KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 49
Mời mở bản kinh ra, phần khoa chú quyển trung, trang 62.
“Năng ư thị thập trai nhật, đối Phật Bồ-tát chư hiền thánh tượng tiền, độc thị kinh nhất biến. Đông Tây Nam Bắc bách do-tuần nội, vô chư tai nạn, đương thử cư gia nhược trưởng nhược ấu, hiện tại vị lai bách thiên tuế trung vĩnh ly ác thú”
(Về đời sau, nếu có chúng sanh nào trong mười ngày trai kể trên đây, mà có thể đối trước hình tượng của chư Phật, Bồ-tát, hiền, thánh để đọc tụng kinh này một biến, thời chung quanh chỗ người đó ở bốn hướng Đông, Tây, Nam Bắc, trong khoảng một trăm do-tuần không có xảy ra những việc tai nạn. Còn chính nhà của người đó ở, tất cả mọi người hoặc già, hoặc trẻ về hiện tại và vị lai đến trăm nghìn năm xa khỏi hẳn các ác đạo.)
Chỗ này là nói thật sự được uy lực của chư Phật Bồ-tát gia trì, nơi mà người tu hành này sống trong khoảng một trăm do-tuần. Theo cách nói của Ấn Độ xưa, phạm vi của một trăm do-tuần là rất lớn. Một do-tuần là 40 dặm. Trăm do-tuần là bốn nghìn dặm, như thế phạm vi này lớn biết bao. Tu hành ở Singapore, hầu như toàn bộ Trung Quốc đại lục đều bao gồm ở trong đó, bốn nghìn dặm, có sức mạnh lớn như vậy. Quý vị nên biết, chân tu mới có sức mạnh này. Nếu như không phải làm thật, thì khoảng cách 40 thước cũng không thể được, chứ đừng nói bốn trăm do-tuần, đây là sự thật, nhất định phải hiểu rõ đạo lý này. Nói thực ra người hiện nay dễ dàng lý giải đạo lý này hơn người xưa. Người xưa đọc đoạn kinh này, họ có thể hiểu được, có thể tin được, thật sự là chúng ta không thể không khâm phục, thiện căn phước đức của họ sâu dày. Bởi vì thời xưa không có cách gì giải thích cho thật tường tận được, lại không thể tìm được chứng cứ. Hiện nay chúng ta có khoa học kỹ thuật tiến bộ, dùng những phương pháp khoa học này chứng minh, sẽ dễ hiểu hơn nhiều so với trước đây. Đạo lý này ở phần trước đã từng nói qua với quý vị rồi, hy vọng mọi người hãy tư duy cho thật kỹ. Đạo lý đích thực chính là nhà khoa học hiện nay của chúng ta gọi là hiện tượng của sóng. Phần trước đã từng nói qua với quý vị rồi, hễ là có vật chất thì sẽ sinh ra hiện tượng sóng. Nhưng tất cả sóng do vật chất sinh ra, sóng đó của nó là ôn hòa. Toàn bộ vật chất, chúng ta gọi là thực vật, động vật, sóng này là rất ôn hòa, rất bình thường, biên độ dao động của sóng không quá lớn, nó ở trong phạm vi nhất định, bởi vì nó vĩnh viễn duy trì ở trạng thái này. Tuy trạng thái này có biến đổi, nhưng nó biến đổi rất yếu ớt. Đây là chứng tỏ hiện tượng sóng này của nó là một loại hiện tượng bình thường. Nhà khoa học hiện đại đã nhận biết rõ ràng, hoàn toàn không có vật chất tồn tại. Vật chất là gì? Vật chất thực ra là hiện tượng của sóng. Sự nhận biết này thật tuyệt vời, nó rất gần với Phật pháp nói. Phật pháp nói vũ trụ, chúng sanh hình thành như thế nào? Thập pháp giới y chánh trang nghiêm từ đâu mà có? Từ vô minh mà có. Vô minh bất giác sanh tam tế, cảnh giới vi duyên trưởng lục thô. Có thể thấy vô minh chính là hiện tượng của sóng. Vậy là thật sự tìm ra được đầu nguồn của thập pháp giới y chánh trang nghiêm rồi, đâu có sự thật tồn tại? Chúng ta cảm thấy có sự thật tồn tại, đây là tướng tương tục của sóng. Trong “Kinh Kim Cang” nói: “Như sương như điện chớp”. Sương là tướng tương tục. Điện là tướng sinh diệt theo từng sát-na. Sát-na sinh diệt nói thực ra chính là bất sanh bất diệt, sinh diệt đồng thời. Hiện tượng của sóng là sinh diệt đồng thời, cho nên Phật nói là bất sanh bất diệt. Chúng ta phải thể hội cho được bất sanh bất diệt không phải thật sự là bất sanh bất diệt. Thật sự bất sanh bất diệt, thì nói bất sanh bất diệt sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả. Nó thật sự là sinh diệt. Sinh diệt tại sao nói nó là bất sanh bất diệt? Vì đồng thời, sinh diệt đồng thời. Đức Phật ở trong kinh dùng tia chớp để làm ví dụ, là