiên kiếp trung thuyết bất năng tận.”
(Nếu nói về những sự mà các hàng chúng sanh thấy hình nghe tên của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát được lợi ích, thời dầu nói đến trong trăm nghìn kiếp cũng không hết được)
Đây là lời chân thật, chứ không phải như mấy ví dụ nêu ra ở phía trước. Lợi ích thật sự là nói không hết. “Kiến văn lợi ích” (Lợi ích của việc thấy nghe). Thấy hình tượng Bồ Tát Địa Tạng, nghe danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, được quá nhiều quá nhiều lợi ích. Nói một trăm kiếp, nói một nghìn kiếp cũng không thể nói hết. Trong tiểu chú có nêu ra “Kinh Địa Tạng Thập Luân”. Bồ Tát Địa Tạng có ba bộ kinh, ngoài bộ kinh này ra, còn có “Kinh Thập Luân”. Ngài nêu ra mấy câu nói trong “Kinh Thập Luân” để nói. Chúng ta hãy đọc qua tiểu chú một lượt. “Thử kết”. Kết nghĩa là tổng kết. “Địa Tạng thiên hướng Diêm Phù Đề chi ý” (Ý của Ngài Địa Tạng hướng về Diêm Phù Đề) Đây là đức Thế Tôn thuyết pháp đặc biệt nhấn mạnh. Thập Luân Kinh vân: (Kinh Thập Luân nói) “Quy kính Địa Tạng giả, sở cầu giai mãn túc, cụ túc thí công đức, bi mẫn chư chúng sanh. Giả sử bách kiếp trung tán thuyết kỳ công đức, do thượng bất năng tận, cố giai đương cúng dường” (Người quy kính Bồ Tát Địa Tạng, những việc mong cầu đều được thỏa mãn, đầy đủ công đức bố thí, thương xót chúng sanh. Giả sử khen ngợi công đức ấy trong suốt trăm kiếp cũng không hết, vì thế phải nên cúng dường.) Đây là nói Bồ Tát Địa Tạng, công đức bố thí. Người thương xót tất cả chúng sanh, quy kính Bồ Tát Địa Tạng nhất định phải noi theo hạnh Bồ Tát Địa Tạng. Nếu như không thể hết lòng hết sức noi theo Bồ Tát Địa Tạng thì không gọi là thật sự quy kính. Thật sự quy kính thì nhất định phải làm được, điểm này là đặc biệt quan trọng. Không thể nói, miệng tôi nói cung kính, hằng ngày lễ bái Bồ Tát Địa Tạng, nhưng khi nhìn thấy những chúng sanh khổ nạn thì cứ mặc nhiên, vậy là sai rồi. Mặc dù mình không có sức, không có năng lực giúp đỡ người khác, cũng phải đọc kinh, chấp trì danh hiệu, dùng công đức này chí tâm hồi hướng, ít nhất bạn phải làm được điểm này, đó là bạn thật sự không có năng lực giúp đỡ. Nếu như có năng lực thì bạn nhất định phải làm hết sức của mình. Bạn có mười phần sức lực, nhưng bạn chỉ làm hết chín phần thì vẫn chưa viên mãn. Làm sao làm được viên mãn mới thật sự là tu học pháp môn Địa Tạng, mới là thật sự quy kính Bồ Tát Địa Tạng. Mời xem kinh văn dưới đây:
“Thị cố Quán Thế Âm! Nhữ dĩ thần lực lưu bố thị kinh, lịnh Ta Bà thế giới chúng sanh, bách thiên vạn kiếp vĩnh thọ an lạc”
(Này Quán Thế Âm Bồ Tát! Vì thế Ông nên dùng thần lực mà lưu truyền kinh này làm cho chúng sanh trong cõi Ta Bà đây mãi đến trăm nghìn muôn kiếp được hưởng những sự an vui luôn’.)
