KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 19
Mời mở bản kinh ra: “Phẩm Thứ Tư Nghiệp Cảm Của Chúng Sanh Ở Cõi Diêm Phù Đề”. Từ trên tên của phẩm này chúng ta thấy được rất rõ ràng, những chuyện mà trong kinh nói đều thuộc về thế giới này của chúng ta. Trong kinh Phật gọi là Nam Diêm Phù Đề Châu, chính là chỉ trái đất này của chúng ta. Phật nói với chúng ta, tu học Phật pháp phải lấy kinh làm chủ. Đây là trong Tứ Y chỉ dạy chúng ta: “Y pháp bất y nhân, y nghĩa bất y ngữ” Đây là nguyên tắc vĩnh hằng bất biến. Bởi vì chúng ta nhìn thấy cổ đức có một số chú giải, dường như không tương ưng với những gì khoa học hiện đại quan sát được.Đối với việc này, chúng ta có thể nghi ngờ, không nên nói những gì khoa học hiện đại nói là chính xác, còn những gì kinh Phật nói là mê tín. Nếu như chúng ta dùng phương pháp này để quan sát, thế thì quá đỗi sai lầm!Bởi vì có rất nhiều cảnh giới mà mắt thường chúng ta không thể nhìn thấy được. Chúng ta tin lời Phật nói trong kinh, tổ sư đại đức chưa nhập cảnh giới này, nên những gì nói ra không nhất định là hoàn toàn tương ưng, chúng ta có thể đem ra để làm tham khảo, cũng không cần phải phủ định nó, dù sao có nói như vậy cũng là tốt. Nếu như quý vị xem trong chú giải, ví dụ Ngài nói ở trong kinh “Trường A Hàm”. Tại sao mặt trăng có bóng? Cái bóng này là bóng cây của cõi Diêm Phù Đề. Hiện nay người tiếp nhận nền giáo dục khoa học họ sẽ phủ nhận hoàn toàn. Những chỗ như thế này chúng ta không cần phải tranh luận. Nếu như không thể hiểu rõ triệt để thì có thể nghi ngờ. Mời xem kinh văn:
“Nhĩ thời Địa Tạng Bồ-tát Ma-ha-tát bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã thừa Phật Như-lai uy thần lực cố, biến bách thiên vạn ức thế giới, phân thị thân hình cứu bạt nhất thiết nghiệp báo chúng sanh. Nhược phi Như-lai đại từ lực cố, tức bất năng tác như thị biến hóa.” (Lúc đó, Ngài Địa Tạng Bồ-tát bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con nương sức oai thần của đức Như-lai, nên chia thân này ở khắp trăm nghìn muôn ức thế giới, để cứu vớt tất cả chúng sanh bị nghiệp báo. Nếu không nhờ sức đại từ của đức Như-lai, thời chẳng có thể biến hóa ra như thế được.)
Phật, Bồ-tát độ chúng sanh, có câu là: “Có nhiều cửaphương tiện, đường về nguồn không hai.” Đây là từ trong trí tuệ viên mãn, kỹ xảo cao độ biểu hiện ra. Có rất nhiều phương cách mà suy nghĩ, quan niệmcủa phàm phu chúng ta không thể đạt đến được, lý giải được. Bất kỳ việc gì cũng nhất định không nên nhìn thấy trước mắt,trước mắt chỉ là phương cách, nhất định phải nhìn thấy mục đích. Nếu như mục đích là thuần chánh thì phương cách phi pháp cũng là thuần chánh, cái này cao siêu. Nếu như mục đích là tà ácthì phương cách thiện đi nữa cũng là tà ác. Giống như trước đây cha mẹ, thầy cô dạy bảo con em vậy, có khi mắng chúng, có khi đánh chúng, có khi quở trách chúng, nhưng mà ý là thiện, đều là mong chúng học theo những điều tốt đẹp, để kết quả sau này được tốt. Nếu như hằng ngày cưng chiều, mọi thứ đều thuận theo tâm ý của con em, nuông chiều từ nhỏ, đến khi trưởng thành làm điều phi pháp, thế thì cha mẹ và thầy cô đều có lỗi. Cách thức, phương pháp mà Phật Bồ-tát giáo hóa chúng sanh thì cao siêu hơn, đặc biệt hơn nữa. Chúng ta xem thấy trong “Kinh Hoa Nghiêm”, giống như Thắng Nhiệt Bà La Môn, Cam Lộ Hỏa Vương, Phạt Tô Mật Đa Nữ dùng phương pháp tham sân si này, giống như là hoàn toàn trái ngược với đạo, nhưng đến cuối cùng thấy kết quả của họ đều được trong lành,tự tại, đều có thể xa lìa tham sân si chứng được công đức viên mãn của tự tánh,nên những gì họ làm là thuộc về phương tiện thiện xảo. Trong “Kinh Địa Tạng” chúng ta cũng nhìn thấy hiện tượng này, biểu diễn còn thù thắng hơn so với ba vị Bồ-tát [trong kinh Hoa Nghiêm], đều là dùng những vị quỷ vương ác độc trong Địa Ngục. Quỉ vương đều là do Bồ-tát hóa thân, chứ không phải quỷ vương thật. Quỉ vương thật sao có thể tham gia pháp hội của Phật Thích Ca Mâu Ni ở cung trời Đao Lợi được? Cõi người chúng ta còn cao hơn một bậc so với cõi quỷ, cao hơn nhiều. Con người còn không thể tham gia pháp hội của Thế Tôn, thì làm sao quỷ, súc sanh có thể tham gia được? Ở trong hàng quỉ vương có vị thị hiện thân súc sanh, đều là đại Bồ-tát, đều là ngang hàng với Bồ-tát Địa Tạng. Hay nói cách khác thảy đều là Bồ-tát Địa Tạng. Chúng ta ngày nay có thể hiểu được lời Phật dạy, thật sự có thể phát tâm, dựa theo lý luận, phương pháp của kinh này mà tu học, cũng phát tâm lớn: “Địa ngục bất không, thề không thành Phật”, thì bản thân chúng ta cũng đã tham dự vào câu lạc bộ của Bồ-tát Địa Tạng rồi, cũng là thuộc hạng giống như Bồ-tát Địa Tạng rồi. Địa ngục là biểu thị cho điều gì vậy? Khổ nạn. Tất cả chúng sanh khổ nạn trong thế gian, họ vẫn chưa có thoát khổ, vẫn chưa thể phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui thì Bồ-tát sẵn lòng ở lại thế gian vĩnh viễn giáo hóa chúng sanh, chứ không thành Phật đạo. Thực ra không thành Phật đạo chỉ là hình thức, chứ không phải thật. Thậtsự thì Bồ-tát Địa Tạng đã thành Phật từ rất lâu rồi. Học trò của Ngài thành Phật còn nhiều như vậy thì thầy đâu có lý nào không thành Phật chứ? Là Ngài không ở ngôi vị Phật. Phật giống như hiệu trưởng, Ngài không làm hiệu trưởng, vĩnh viễn làm giáo viên. Học trò đã làm hiệu trưởng rồi, mà thầy vẫn còn làm giáo viên ở trường, chính là ý nghĩa như vậy.Chúng ta nhất định phải hiểu, Bồ-tát Địa Tạng đối với Phật đây là biểu diễn cho chúng ta thấy, tuy là thầy của Phật, Phật là học trò của Ngài. Nhưng mà ngày nay thầy ở địa vị Bồ-tát, học trò ở địa vị Phật, nhất định phải biểu thị tôn sư trọng đạo, điểm này chúng ta cần phải học tập. Trong bất kỳ trường hợp nào, chúng ta phải thường xuyên nhớ kỹ làm nên tấm gương tốt cho chúng sanh. Hiện nay đại chúng trong xã hội được mấy người biết hiếu thảo cha mẹ? Được mấy người biết tôn trọng sư trưởng? Sư là thầy. Trưởng là bậc đàn anh. Chúng ta phải đề xướng, chúng ta không làm, đợi ai làm bây giờ? Chúng ta ở nơi này, có một số lão pháp sư đến viếng thăm nơi đây, hoặc giả chúng ta đến nơi khác để viếng thăm lão pháp sư nơi khác, chúng ta phải biết rằngtuổi tác của họ lớn hơn chúng ta, thời gian xuất gia của họ lâu hơn chúng ta, giới lạp cao hơn chúng ta, ở trong các buổi lễ nhất định phải mời họ ngồi ở phía trên. Tuy chúng ta là khách, là thượng khách của họ, chúng ta cũng phải nhường vị trí trên cho họ. Tại sao làm như vậy? Tôn sư trọng đạo. Dứt khoát không nên khi người ta mới vừa nhường cho bạn, bạn liền ngồi chễm chệ ở trên ấy, là được chứ không phải không được. Tại sao vậy? Bạn hôm nay là khách, bạn hôm nay là khách chính, làm vậy cũng được. Nhưng khi chúng ta mời họ ngồi ở ghế trên, thì sẽ càng có lợi cho việc giáo hóa chúng sanh, phải hiểu rõ cái đạo lý này, niệm niệm nghĩ vì Phật pháp, nghĩ vì chúng sanh, như vậy là đúng rồi. Hiện nay tất cả chúng sanh, người trong thiên hạ đại đa số tham sân si mạn mỗi ngày một tăng. Tam độc tăng lên sẽ kéo theo tai nạn trên toàn thế giới. Bắt đầu hóa giải tai nạn từ đâu vậy? Từ nhân tâm. Bồ-tát Địa Tạng ở chỗ nàychẳng phải đã làm [gương] mẫu cho chúng ta rồi sao? Hôm nay pháp hội tại cung trời Đao Lợi này, Đao Lợi thiên chủ là chủ nhân. Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ-tát Địa Tạng đều là khách quý. Phật xưng tán Bồ-tát, Bồ-tát cung kính Thế Tôn, đôi bên cung kính lẫn nhau. Tại sao vậy? Vì tất cả chúng sanh. Ý nghĩa này chúng ta phải hiểu. Tinh thần, hình tượng chúng ta đều phải học tập.