nói tốc độ của nó quá nhanh. Vấn đề này sau này chúng ta ở trong “Kinh Hoa Nghiêm” sẽ giải thích rõ tường tận. Nhưng sóng của chúng sanh hữu tình phát ra mạnh hơn không biết gấp bao nhiêu lần so với sóng của thực vật. Chúng ta đọc thấy ở trong kinh, đức Phật nói “Y báo chuyển theo chánh báo”, câu nói này rất khó hiểu. Y báo là môi trường vật chất của chúng ta, môi trường sống của chúng ta. Đức Phật nói môi trường sống là đang chuyển đổi theo tâm của bạn, chuyển đổi theo ý nghĩ của bạn, rất khó hiểu. Trong “Kinh Lăng Nghiêm” lại nói: “Nếu chuyển được cảnh thì đồng với Như-lai”. Chuyển cảnh là môi trường vật chất có thể tùy theo ý muốn của bạn. Đức Phật nói như vậy bạn là cùng với cảnh giới của chư Phật Như-lai rồi. Khi chúng ta đọc thấy những lời này trong kinh, quả thật rất mê hoặc. Thực ra chúng ta dùng khoa học để chứng minh, sẽ rất dễ hiểu. Ngày nay nói chúng ta dùng sóng điện để làm ví dụ, hiện tượng nhiễu sóng điện. Tất cả vật chất phát ra sóng yếu hay dịu dàng, còn sóng của tư tưởng chúng ta phát ra rất mạnh mẽ, biên độ dao động lớn. Sóng này có thể nhiễu sóng của vật chất, sóng này của chúng ta phát ra mạnh, sẽ trùm qua cả vật chất, như vậy thì có thể làm thay đổi kết cấu của vật chất. Kết cấu vật lý là sinh ra từ sóng, bạn chỉ cần thay đổi được sóng của nó, thì kết cấu vật chất, thậm chí là kết cấu của tinh cầu cũng sẽ thay đổi, quỹ đạo vận hành của tinh cầu trong không gian cũng sẽ thay đổi, có thể sinh ra làn sóng lớn như vậy. Sóng của tất cả chúng sanh hữu tình có thiện, có ác, có vô ký chia thành ba loại như vậy. Sóng của tính vô ký có thể kết thành một khối với sóng của tất cả vật chất, nó vô cùng bình hòa. Đây là nhất chân pháp giới của chư Phật Như-lai. Sóng của tất cả chúng sanh trong thập pháp giới có thiện, có ác, cho nên tạo nên sự biến đổi hiện tượng vật chất cực lớn. Chính bởi vì đạo lý này, vì chân tướng sự thật này, mà cổ thánh tiên hiền đặc biệt nhấn mạnh việc giáo dục đối với tất cả chúng sanh. Giáo dục nhà Phật nói thấu triệt nhất, nói với chúng ta quan hệ giữa người với người, quan hệ giữa người với tất cả chúng sanh hữu tình, quan hệ giữa người với tất cả động vật, quan hệ với thực vật, quan hệ với khoáng vật, quan hệ với thiên nhiên, cuối cùng siêu việt hơn nữa là quan hệ với trời đất quỉ thần, với nhất chân pháp giới. Trong Phật giáo là nói những sự việc này, bạn đều hiểu rõ, đều thông đạt rồi, sau đó biết tất cả chúng sanh trong hư không pháp giới với mình là một thể, là một không phải hai. Đã là một thể thì đâu có lý nào không có quan hệ? Trên cơ thể chúng ta, bất kỳ tế bào nào xảy ra vấn đề cũng sẽ cảm thấy toàn thân không thoải mái, nó không phải khu trú một chỗ. Một cây kim rất nhỏ chích vào một bộ phận nào bất kỳ trên da chúng ta, thì toàn thân đều cảm nhận được. Cùng một đạo lý giống nhau, chúng ta khởi tâm động niệm thì tận hư không khắp pháp giới đều có cảm nhận. Tại sao chúng ta không cảm nhận được? Cơ thể chúng ta hiện nay bị tê liệt rồi. Đừng nói khi kim châm vào bạn không biết, mà khi bị dao cắt bạn cũng chẳng hay, tê liệt rồi. Tê liệt chính là mê. Mê chứ không giác, tê liệt rồi. Cơ thể của chư Phật Bồ-tát khỏe mạnh bình thường. Các Ngài luôn ở trạng thái sáng suốt, cho nên hơi có một chút xíu đau nhức là các Ngài thảy đều biết. Vì vậy chư Phật Bồ-tát là người khỏe mạnh, người bình thường. Chúng ta là người không bình thường, là người bị tê liệt. Chúng tôi dùng loại ví dụ này thì quý vị sẽ tương đối dễ hiểu, sau đó bạn sẽ khẳng định và thật sự y giáo tu hành. Sóng này nó có sức mạnh lớn như vậy, tức là ở trong khoảng cách này, sóng của bạn sẽ rất mạnh, ở trong phạm vi này nó có thể trùm qua cả sóng không bình thường, sóng của bạn áp đảo được nó, có thể quấy nhiễu nó, nó không thể quấy nhiễu được bạn. Vì sóng này của bạn là thiện, là tốt, nên mặc dù nơi đó là có ác, sóng ác chiêu cảm