Đây là đức Thế Tôn khuyên Bồ Tát Quán Thế Âm, phải lưu truyền, tuyên bố kinh điển này. “Lưu bố” tức là diễn thuyết, lưu truyền bộ kinh điển này. Bạn muốn lưu truyền thì bản thân bạn nhất định phải tu học, bản thân bạn nhất định phải làm được. Nếu như bản thân bạn không làm được, bạn lưu truyền cũng có công đức. Nhưng việc chuyển họa thành phúc là tương đối khó khăn, không có nhanh chóng như vậy được. Bản thân bạn thật sự y giáo phụng hành thì việc chuyển cảnh giới sẽ rất nhanh chóng. Hiện nay lưu truyền, in kinh là phương pháp tốt nhất. Thời xưa lưu truyền rất khó khăn, thời xưa là chép kinh, chứ chưa có in ấn. Chúng ta thử xem văn tự ghi chép thời xưa, có những vị trưởng giả giàu có chép kinh, họ mời những người có ăn học, mời người ta đến chép kinh, chép một bộ, chép mười bộ. Người có sức nữa thì có thể chép một trăm bộ nhưng rất ít. Phần lớn kinh chép xong được tặng vào trong chùa miếu để cúng dường. Trong chùa miếu có lầu tàng kinh, cất giữ ở trong đó để cho người ta đọc tụng. Cũng có người vào trong đó để ghi chép, chép kinh. Đây là vào thời xưa việc in ấn chưa có phát triển, nên vô cùng khó khăn. Thực ra việc chép kinh đến đầu năm Dân Quốc vẫn còn chép. Đến hiện nay việc chép kinh ít rồi, kỹ thuật in ấn phát triển rồi. Cho nên chúng ta làm công đức lưu truyền ngày càng thuận tiện. Giống như bản chú giải này, pháp sư Thanh Liên là người khoảng năm Khang Hy. Vào thời đó đã có thể khắc bản gỗ rồi, in ấn bằng bản khắc gỗ. Bản khắc là khắc từng chữ một. In ấn nếu như các bạn đến“Kim Lăng Khắc Kinh Xứ” ở Nam Kinh, bạn hãy xem sách đóng gáy bằng chỉ, vẫn là in từng tờ một, hoàn toàn bằng thủ công, dùng giấy Mao Biên để in ấn. Một người làm việc một ngày, tôi có đi tham quan rồi. Tôi hỏi, anh có thể in bao nhiêu bản? Anh ta nói in được khoảng tám bản. Tám bản đó không có dày bằng bản này. Sách đóng gáy bằng chỉ, quý vị biết, một ngày có thể làm được khoảng chừng tám bản. Đâu có thuận tiện giống như máy móc hiện nay? Hiện nay số sách chúng ta lưu truyền đều là dùng con số một vạn cuốn làm tiêu chuẩn. Mỗi một lần in ít nhất là một vạn cuốn, thuận tiện hơn trước đây quá nhiều. Hiện nay diễn giảng có thể lưu vào băng ghi hình, băng ghi âm, có thể làm thành băng CD cũng là lưu truyền khắp thế gian. Đức Phật căn dặn Bồ Tát Quán Thế Âm lưu truyền, sau khi chúng ta nghe xong cần phải nỗ lực hơn nữa. Nội dung mà bộ kinh điển này nói, thật sự là có thể cứu vãn kiếp vận trong chín nghìn năm thời Mạt Pháp, nó vô cùng quan trọng. Chín nghìn năm thời Mạt Pháp, chúng ta đọc thấy ở trong kinh này, sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ, Ngài đem sứ mệnh hoằng pháp lợi sinh ủy thác cho Bồ Tát Địa Tạng. Ý nghĩa này tức là chứng tỏ, thời kỳ Mạt Pháp có thể cứu