“Bồ-tát bạch Phật ngôn” (Ngài Địa Tạng Bồ-tát bạch cùng đức Phật rằng)
Bạch là từ tôn kính của người dưới đối với người trên. Nói chuyện khiêm tốn biết bao, cung kính biết bao.
“Ngã thừa Phật Như-lai uy thần lực cố” (Con nương sức oai thần của đức Như-lai)
Ngài không nói mình có năng lực.Ngày nay con có năng lực phân thân độ hóa tất cả chúng sanh ở trong vô lượng vô biên thế giới này, là do nương nhờ Phật lực gia trì. Thực ra Ngài không dựa vào Phật lực gia trìthì bản thân Ngài cũng có thể làm được, đó là lời nói khiêm tốn, cung kính làm gương cho hàng hậu học chúng ta. Chúng ta có năng lực làm được, cũng phải biết ơn sâu sắc nhờ sức mạnh đại chúng gia trì. Hôm nay chúng ta cử hành pháp hội ở nơi đây, bất kể pháp hội lớn hay nhỏ, phải dựa vào sức mạnh của đại chúng. Phía trước phía sau khán đài, ở trong hay ở ngoài đạo tràng, đại chúng xã hội họ bỏ tiền bỏ sức, tán dương với thiện ý cũng là sức oai thần gia trì. Bồ-tát hiểu rõ nên có lòng biết ơn chân thành, phàm phu mê hoặc không biết. Tuy Phật chỉ dạy chúng ta, từng giây từng phút nhắc nhở chúng ta, nhưng chúng ta không giác ngộ. Từ sáng đến tối bất kể vào lúc nàochúng ta hồi hướng cũng: “Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường” Hai câu nói này đọc đến thuộc lòng rồi, có hiểu ý nghĩa không vậy? Thật sự không hiểu. Nếu bạn thật sự hiểu rồi, thì tất cả chúng sanh đều có ơn đức đối với ta. Người hộ trì có ơn đức, người tán thán có ơn đức, người cúng dường có ơn đức. Nói thêm với quý vị người phỉ báng có ơn đức, người phá hoại có ơn đức, người hãm hại vẫn là có ơn đức. Những người làm trái nghịch lại này công đức của họ ở chỗ nào vậy? Công đức của họ là khiến chúng ta soi lại, khiến chúng ta cảnh giác. Bồ-tát giáo hóa chúng sanh, một ngườithị hiện vaitích cực, một ngườithị hiện vai tiêu cực. Mặt tích cực khuyến thiện, mặt tiêu cực giúp bạn cảnh giác, giúp bạn đoạn ác. Khiến bạn nhìn thấy cái mặt ác này, bạn nghĩ điều này không tốt, ta cần phải đoạn sạch nhân ác, [các Ngài] thị hiện đủ dạng quả báo ác để nhắc nhở bạn, khiến bạn giác ngộ. Không có những nghịch duyên, tăng thượng duyên nghịch này thì con người sẽ bị mê hoặc trong thuận cảnh, không biết giác ngộ. Cho nên thường thường một nghịch cảnh đến thì con người lập tức giác ngộ, lập tức quay đầu ngay. Đó chẳng phải làơn đức sao? Ở trong “Kinh Địa Tạng” sự việc như thế này nhiều vô cùng, chúng ta cần thể hội thật tỉ mỉ.