nên tai nạn. Sóng thiện này của bạn mạnh hơn sóng ác đó của họ, nên có thể hóa giải được tai nạn của họ, khiến cho tai nạn của họ không khởi hiện hành, đạo lý nó là như vậy. Cho nên tu hành phải nghiêm túc, phải dùng tâm chân thành, lực này rất mạnh mẽ. Tâm người thế gian dùng là vọng tâm, chúng ta dùng chân tâm, dùng chân tâm là vô cùng vô cùng đáng quý. Bạn dùng chân tâm thì sức mạnh sẽ rất lớn. Bởi vì tâm mà tất cả chư Phật Bồ-tát dùng là chân tâm. Tâm này của bạn giống như tâm của các Ngài. Hay nói cách khác, tần số dao động của bạn giống nhau, sẽ tiếp thông được với các Ngài. Tiếp thông ở trong Phật pháp chúng ta gọi là gia trì, người thế gian gọi là phù hộ. Tần số của bạn giống với các Ngài mới có thể tiếp thông được, vậy mới nhận được sự gia trì, nhận được sự phù hộ. Tần số của chúng ta khác với tần số của các Ngài, thì làm thế nào cũng không thể tạo nên cảm ứng được. Dù có tạo nên cảm ứng cũng chỉ dính một chút ở ngoài rìa, được một chút xíu ảnh hưởng, chứ không có tiếp thông trực tiếp được. Những sự việc này dùng sóng điện để nói, thì quý vị sẽ rất dễ dàng thể hội. Chân tâm thì quyết định không có vọng tưởng. Kinh luận Đại Tiểu Thừa, đức Phật đã hết lòng đắng miệng, dùng muôn ngàn lời nói, vô số lần khuyên chúng ta phải đoạn trừ vọng tưởng, nhất định phải bắt tay làm từ đoạn phiền não. Trong vọng tưởng, chấp ngã là vọng tưởng căn bản nhất, chấp trước cái thân này là ta, đây là gốc của vọng tưởng. Như thế phải tu cái gì? Thân không phải ta, thì cái gì là ta? Ta có chứ không phải không có, tận hư không khắp pháp giới là ta. Đức Phật nói lời này mọi người không tin. Không những người bình thường nghe xong không tin, mà người xuất gia, học Phật học cả đời, học đến già chết họ vẫn không tin. Nếu như họ tin họ đã thành Phật rồi. Tại sao họ không thể thành Phật được vậy? Vì họ không tin. Tại sao nói tin thì họ đã thành Phật rồi? Vì tin thì họ sẽ chứng được pháp thân thanh tịnh. Pháp thân thanh tịnh, tận hư không khắp pháp giới là một thân. Thân này gọi là thể, một thể. Quý vị thường hay nghe thấy trong Phật pháp nói: “Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi.” Giảng chữ đồng thể như thế nào? Hư không pháp giới với mình là cùng một thể, chính là mình. Trong Thiền Tông nói: “Mặt mũi xưa nay trước khi cha mẹ chưa sinh”. Mặt mũi xưa nay là gì? Chính là pháp thân thanh tịnh. Pháp thân đâu có sinh diệt? Pháp thân không có tướng, nhưng có thể hiện tất cả tướng. Chư Phật Bồ-tát không có thân, nhưng có thể hiện tất cả thân. Chúng ta hiểu rõ rồi, phải làm thật mới được, đây mới là mình đích thực. Cho nên Phật pháp học đến cuối cùng, là làm việc gì vậy? Khôi phục mặt mũi xưa nay của mình mà thôi. Ngoài việc này ra thì chẳng có được gì cả. Đúng như lời trong hội Lăng Nghiêm nói: “Viên mãn Bồ đề, cuối cùng không có gì để được” chỉ là khôi phục mặt mũi xưa nay của chính bạn mà thôi, đây là thật chứ không phải giả. Cho nên khế nhập cảnh giới này, bạn nhìn thấy chúng sanh được vui là mình được vui, chúng sanh thọ khổ chính là mình thọ khổ. Tâm từ bi đó không phải miễn cưỡng, nó sinh ra một cách rất tự nhiên. Tại sao vậy? Hư không pháp giới với mình là một thể, tuyệt đối không có khác biệt. Đây là trong đoạn kinh văn này, tôi bổ sung một chút ý nghĩa này, hy vọng quý vị đồng tu nghiêm túc nghiền ngẫm, thể hội cho thật kỹ. Đời này thể nhập được cảnh giới của Phật, là rất may! Đây cũng là sự kỳ vọng của chư Phật Bồ-tát đối với chúng ta. Cho nên kinh điển chúng ta phải có niềm tin, tin được, hiểu được, thật sự có thể hiểu được, cuối cùng phải thực hành. Phải biến kinh điển thành tư tưởng, kiến giải, hành vi của mình, kinh điển chính là mình, mình chính là kinh điển. Đây gọi là tu hành chứng quả. Xem tiếp đoạn kinh văn dưới đây:
“Năng ư thập trai nhật mỗi chuyển nhất biến, hiện thế lệnh thử cư gia vô chư hoạnh bệnh, y thực phong ích.”