vãn kiếp vận, độ tất cả chúng sanh, khiến cho tất cả chúng sanh không đến nỗi bị đọa lạc vào ác đạo chính là phương pháp này, là phải dựa vào bộ kinh điển này. “Lệnh Ta Bà thế giới chúng sanh, bách thiên kiếp vĩnh thọ an lạc” (Làm cho chúng sanh trong cõi Ta Bà đây mãi đến trăm nghìn kiếp được hưởng những sự an vui luôn’.) Là hiệu quả của việc lưu truyền rộng khắp kinh này. Hoằng pháp lợi sinh quan trọng nhất là phải khế lý, khế cơ. Bộ kinh này là lời giáo huấn được lưu xuất ra từ trong chân như tự tánh của đức Thế Tôn. Không những là Đại Thừa, chúng ta hãy quan sát thật kỹ, nó đích thực là Đại Thừa trong Đại Thừa, nó không có khác gì so với “Hoa Nghiêm” và “Kinh Vô Lượng Thọ”, thật sự là một thể, đây là khế lý. Nhưng cảnh giới và phương pháp tu học mà trong kinh nói là càng khế hợp với căn cơ chúng sanh thời kỳ Mạt Pháp. Cho nên ở thời kỳ Mạt Pháp, chúng ta tu học dùng bộ kinh nào làm chủ để tu, để chúng ta cả đời chuyên hoằng, đây là điều tự mình phải biết rõ, phải sáng tỏ. Đoạn này là văn Trường Hàng, trong phẩm kinh này phía sau có phần Trùng Tụng. Ý nghĩa của Trùng Tụng có hai loại; một loại là lúc đức Phật giảng kinh thuyết pháp, thính chúng có người đến trước đến sau. Không phải giống như trường học, đến giờ là học trò đều vào lớp học cả. Đức Phật giảng kinh không phải là lên lớp học, có người đến trước, người đến sau. Người đến trước nghe được phần trước, người đến sau không có nghe được phần trước. Nếu như có lời khai thị rất quan trọng, thì đức Phật nhất định không cô phụ những thính chúng đến sau này, Ngài phải nói lại đơn giản vắn tắt một lần nữa ý nghĩa đã nói ở phía trước, đây là quan tâm người đến sau. Một ý nghĩa khác nữa là, kệ tụng thuận tiện cho việc ghi nhớ. Phía trước nói rất nhiều, sợ thính chúng không thể nhớ hết, cho nên dùng cách thức kệ tụng nói lại một lần nữa, thuận tiện cho mọi người dễ nhớ. Nếu như không nhớ, thì bạn sẽ không cách gì làm được. Cho nên đối với lời giáo huấn của đức Phật, chúng ta thường xuyên đọc tụng, tức là phải nhớ kỹ nó, để ở trong đời sống thường ngày, khởi tâm động niệm liền có thể nhớ được lời giáo huấn của đức Phật, xem ý nghĩ này của ta, câu nói này của ta, sự việc này của ta có nên làm hay không? Tất cả đều lấy kinh giáo làm tiêu chuẩn, vậy gọi là tu hành đúng như pháp, y giáo phụng hành, dụng ý của kệ tụng là ở chỗ này. Mời xem kinh văn:
“Nhĩ thời Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn:
“Ngô quán Địa Tạng oai thần lực.
Hằng Hà sa kiếp thuyết nan tận.
Kiến văn chiêm lễ nhất niệm gian.
Lợi ích nhân thiên vô lượng sự.”
(Bấy giờ đức Thế-Tôn liền nói kệ rằng:
“Ta xem Địa Tạng sức oai thần.
Kiếp số Hằng-sa khó tỏ trần,
Thấy nghe một niệm chiêm ngưỡng lễ,
Trời, người lợi ích sự không ngằn.”)