“Cứu bạt nhất thiết nghiệp báo chúng sanh” (Để cứu vớt tất cả chúng sanh bị nghiệp báo)
Những chúng sanh khổ nạn tạo nghiệp thọ báo này, đặc biệt là chỉ địa ngục. Ở trong địa ngục tạo tác tội nghiệp cực nặng, thọ khổ cùng cực, Bồ-tát Địa Tạng dùng đại nguyện lực để giúp những chúng sanh khổ nạn này, cần dùng thân gì để được độ Ngài liền hiện thân ấy, cần dùng phương pháp gì để giáo hóa Ngài liền dùng phương pháp đó, cực kỳ phương tiện thiện xảo. Sau cùng nói,nếu như không phải do sức đại từ của Như-lai gia trì, thì không thể biến hóa được như vậy. Những dụng ý và cách làm này, ở trong nhà Phật chúng ta nói là hànhpháp, là phương pháp tu hành, đều là nhắc nhở chúng ta, đều là ở chỗ này hết lòng rátmiệng thị hiện chỉ dạy chúng ta. Mời xem kinh văn dưới đây, câu kinh văn này dưới đây vô cùng vô cùng quan trọng.
“Ngã kim hựu mông Phật phó chúc, chí A-Dật-Đa thành Phật dĩ lai lục đạo chúng sanh khiển lệnh độ thoát.” (Nay con lại được Như-lai phó chúc: Từ nay đến khi Ngài A-Dật-Đa thành Phật, làm cho chúng sanh trong sáu đường đều đặng độ thoát.)
Phật ở phía trước đem thời gian sau khi nhập diệt, khoảng thời gian này rất dài, chúng ta ở phía trước học qua rồi, việc độ hóa chúng sanh khổ nạn giao phó cho Bồ-tát Địa Tạng và tất cả chư đại Bồ-tát tham dự pháp hội, lấy Bồ-tát Địa Tạng làm chủ. Mấy câu nói ở chỗ này là Bồ-tát vâng theo lời dặn dò của Thế Tôn, Ngài y giáo phụng hành, Ngài vâng theo. Hay nói cách khác, Phật không còn ở đời ai thay thế Phật vậy? Bồ-tát Địa Tạng thay mặt Phật, đợi mãi đến khi đức Phật kế tiếp ra đời. Từ đó cho thấy, chúng ta xem thấy ở trong bộ kinh này, là có thể nhìn thấy tất cả cõi nước chư Phật ở hư không pháp giới, hóa thân của Bồ-tát Địa Tạng là tận hư không khắp pháp giới. Nếu thế giới nào chưa có Phật ra đờithì người đại biểu cho Phật đều là Bồ-tát Địa Tạng. Không chỉ là sau khi Thế Tôn diệt độ và trước Phật Di Lặc chưa xuất hiện thì Ngài thay mặt, mà trong toàn bộ tất cả cõi nước chư Phật, ở trong khoảng thời gian đức Phật trước diệt độ, đức Phật sau vẫn chưa có ra đời, người thay mặt Phật độ hóa chúng sanh thảy đều là Bồ-tát Địa Tạng. Bồ-tát Địa Tạng đáng được mọi người tôn kính. Hoằng nguyện của Địa Tạng, chư Phật Như-lai không thể không tán thán, không thể không khâm phục. Tại sao vậy? Chúng sanh mà Ngài độ là thuộc diện khó độ nhất. Chúng sanh mà Phật độ, hầu hết đều là căn tánh chín muồi rồi, Phật xuất hiện để độ. Chúng sanh căn tánh chưa chín muồi,cực kỳ khó độ,vẫn cứ đang tạo tác tất cả tội nghiệp, thì Bồ-tát Địa Tạng đi độ. Cho nên bộ kinh này chúng ta phải đọc kỹ, phải tư duy thật sâu, hiểu sâu nghĩa thú. Sau đó mới biết bộ kinh này cũng là thuộc vào hàng pháp luân căn bản ở trong tất cả kinh điển, đặc biệt là ở thế giới hiện nay của chúng ta đây, chúng sanh cõi Diêm Phù Đề mà nói, đây là pháp tu học cơ bản của chúng ta. Hiểu rõ đạo lý này, thật sự có thể diệt tất cả tội, có thể tu tất cả thiện.Tại sao vậy? Bạn thật sự sáng tỏ chân vọng, tà chánh, thị phi, thiện ác, bạn thật sự thông đạt sáng tỏ rồi.Điều này không dễ dàng, không có trí tuệ cao độ không thể làm được. Câu phía sau này còn hay hơn nữa.