(Trong mười ngày trên đây nếu có thể mỗi ngày tụng một biến kinh này, thời trong đời hiện tại hay làm cho người trong nhà không phải mắc phải bịnh tật bất ngờ, đồ ăn mặc dư dật)
“Thích Hiện Thế Phước Lợi” ở trong Khoa Đề nhỏ. Chữ thích là giải thích. Hiện nay bạn có được phước, có được sự lợi ích. Chúng ta thấy chỗ này khác với phía trước chỉ có một chữ. Phía trước nói “Độc thị kinh”, chỗ này nói “Chuyển nhất biến”, phía trước dùng chữ “độc”, chỗ này dùng chữ “chuyển”. Chỗ này không có dùng chữ độc, không phải nói “Năng ư thập trai nhật mỗi độc nhất biến.” Thế nào gọi là chuyển? Khác biệt giữa độc và chuyển ở chỗ nào? Độc là nói từ trên nhân, nói từ trên tu nhân. Chuyển là nói từ trên quả. Sau khi bạn đọc rồi thì ý nghĩ của bạn sẽ chuyển đổi, tư tưởng của bạn chuyển đổi, hành vi của bạn chuyển đổi. Vừa chuyển đổi vậy thì tai nạn sẽ chuyển đổi thành phước. Nếu như bạn học Phật mà không chuyển trở lại được, thì tai nạn bạn vẫn cứ xảy ra, bạn vẫn phải thọ tai nạn. Chữ này là chữ mấu chốt ở chỗ này. Chuyển phải chuyển từ trên tâm, chuyển từ trên hành vi, ý nghĩa này rất sâu. Cho nên đọc tụng nhất định phải hiểu nghĩa. Tại sao phải giảng giải kinh này? Phật Thích Ca Mâu Ni năm xưa còn tại thế, giảng kinh thuyết pháp 49 năm Phải giảng rõ ràng, giảng minh bạch, để cho người nghe giác ngộ, hiểu rõ. Sau khi hiểu rõ rồi, thì tư tưởng, quan niệm, hành vi của họ sẽ chuyển trở lại, chuyển ác thành thiện, chuyển ô nhiễm thành trong sạch. Vừa chuyển trên nhân thì đương nhiên trên quả liền chuyển ngay. Đây chính là nếu chuyển được cảnh thì đồng với Như-lai. Bắt đầu chuyển cảnh từ đâu vậy? Chuyển cảnh từ trên tâm. Hiện nay nói là sóng tư tưởng của chúng ta, hãy chuyển từ trên sóng tư tưởng. Trước đây tư tưởng của chúng ta đều là tự tư tự lợi, đều là tham sân si mạn, đều là hại người lợi mình, đều là loại sóng này. Hiện nay sóng này của chúng ta chuyển đổi rồi, chúng ta khởi tâm động niệm vì lợi ích chúng sanh, xả mình vì người, sóng phát ra đều là đại từ đại bi, thanh tịnh vô nhiễm, thì sao họ không chuyển hoàn cảnh cho được? Cảnh giới vốn dĩ không có thiện ác, vốn dĩ là thanh tịnh. Nói lời thành thật, vốn dĩ là Tịnh Độ. Tại sao Tịnh Độ lại biến thành ngũ trược ác thế? Là do ý nghĩ ác của chúng ta làm thay đổi hoàn cảnh, đây là đạo lý mà đức Phật dạy cho chúng ta. Chúng ta càng suy nghĩ lời của đức Phật dạy thấy thật sự càng có lý. Bản thân chúng ta thí nghiệm thử, quả thật có hiệu quả. Cho nên nhất định phải phụng hành, mới có thể được lợi ích. Pháp sư Thanh Lương giảng giải “Kinh Hoa Nghiêm” cho chúng ta, Ngài là dùng bốn cương lĩnh tín, giải, hành, chứng này để giới thiệu với chúng ta. Bốn chữ này phải làm đồng thời, không được có trước sau. Có trước sau thì hiệu quả sẽ rất chậm chạp. Hiện nay tai nạn ập lên đầu, dùng loại cách thức chậm chạp này sẽ không kịp, cho nên phải làm đồng thời. Ngày nay Cư Sĩ Lâm, chúng ta là dùng cách thức này. Giảng đường của chúng ta mỗi ngày giảng kinh hai giờ đồng hồ, một năm 360 ngày, mỗi ngày không gián đoạn, đây là tín, giải. Hằng ngày trong niệm Phật đường niệm Phật không gián đoạn, đó là hành, chứng. Chúng ta ngày nay tín, giải, hành, chứng tiến hành đồng thời. Giải môn giúp cho hành môn, hành môn giúp cho giải môn, giải hành bổ trợ cho nhau, thì hiệu quả sẽ rất lớn. Thật sự y giáo phụng hành, thì lợi ích công đức không thể nghĩ bàn. Chúng ta phải tin cho thật sâu. Kinh là kinh ở trong tâm của chính chúng ta. Kinh của Thế Tôn là lưu xuất ra từ trong chân tâm. Chân tâm của Thế Tôn chính là chân tâm của chúng ta. Tâm là cái tâm hiện tại, hai mà không phải hai, cho nên lợi ích công đức của họ không thể nghĩ bàn. Hiện thế mà chỗ này nói, chính là chỗ ở của chúng ta hiện nay bình an, hạnh phúc, không có bất kỳ tai nạn nào, được cơm no áo ấm, có thể được hiệu quả này. Hiệu quả này là hiệu quả rất nhỏ, đâu có lý nào không đạt được? Xem tiếp kinh văn dưới đây:
“Thị cố Phổ Quảng! Đương tri Địa Tạng Bồ-tát, hữu như thị đẳng bất khả thuyết, bách thiên vạn ức đại uy thần lực lợi ích chi sự.” (Này Phổ Quảng! Vì thế nên biết rằng Ngài Địa Tạng Bồ-tát có bất khả thuyết trăm nghìn muôn ức những sự oai thần lực lớn nhiều lợi ích cho chúng sanh như thế.)