Đây là bài thứ nhất. Bài thứ nhất đây là khen ngợi chung, khen ngợi công đức oai thần của Bồ Tát Địa Tạng là không thể nghĩ bàn. “Ngô quán”, “Ngô” là Thế Tôn tự xưng, đây là dùng mắt Phật để nhìn, chứ không phải người bình thường. Những gì đức Phật nhìn thấy, nhìn thấy sức oai thần của Bồ Tát Địa Tạng, oai đức của Ngài, thần thông của Ngài, giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn trong hư không pháp giới. Hiện nay trong thế gian này chúng sanh gặp tai nạn rất nhiều, Bồ Tát Địa Tạng có giúp đỡ hay không? Sức oai thần của Bồ Tát Địa Tạng được hiển hiện như thế nào? Chúng ta phải biết sức oai thần của Bồ Tát Địa Tạng quả thật là hiển hiện ngay trước mắt chúng ta, mà bản thân chúng ta không nhìn thấy. Chúng ta không hiểu, chúng ta không tin, chúng ta không chịu vâng làm. Bồ Tát Địa Tạng dù nói với chúng ta cũng vô ích. Sức oai thần của Ngài là gì? Chính là “Địa Tạng Tam Kinh”. Đạo lý, phương pháp và hiệu quả mà trong kinh điển nói chính là sức oai thần của Địa Tạng. Tất cả chúng sanh, phần trước pháp sư Thanh Liên nói chúng sanh trong chín pháp giới. Bạn có thể đọc tụng, bạn có thể nhớ nghĩ, có thể y giáo phụng hành, thì không có người nào không được lợi ích. “Hằng-hà sa kiếp thuyết nan tận” (Dầu nói đến Hằng-hà sa kiếp cũng không hết được) Đây là lời đức Phật nói, dù Phật nói cũng không thể nói hết. Phần trước nói, trăm nghìn muôn kiếp, hằng hà sa kiếp nói cũng không hết được.
“Kiến văn chiêm lễ nhất niệm gian,
Lợi ích nhân thiên vô lượng sự.”
(Thấy nghe một niệm chiêm ngưỡng lễ.
Trời, người lợi ích sự không ngằn.)
Đây là nêu ra một ví dụ. Bạn nhìn thấy hình tượng Bồ Tát Địa Tạng, nghe thấy danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, cho dù chỉ trong khoảng một niệm, trong khoảng một niệm này có lợi ích không? Có. Đã gieo hạt giống vào trong a-lại-da-thức rồi. Nhưng lợi ích này hiện nay không thể hiện hành, không thể thành hiện thực, nhưng hạt giống Kim Cang đã gieo xuống rồi. Không chừng vào đời sau, đời sau nữa gặp được duyên có thể tin, có thể hiểu, có thể hành, thì việc lợi ích đó sẽ thành hiện thực. Là giống như câu chuyện trong “Kinh Pháp Hoa” mà đức Phật kể, trong kiếp lâu xa trước đây có một người tiều phu, đi chặt củi ở trên núi, gặp phải một con hổ muốn ăn thịt ông, ông leo lên cây, đã hết lên một tiếng “Nam Mô Phật”, là chuyện ở kiếp lâu xa trước đây. Khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, thì người này cũng có được thân người vào thời điểm này, gặp được Phật pháp, muốn xuất gia với đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo những vị đại đệ tử này của Ngài đến xem thử người này có thể xuất gia hay không? Xuất gia phải có thiện căn. Đệ tử của Phật đều là A La Hán, đều có thần thông có thể quan sát được quá khứ năm trăm đời. Mọi người đều nói người này không thể xuất gia được. Quá khứ năm trăm đời đều không có gieo trồng thiện căn, không có duyên với đức Phật. Đức Phật mới nói vô lượng kiếp về trước, ông đã niệm một tiếng “Nam Mô Phật”. Chỉ một câu Nam Mô Phật này, nên đời này có thể xuất gia ở chỗ của ta. Sau đó ông chứng quả A La Hán. Đây chính là “Lợi ích nhân thiên vô lượng sự” (Trời, người lợi ích sự không ngằn.) Cho nên người thế gian tuy hiện nay vẫn phải bị gặp tai nạn lớn. Phật, Bồ Tát thật sự có tâm từ bi, khiến cho họ nhìn thấy tượng Phật, nghe thấy danh hiệu Phật Bồ Tát, gieo thiện căn cho họ, về sau chắc chắn được độ. Nếu như họ có thiện căn, giống như phần trước nói kẻ thiện nam, người thiện nữ, đó là người rất dễ được độ, rất có thể trong đời này họ được tiêu tai miễn nạn, là có thể niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ. Vãng sanh Tịnh Độ tức là đi làm Phật, vậy thì còn gì thù thắng bằng. Họ đi làm Phật. Xem tiếp bài thứ hai, bài thứ hai là “Chuyển suy tướng” (Chuyển tướng suy):
“Nhược nam nhược nữ nhược long thần.