“Duy nhiên! Thế Tôn nguyện bất hữu lự.” (Xin vâng! Bạch đức Thế Tôn! Xin đức Thế Tôn chớ lo)
Là an ủi Thế Tôn, xin Thế Tôn đừng nên lo lắng. Trong khoảng thời gian mạt pháp, diệt pháp dài như vậy, chúng sanh tội khổ, Bồ-tát một vai gánh vác, Ngài gánh vác nhiệm vụ, sứ mệnh giáo hóa chúng sanh. Mời xem kinh văn.
“Nhĩ thời Phật cáo Địa Tạng Bồ-tát, nhất thiết chúng sanh vị giải thoát giả, tánh thức vô định, ác tập kết nghiệp, thiện tập kết quả, vi thiện vi ác, trục cảnh nhi sanh, luân chuyển ngũ đạo, tạm vô hưu tức, động kinh trần kiếp, mê hoặc chướng nạn.”(Bấy giờ đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ-tát rằng: “Những chúng sanh mà chưa được giải thoát, tánh thức của nó không định, hễ quen làm dữ thời kết thành nghiệp báo dữ, còn quen làm lành thời kết thành quả báo lành. Làm lành cùng làm dữ tùy theo cảnh duyên mà sanh ra lăn mãi trong năm đường không lúc nào tạm ngừng ngớt, mê lầm chướng nạn trải đến kiếp số nhiều như vi trần.)
Đây là Thế Tôn nói với Bồ-tát Địa Tạng. Theothói quen thông thường chúng ta nói là khai thị cho Bồ-tát Địa Tạng. Nói thực raBồ-tát ở chỗ này là đại biểu cho đại chúng chúng ta. Thế Tôn khai thị cho Bồ-tát trên thực tế chính là khai thị cho chúng ta. Chúng ta hiện nay là ở trạng thái như thế nào, Phật ở chỗ này đều đã nói ra cho chúng ta rồi, chúng ta tự mình không thể nói ra được, mình mê hoặc điên đảo, Phật biết rõ, Phật thấu hiểu, đánh thức chúng ta.
“Nhất thiết chúng sanh vị giải thoát giả”(Những chúng sanh mà chưa được giải thoát)
Hai chữ giải thoát chúng ta phải hiểu. Giải là nói đối với phiền não, phiền não chưa có giải trừ. Thuật ngữ hiện nay gọi là giải phóng. Chưa có giải phóngphiền não. Thoát là nói đối với sanh tử, là nói đối với lục đạo luân hồi. Bạn chưa thể thoát khỏi lục đạo luân hồi. Tám chữ này là chỉ chúng sanh trong lục đạo. Chỉ nói tất cả chúng sanh thôi thì pháp giới tứ thánh ở ngoài lục đạo cũng là chúng sanh, cũng là thuộc vào chúng sanh hữu tình. Nhưng thêm các chữ“chưa giải thoát” phía sau, thì chuyên chỉ cho chúng sanh lục đạo. Chúng sanh lục đạo là tình trạng như thế nào vậy? Tánh thức vô định. Tánh là tâm tánh. Thức là phân biệt, chấp trước, bất định, biến đổi quá lớn, niệm trước vừa diệt thì niệm sau lại sinh, không nhất định nối tiếp nhau, thường xuyên hay thay đổi chủ ý, đây gọi là tánh thức vô định. Đừng nói chúng ta đối với mọi người, mọi việc, chủ ý của chúng ta không chắc chắn, mà đối với chính mình cũng không chắc chắn. Sự việc mới sáng nghĩthì tối đã thay đổi, trở quẻ rồi, đây là sự thật. Ở trong tất cả toàn bộ ý niệm, Phật quy nạp cho chúng ta thành ba loại lớn: Thiện, ác, vô ký, đây là ba loại lớn. Thiện, ác là tạo nghiệp. Vô ký là vô minh, cũng không phải là việc tốt. Chúng ta biết là vô ký cũng tạo nghiệp. Nghiệp vô ký tạo là gì? Nghiệp mơ hồ. Mơ hồ không rõ, không có trí tuệ.