Đây là tổng kết. Bồ-tát Địa Tạng, ba chữ “Như thị đẳng” này là tổng kết đủ thứ lợi ích của tín thọ phụng hành mà phía trước nói, quy kết về oai thần của Bồ-tát Địa Tạng gia trì. Bồ-tát Địa Tạng là pháp đại biểu, là tượng trưng. Nội dung đích thực của Ngài chính là kho báu vốn đầy đủ ở trong tự tánh chúng ta. Kho báu, trong kinh điển thường nói, tự tánh vốn có đầy đủ vô lượng trí tuệ, vô lượng đức năng. Đức là nói đức tướng, nhất chân pháp giới, y chánh trang nghiêm, đó là đức tướng. Năng là năng lực. “Đại uy thần lực” mà chỗ này nói, những thứ này vốn có đầy đủ trong tự tánh của chúng ta. Không những bộ kinh này, mà tất cả kinh Phật nói đều là đức năng vốn có đầy đủ trong tự tánh. Lìa khỏi tự tánh, thì không có một pháp nào để được. Từ đó cho thấy, đọc kinh là đứng trước Phật Bồ-tát dùng tâm chân thành cung kính thì có thể khai phát tự tánh, khiến cho tánh đức của mình cũng có thể hiện tiền. Vậy là hiện tượng sóng của chúng ta có thể nối liền với chư Phật Bồ-tát, tần số giống nhau rồi. Vào lúc này hết thảy mọi thứ nghi ngờ, lo lắng chúng ta mới có thể dứt hết được. Dứt nghi mới sinh lên niềm tin chân chánh được. Niềm tin là thành tựu Phật sự. Phật sự chính là sự nghiệp lợi mình lợi người. Niềm tin là cội nguồn. Lời trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói: “Niềm tin là cội nguồn của đạo, là mẹ của các công đức”. Đạo chính là đạo thành Phật, chuyển phàm thành thánh. Đạt đến cứu cánh viên mãn của thánh là thành Phật. Tín là cội nguồn. Công đức là lợi mình lợi người. Lợi mình lợi người đạt đến cứu cánh viên mãn cũng phải xây dựng từ trên niềm tin. Chúng ta ngày nay làm, mà làm chưa đủ, làm không được viên mãn. Nguyên nhân ở chỗ nào vậy? Nguyên nhân là chưa có xây dựng niềm tin, không đủ niềm tin. Không đủ niềm tin là bởi vì hiểu chưa đủ thấu triệt về chân tướng sự thật. Cho nên giải có thể giúp cho tín, tín có thể giúp cho giải. Hành có thể giúp cho tín, tín có thể giúp cho hành. Tuy nói bốn chữ tín, giải, hành, chứng, nhưng thực ra nó là một sự việc. Trong mỗi chữ nhất định hàm nhiếp ba chữ khác. Nếu như không hàm nhiếp ba chữ khác, thế thì không thể gọi là tín. Trong tín nếu không có giải, không có hành, không có chứng, thì không gọi là tín được. Nếu như trong giải không có tín, không có hành, không có chứng, như thế không gọi là giải. Phật pháp là viên dung, viên tu viên chứng, thì tiến triển sẽ nhanh. Phía dưới nói:
“Diêm Phù chúng sanh ư thử Đại Sĩ hữu đại nhân duyên.” (Chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề này có nhân duyên lớn với Ngài Địa Tạng Đại Sĩ.)