Báo tận ưng đương đọa ác đạo.
Chí tâm quy y Đại Sĩ thân.
Thọ mạng chuyển tăng trừ tội chướng”
(Hoặc Rồng hoặc Thần cùng nam-nữ
Báo tận sẽ sa vào đường dữ,
Chí tâm qui mạng Đại Sĩ thân,
Tuổi thọ thêm nhiều trừ tội dữ.)
Câu thứ nhất là nói rõ chúng sanh trong chín pháp giới, phạm vi nó bao gồm rộng vô cùng. Người nam nữ ở nhân gian, long thần, cõi trời, đây là chỉ lục đạo, chỉ chung cho tất cả chúng sanh trong lục đạo.
“Báo tận ưng đương đọa ác đạo.”
(Báo tận sẽ sa vào đường dữ.)
Tuổi thọ đời này hết rồi, nếu có tạo tác những ác nghiệp này, thì họ phải đọa ác đạo.
“Chí tâm quy y Đại Sĩ thân”
(Chí tâm qui mạng Đại Sĩ thân.)
Quan trọng là bốn chữ “Chí tâm quy y” này. Dùng tâm chân thành. Quy là quay đầu. Đoạn dứt tất cả ác là quy. Tu tất cả thiện là y. Dựa theo lời chỉ dạy của Bồ Tát mà tu tất cả thiện. Quy y tuyệt đối không phải là mời một vị pháp sư, cúi lạy vài cái trước hình tượng Phật Bồ Tát, tụng bài kệ quy y cho bạn, trao cho bạn tờ chứng điệp quy y, là bạn đã quy y rồi. Đâu có chuyện dễ dàng như vậy được? Bạn phải hiểu được cái lý này. Quy y nói thực ra chính là quay đầu là bờ, bạn thật sự quay đầu y giáo tu hành. Ý nghĩ trong tâm bạn chuyển đổi rồi, thì cảnh giới cũng sẽ chuyển đổi. Cảnh chuyển theo tâm, tuổi thọ có thể kéo dài, tội nghiệp được tiêu trừ, chuyển họa thành phúc. Bài kệ này là chuyển tướng suy. Xem tiếp, dưới đây còn ba bài. Đây là “Tụng thị sanh giới”.
“Thiếu thất phụ mẫu ân ái giả.
Vị tri hồn thần tại hà thú,
Huynh đệ tỷ muội cập chư thân,
Sanh trưởng dĩ lai giai bất thức.”
(Trẻ thơ chết mất mẹ cùng cha,
Huynh đệ chị em kẻ ruột rà,
Lớn khôn nghĩ đến đều không biết,
Nẻo dữ đường lành ở đâu là?)
Bài kệ này nói rõ những việc mà bạn nhớ nghĩ này, người thân quyến thuộc của bạn, họ đã qua đời khi bạn còn rất nhỏ. Sau khi bạn lớn khôn thường hay nhớ nghĩ về họ, không biết hình dáng, dung mạo của họ. Nhưng chung quy đây là có tình thân, khiến cho bạn thường hay nhớ nghĩ. Có thể thấy lòng người đó nhân hậu. Người hiện nay tương đối ít, họ chỉ ham muốn hưởng thụ trước mắt, còn những ân tình này đều quên hết sạch sẽ. Gọi là “Quên ơn bội nghĩa”. Người tạo tác tội nghiệp quên ơn bội nghĩa, quả báo cũng ở Tam Đồ, phần lớn là ở đường súc sanh. Đây là loại chúng sanh biết ơn báo ơn, ân tình sâu dày này. Bài kệ dưới đây, đây là chỉ dạy họ phương pháp tu học.
“Hoặc tố hoặc họa Đại Sĩ thân.
Bi luyến chiêm lễ bất tạm xả.”
(Hoặc vẽ, hoặc tô Đại Sĩ hình
Cảm thương chiêm lễ biệt chẳng đành)
Tức là sau khi đắp nặn, thêu vẽ hình tượng Bồ Tát, bạn cúng dường hình tượng Bồ Tát, mỗi ngày lễ bái, chiêm ngưỡng liên tục không gián đoạn.
“Tam thất nhật trung niệm kỳ danh.
Bồ Tát đương hiện vô biên thân.”
(Hăm mốt ngày luôn niệm danh hiệu
Bồ-tát hiện thân đến bên mình.)
Nếu cảm chân thành thì Phật Bồ Tát liền có ứng. Đây là nói rõ tam thất nhật trung, là trong hai mươi mốt ngày, chí thành mà tu, thì nhất định được Bồ Tát cảm ứng. Nếu như trong hai mươi mốt ngày Bồ Tát không hiện thân, là do bạn không đủ thành ý. Chúng ta thường hay xem thấy trong sách xưa, tế tự thời cổ đại, quý vị đọc ở trong “Luận Ngữ” sẽ thấy câu: “Tế thần như thần tại” (Cúng tế thần giống như thần đang hiện diện”. Thần còn gọi họ là quỷ thần. Quỷ thần là chỉ những ai vậy? Chỉ tổ tiên của mình. Khi cúng tế tổ tiên, người chủ tế thời xưa gọi là trai công. Chủ tế gọi là trai công. Bởi vì họ phải tu trai giới. Trai giới ba ngày. Ba ngày, căn phòng mà trai công ở là giống như nhập thất trong nhà Phật chúng ta vậy, giống như đóng cửa, đóng cửa ba ngày, trai giới tắm gội. Ba ngày này không tiếp xúc với bất kỳ người nào, ăn uống có người nhà đem cho họ. Ba ngày này họ làm gì? Ba ngày để chuyên tưởng nhớ từng cử chỉ hành động, từng lời nói nụ cười tổ tiên lúc đang còn ở sống, chuyên tưởng nhớ. Trong lúc cúng tế, tưởng nhớ khiến tổ tiên hiện về. Lúc cúng tế thật sự có lúc giống như nhìn thấy hình ảnh của tổ tiên, nghe thấy âm thanh ho của tổ tiên. Vậy là cảm ứng rồi. Bạn không có chí thành làm sao họ có cảm ứng được? Trong lễ xưa, cúng tế là phải trai giới ba ngày. Ở đây là hai mươi mốt ngày. Chí tâm chiêm lễ trong thời gian dài như vậy thì đâu có lý nào không cảm động? Cho nên Bồ Tát nhất định hiện thân. Chúng sanh có cảm, thì Phật, Bồ Tát nhất định có ứng. Khi Ngài hiện thân, Ngài sẽ nói cho bạn biết:
“Thị kỳ quyến thuộc sở sanh giới”
(Chỉ rành quyến thuộc ở nơi nào.)
Chỉ rõ, nói cho bạn biết người thân quyến thuộc mà bạn nhớ nghĩ hiện nay ở nơi nào? Họ hiện nay đang ở cõi nào trong mười pháp giới?
“Túng đọa ác thú tầm xuất ly.”
(Dầu sa ác thú cũng ra mau.)