“Diêm Phù” là nói thế giới này của chúng ta. Trái đất này của chúng ta, những chúng sanh trên trái đất chúng ta có nhân duyên lớn với Bồ-tát Địa Tạng. Có duyên gặp nhau sẽ vui vẻ, không có duyên thì rất khó tiếp nhận. Sự thật này, chúng ta cũng có thể thể nghiệm được ở trong đời sống, như chúng ta đến một nơi xa lạ, đặc biệt giống như đi tham quan du lịch, lần đầu tiên đến tham quan nơi đó, chúng ta gặp rất nhiều người, có người vừa nhìn qua thấy rất dễ chịu, rất vui vẻ, có người vừa nhìn qua thấy ghét, dù xưa nay chưa có giao thiệp với họ bao giờ. Tại sao lại có hiện tượng này? Hiện tượng này là do duyên của nhiều đời trước. Nhìn thấy ưa thích, chúng ta nhìn họ cũng ưa thích, họ nhìn thấy chúng ta cũng ưa thích, đây là có thiện duyên nhiều đời. Chúng ta vừa nhìn cảm thấy khó chịu, họ nhìn chúng ta cũng thấy khó chịu, là do có ác duyên nhiều đời. Có thể trong đời này chúng ta chỉ có thời gian mấy giây, mấy phút như vậy, cả đời chỉ có thể gặp nhau có một lần này, rất khó gặp nhau lần thứ hai, sự việc như vậy quá nhiều quá nhiều rồi. Tuy có duyên mà duyên rất mỏng, cả đời mới gặp một lần, duyên cả đời mới gặp một lần, thời gian vô cùng ngắn ngủi. Chúng ta có thể hiểu được do có nhân duyên nhiều đời. Còn một loại tình trạng nữa cũng có thể chứng minh chúng ta chắc chắn có đời quá khứ, là chúng ta đến du lịch một nơi nào đó, xưa nay chưa từng đến nơi đó bao giờ, thật sự là lần đầu tiên trong đời đến nơi này, nhưng bỗng nhiên cảm thấy hoàn cảnh ở đây rất quen thuộc, giống như đã từng biết rồi. Nguyên nhân gì? Trong đời quá khứ bạn đã từng ở nơi này, nếu không như thế làm sao bạn thấy rất quen thuộc? Hồi nào đến giờ chưa có ai giới thiệu, thì làm sao bạn thấy rất quen thuộc được? Chứng minh con người chắc chắn có đời trước. Tôi có một vị đồng tu là cư sĩ Thái Văn Hùng ở tiểu bang Texas Mỹ, ông kể lại nhân duyên học Phật của mình, thật sự thể hội được có đời quá khứ, ông biết rồi. Có một lần Ông cũng là ngẫu nhiên lái xe bị lạc đường vùng gần San Francisco, đi đến một thị trấn nhỏ, xưa nay chưa bao giờ đi qua thị trấn nhỏ này, ông bỗng nhiên cảm thấy thị trấn nhỏ này rất quen thuộc, đường này cần phải đi như thế nào, và lái xe đi quả nhiên không sai chút nào cả. Sau đó càng nghĩ càng cảm thấy kỳ lạ. Nếu như đời trước không phải từng sống qua ở nơi đó, thì sao ông có thể biết được? Làm sao có ấn tượng sâu như vậy? Chắc chắn là đã sống ở nơi đó rất nhiều năm, nên ấn tượng của ông mới sâu sắc như vậy. Đây là đích thân ông kể cho tôi nghe. Có lẽ đời trước không có làm việc xấu gì, nên đời này lại đầu thai được thân người. Cho nên thật sự là con người có đời quá khứ, có quá khứ thì có đời sau. Đây là nói chân tướng sự thật của nhân quả luân hồi, rất nhiều người từng trải qua. Bản thân chúng tôi cũng có loại trải nghiệm này, nhưng không có rõ ràng, không có sâu sắc giống như cư sĩ Thái như vậy, không có. Xem tiếp đoạn kinh văn dưới đây:
“Thị chư chúng sanh văn Bồ-tát danh, kiến Bồ-tát tượng, nãi chí văn thị kinh tam tự ngũ tự, hoặc nhất kệ, nhất cú giả, hiện tại thù diệu an lạc, vị lai chi thế, bách thiên vạn sanh, thường đắc đoan chánh, sanh tôn quý gia.” (Những chúng sanh đó hoặc được nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ-tát, hoặc được thấy hình tượng Địa Tạng Bồ-tát, cho đến nghe chừng ba chữ hay năm chữ trong kinh này, hoặc một bài kệ hay một câu, thời những người đó hưởng sự an vui lạ thường trong đời hiện tại, trăm nghìn muôn đời về vị lai thường được thác sanh vào nhà tôn quí, thân hình xinh đẹp.)
Đây là khen ngợi hết sức, nói rõ lợi ích của việc nghe danh hiệu, nhìn thấy hình tượng. Văn tự trong kinh điển đơn giản, hàm nghĩa sâu rộng.