Mặc dù họ đọa vào ác đạo, mà người thân quyến thuộc có thể tu học cho họ như vậy, đem công đức tu hành hồi hướng cho họ, cảm ứng Bồ Tát Địa Tạng hiện thân, họ liền có thể thoát khỏi ác đạo. Đây là đạo lý gì? Quý vị có thể nghĩ ra không? Về phạm vi chúng ta đừng nên nói rộng, tình thật giữa con người với nhau. Một người nếu qua đời rồi, thế gian vẫn có người nhớ nghĩ đến bạn, nhớ nghĩ đến bạn trong thời gian dài, là đời này bạn không có sống vô ích rồi. Nếu như sau khi bạn đi rồi mà không có ai nhớ đến bạn, là đời này bạn sống vô ích rồi. Bạn có thể khiến người ta nhớ nghĩ đến bạn, tóm lại là bạn có điểm gì đó đáng để người ta nhớ nghĩ. Nếu bạn không phải thật tâm đối với người ta, thì sao người ta nhớ nghĩ đến bạn được? Là không thể. Nên việc tích lũy công đức là rất quan trọng. Người thân quyến thuộc, nếu bạn không phải rất yêu thương, rất quan tâm đối với con cái, anh chị em của mình, thì họ cũng sẽ không nhớ nghĩ đến bạn. Hiện nay chúng ta xem thấy trên mặt báo, có rất nhiều thanh thiếu niên, nếu hỏi về cha của họ. Họ trả lời tôi không yêu cha tôi, tôi ghét cha tôi. Con cái như vậy thì ra thể thống gì? Là vấn đề lớn của xã hội, chúng ta thường hay xem thấy trên mặt báo. Tại sao khiến cho con cái sinh phản cảm đối với cha mẹ? Vì làm cha mẹ không có chăm sóc con cái. Có lẽ là quá bận rộn với sự nghiệp của mình, có rất nhiều người giao con cái cho người giúp việc chăm sóc, nên nó cảm kích người giúp việc, nó ghét cha mẹ của mình, không thích cha mẹ của mình, vì người giúp việc chăm sóc cho nó mà. Đây là điểm đáng để chúng ta soi lại thật kỹ. Cho nên con người ở thế gian cần phải thi ơn đức đối với mọi người, đối với tất cả chúng sanh. Tại sao Phật, Bồ Tát có thể khiến cho người ta tôn kính? Do công đức bố thí, ơn đức bố thí. Cho nên có con cái hiếu thảo, tưởng nhớ cha mẹ, tu phước cho cha mẹ, y giáo phụng hành. Giống như Bà-La-Môn nữ, Quang Mục nữ mà phần trước đã nói. Cho dù người thân đọa vào địa ngục cũng có thể thoát ra được. Điều này phần trước có ví dụ rồi.
“Túng đọa ác thú tầm xuất ly.
Nhược năng bất thoái thị sơ tâm,
Tức hoạch ma đảnh thọ thánh ký.”
(Dầu sa ác thú cũng ra mau,
Nếu được không lui lòng kính ngưỡng,
Thánh ký, Bồ-tát vuốt đầu trao.)
Vậy là tốt! Bạn trong hai mươi mốt ngày, cảm thương chiêm lễ không muốn rời. Nếu như có thể duy trì được mãi mãi, vậy thì đời này bạn có thể thành Phật rồi. Đây là gì? Chân thành cung kính đến cực điểm. Cái tâm này thật đáng quý, tâm này cảm động chư Phật, Bồ Tát. Nếu như loại tâm này vĩnh viễn không thối chuyển, y giáo tu hành thì đâu có lý nào không chứng quả? Cho nên câu này là nói: “Hiện báo thọ ký” (thọ ký ngay hiện đời). Thật sự là người sống và người đã mất đều có lợi. Bồ Tát đến xoa đảnh thọ ký cho bạn. Thọ ký là giống như lời tiên đoán hiện nay vậy. Nói cho bạn biết, đến khi nào bạn có thể chứng quả, bạn đạt được thành tựu như thế nào? Việc này là việc đại sự nhân duyên ở trong tu học Phật pháp. Cho nên bộ kinh này, chúng tôi cũng hy vọng đồng tu thật sự phát tâm chuyên tu, chuyên hoằng. Nhưng nhất định phải nhớ kỹ, sau cùng nhất định phải dẫn về Cực Lạc, mới là đại viên mãn. Nếu không thì chỉ được phước báo trời người mà thôi. Đương nhiên lấy việc được phước báo trời người làm bước khởi đầu. Bước khởi đầu khiến cho họ được phước báo trời người, sau đó tiến thêm một bước nữa là khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, vậy mới thật sự là đại viên mãn.
Được rồi, hôm nay chỉ giảng đến đây. A Di Đà Phật.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.