“Văn Bồ-tát danh, kiến Bồ-tát tượng”( nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ-tát, hoặc được thấy hình tượng Địa Tạng Bồ-tát) Thậm chí là tiếp xúc được bộ kinh điển này, thì mỗi người được lợi ích có sâu cạn khác nhau. Có một số người hoàn toàn chưa có tiếp xúc qua Phật pháp, giống như hiện nay đi tham quan du lịch, đặc biệt là đi tham quan đến Trung Quốc, đi tham quan du lịch Trung Quốc, tham quan chùa chiền là trọng điểm của đoàn du lịch, người nước ngoài cũng vô cùng thích xem, phần lớn họ là tín đồ Cơ Đốc Giáo, tín đồ Thiên Chúa Giáo, và có những tín đồ tôn giáo khác nữa, chẳng biết gì về Phật pháp. Nhờ đi tham quan du lịch mà nhìn thấy những tượng Phật này, nhìn thấy tượng Bồ-tát. Đương nhiên họ không có niềm tin, thậm chí họ còn cho rằng cái này là mê tín. Người trình độ cao một chút, họ xem cái này là tác phẩm nghệ thuật, xem nó như tác phẩm nghệ thuật để thưởng thức. Có lợi ích hay không? Có. Đúng như lời trong Phật pháp nói: “Vừa qua căn tai, vĩnh viễn thành hạt giống đạo”. Ý nghĩa của vừa qua căn tai cũng giống như vừa qua căn mắt. Căn tai là nghe thấy âm thanh niệm Phật hiệu, nghe thấy âm thanh đọc kinh, đó là căn tai. Nhìn thấy hình tượng tượng Phật, Bồ-tát đây là căn mắt, nó vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo trong a-lại-da thức, bất kể là cố ý hay vô ý, bất kể là tán thán hay phỉ báng, đều trở thành hạt giống Kim Cang. Là sợ cả đời họ không có duyên tiếp xúc được, thế thì vô cùng đáng tiếc. Dù họ phỉ báng cũng chẳng sao cả, họ thật sự tiếp xúc được. Nếu phỉ báng thì họ phải thọ quả báo của phỉ báng. Sau khi thọ xong quả báo rồi, tương lai có duyên gặp được trở lại họ sẽ tin, và họ có thể được độ rồi. Từ đó cho thấy, kết pháp duyên với chúng sanh đây là việc tốt, nó thật sự là việc tốt đứng đầu trong pháp thế gian và xuất thế gian. Khi rộng kết pháp duyên, đừng nên có bất kỳ băn khoăn gì, đừng nên cho rằng đây là không tôn trong hình tượng Phật Bồ-tát, sẽ tạo đủ thứ tội nghiệp, nghĩ thế là bạn không dám động rồi, vậy làm sao bạn có thể kết duyên với chúng sanh được? Người khởi tâm tôn trọng, khởi tâm kính ngưỡng đối với hình tượng Phật Bồ-tát đó là đã vào được cửa rồi, chúng ta phải tôn trọng đối với hình tượng Phật Bồ-tát, dùng tâm cung kính cúng dường. Nhưng chúng ta giới thiệu cho người khác, thì bạn không nên có những băn khoăn này. Giới thiệu cho người khác, là gieo hạt giống Phật vào trong a-lại-da thức của họ. Cho dù họ phỉ báng, làm nhục cũng không sao cả, Phật, Bồ-tát đâu có lý nào chê trách? Nếu chê trách vậy các Ngài là phàm phu, chứ không phải thánh nhân. Tuyệt đối không quở trách. Cho nên thời hiện đại, chúng ta có khi nhìn thấy, trên giấy bao bì có in hình ảnh Phật Bồ-tát, trên báo thường thường cũng có in danh hiệu Phật Bồ-tát, cũng có hình ảnh Phật Bồ-tát. Có một số đồng tu nhìn thấy tình trạng này, đến hỏi tôi phải làm thế nào? Giấy báo này có vứt bỏ được không? Chúng ta phải xử lý như thế nào? Họ rất hoang mang! Đây là khởi phân biệt, chấp trước. Nên biết làm trên báo là kết duyên, kết pháp duyên, gieo thiện căn với rất nhiều chúng sanh. Chúng ta gặp vậy phải xử lý như thế nào? Là hãy nhìn lại chính mình. Nếu như trong nhà bạn có chỗ để, bạn có thể cắt hình Phật, Phật hiệu trên báo xuống, hoặc là dán nó ở trong một quyển tập, làm kỷ niệm cũng là việc làm tốt. Nếu như không muốn làm như vậy, thì xử lý như giấy báo bình thường cũng được, không nên chấp trước, không nên so đo. Đặc biệt là ở thế gian này người tạo ác rất nhiều, nên danh hiệu và hình ảnh của Phật Bồ-tát càng phổ cập càng tốt. Do phát tâm khác nhau, tâm này của chúng ta là tâm lợi ích tất cả chúng sanh, hy vọng tất cả chúng sanh gieo trồng hạt giống Phật Bồ-tát, đây là việc tốt. Đừng nên nghĩ rằng vậy là không cung kính mà đoạn mất cơ duyên này, như thế thì quá đáng tiếc. Lợi ích mà chỗ này nói vô cùng rõ rệt. Người được lợi ích như chúng ta, hãy thuận theo tâm của họ, thuận theo nguyện của họ. Nếu như họ có thể hiểu được, hành được, thì lợi ích sẽ rất thù thắng, lợi ích sẽ rất lớn. Họ nghe danh hiệu, nhìn thấy hình tượng không hiểu, cũng không hành được, thì lợi ích này sẽ lưu giữ lại trong a-lại-da thức của họ, hiện tiền không thể được lợi ích.
“Hiện tại thù diệu an lạc” (Họ sẽ hưởng sự an vui lạ thường trong đời hiện tại.)
Họ không đạt được.
Đến khi nào họ có thể đạt được lợi ích vậy? Đời sau họ có duyên này, có duyên gặp được trở lại. Khi gặp được trở lại, nếu như duyên đó thù thắng, gặp được thiện tri thức, gặp được bạn đạo cùng tham cứu tốt đến giúp đỡ họ, họ hiểu được, hành được, thì lợi ích an vui thù thắng của họ mới có thể hiện tiền. Cho nên chỗ này không có mê tín. Nhân duyên khác biệt ở trong đây là vô lượng vô biên, chúng ta cần hiểu rõ đạo lý này, biết rõ những chân tướng sự thật này. Khi có người đến hỏi, thì chúng ta có thể giải đáp cho họ, giúp họ dứt nghi sanh tín. Cái duyên nghe danh hiệu, nhìn thấy hình ảnh này, chúng ta tự mình suy nghĩ thật kỹ, trong đời quá khứ, thậm chí là những kiếp lâu xa về trước chúng ta đã gieo xuống rồi, nên đến đời này chúng ta mới gặp được duyên, duyên mới chín muồi. Cho nên nhìn thấy bộ kinh này, họ có thể sinh tâm ưa thích, càng đọc càng thấy thích. Hiểu được cũng thấy thích, không hiểu cũng thấy thích là duyên sâu dày. Duyên nhất định là được gieo xuống nhiều đời rồi, không thể là trong đời này vừa tiếp xúc liền sinh tâm ưa thích được, không có đạo lý này. Hiện nay có rất nhiều đại chúng, tiếp xúc không thể sinh tâm ưa thích được, vậy không phải giống như tình trạng của chúng ta trong đời quá khứ sao? Chúng ta là người từng trải nên hiểu rất rõ, đã từng trải nhiều đời, nhiều kiếp, nay thành tựu rồi. Hiện nay chúng ta giúp họ gieo nhân, chúng ta biết rất rõ, cũng cần phải trải qua, nhiều đời sau nữa duyên mới chín muồi, họ mới có thể được độ. Trong tâm của người thế gian nghĩ, thời gian này quá dài rồi. Nhưng thật sự ở trong chân tướng sự thật thì thời gian là giả, không có thời gian. Thời gian và không gian đều là khái niệm trừu tượng, hoàn toàn không phải sự thật. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói: “Niệm kiếp viên dung”. Một niệm có thể kéo dài nó thành vô lượng kiếp, vô lượng kiếp có thể rút ngắn nó lại thành một niệm. Trong Kinh Đại Thừa thường nói: “Mười đời xưa nay không lìa một niệm.” chính là đạo lý này. Chúng ta chưa có nhìn thấy chân tướng. Là giống như chúng ta xem phim vậy, chúng ta chỉ nhìn thấy hình ảnh đó trên màn ảnh, không có nhìn thấy phim âm bản ở phía sau máy chiếu phim. Trên màn ảnh có trước có sau. Nếu như thử xem phim âm bản trong máy chiếu phim, lấy hết nó ra thì không có trước sau. Từ đó cho thấy, chúng ta nhìn thấy có thời gian, có quá khứ, có hiện tại, có vị lai, là do trong ảo giác nhìn thấy tướng huyễn. Bạn muốn xem và hiểu rõ chân tướng của nó, như thế là giống như bạn nhìn thấy phim âm bản ở trong máy chiếu phim vậy, không có trước sau. Cho nên giúp chúng sanh gieo trồng thiện căn, tu hạnh Bồ-tát, thành Bồ-tát đạo, là công việc chúng ta cần phải làm, hơn nữa phải làm thật tích cực, hãy giúp đỡ mọi người một cách vô điều kiện. Ở trong đây không có phân biệt, không có chấp trước, làm với tâm thanh tịnh, làm với tâm bình đẳng, làm như vậy thì công đức tự nhiên sẽ viên mãn ngay. Lợi ích mà trong kinh nói là:
“Bách thiên vạn sanh, thường đắc đoan chánh, sanh tôn quí gia.” (Trăm nghìn muôn đời về vị lai thường được thác sanh vào nhà tôn quí, thân hình xinh đẹp.)
Đây là điều mà hầu hết người thế gian đều mong cầu, đây chỉ nêu ra một ví dụ này mà thôi. Lợi ích công đức đích thực, còn thù thắng hơn điều này rất nhiều. Pháp sư Thanh Lương ở trong chú giải đoạn kinh văn này chú giải rất hay, Ngài trích dẫn lời trong kinh điển nói thì tương đối sâu hơn một chút. Nhưng chúng tôi ở trong các buổi giảng cũng đã nói rất nhiều rồi, nếu như quí vị hiểu được ý nghĩa này, khi xem chú giải của Ngài sẽ không khó hiểu.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.