“Ác tập kết nghiệp” Tạo ác nghiệp thì tương lai phải thọ ác báo. Một niệm ác phải thọ một lần ác báo. Thế nào gọi là niệm ác? Một ý nghĩ là một sát-na. Một sát-na vẫn là nói quá dài rồi. Trong Kinh“Nhân Vương” nói cho chúng ta biết, một cái khảy móng tay có 60 sát-na, một sát-na có 900 lần sinh diệt, cũng chính là có 900 cái ý nghĩ.Một ý nghĩ thì phải thọ một lần báo. Con người chúng ta sống ở đời, trong mấy chục năm này tạo bao nhiêu nghiệp, sao có thể không thọ báo được? Quả báo tùy theo ý nghĩ của bạn thiện hay ác, tùy theo ý nghĩ của bạn nặng nhẹ, lớn nhỏ, tròn hay méo mà quả báo khác nhau.
“Thiện tập kết quả” Quả là nói thiện báo. Phước báo nhân thiên, nhà Phật nói là tiểu quả. “Vi thiện vi ác, trục cảnh nhi sanh” Đây là nói một người tại sao lại tạo thiện, tại sao lại tạo ác? Dogặp phải duyên khởi hiện hành. Thiện hay ác là do hạt giống cất chứa trong a-lại-da thức chúng ta. Hạt giống tập khí vĩnh viễn không bị tiêu mất, gặp được duyên nó liền khởi hiện hành. Gặp phải ác duyên liền lôi kéo tập khí ác của mình ra, gặp phải thiện duyên thì hạt giống thiện khởi hiện hành, mình không thể làm chủ được, không thể khống chế được. Thông thường nói bản thân bạn không có định lực, không có trí tuệ. Trí tuệ là quan sát, thấu hiểu. Định lực là không bị cám dỗ. Con người đến cảnh giới này mới không tạo nghiệp. Chưa đến cảnh giới này, cảnh giới bên ngoài rốt cuộc là đúng hay sai, là thiện hay ác bạn không thể biện biệt rõ ràng được, bạn không biết. Chúng ta là phàm phu, chúng ta cũng không biết. Nhưng Phật dạy chúng ta một nguyên tắc hay vô cùng, khiến chúng ta dùng cái tâm thuần thiện để nhìn người, nhìn sự, nhìn vật, cách này hay, nhất định được lợi ích. Nhìn thấy người thiện, việc tốt, đây là Phật Bồ-tát thị hiện mặt tích cực để dạy chúng ta. Nhìn thấy người ác, việc xấu đây là Phật Bồ-tát thị hiện nhắc nhở chúng ta. Chúng ta xem mọi người, mọi sự, mọi vật đều là Phật Bồ-tát thị hiện, thì tâm chân thành, tâm cung kính của chúng ta mới có thể khởilên được. Trên hội Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử là chỉ dạy chúng ta như vậy. 53 vị Phật, Bồ-tát, thị hiện ra già trẻ nam nữ, các ngành các nghề chính là xã hội hiện thực của chúng ta. Nếu chúng ta muốn thành tựu trong đời này, chỉ có học tập như vậy. Cách học tập này xin thưa với quý vị, nhất định không phải cố ép mình, ta nhất định phải nhìn như vậy, do nó vốn dĩ như vậy, không có mảy may gắng gượng. Chúng ta ở trong Đại Kinh nghe Phật Bồ-tát nói những nguyên lý, nguyên tắc này, đơn giản vắn tắt. Kinh “Hoa Nghiêm” nói tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Nếu như chúng ta thật sự hơi có một chút lĩnh hội về tám chữ này thì có thể ngộ được những gì trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói là thật, không phải giả. Không phải dạy chúng ta, giảdụ bạn dùng cách nhìn này, không phải vậy, mà đó là chân tướng sự thật. Quả thật là ngoài mình ra, thì mọi người, mọi sự, mọi vật toàn là chư Phật Bồ-tát đại từ đại bi quyền lực thị hiện, để thành tựu con người phàm phu này của ta. Không phải nói, anh thử xem, giả dụ như vậy xem sao, thế là sai rồi, không phải cái ý nghĩa này. Chúng ta như vậy mới tiếp nhận lời giáo huấn chân thật của Như-lai. Cho nên chúng ta nhìn thấy thiện, việc tốt, người thiện thìkhuyến khích mình. Nhìn thấy người ác, việc xấu thì cảnh tỉnh mình. Tất cả người, sự, vật này không có cái nào không phải thiện tri thức, không có cái nào không phải Phật Bồ-tát. Chúng ta ở trong cảnh giới này, ở trong đời này mới có thể viên mãn Phật đạo. Sau khi mình học thành rồi, cũng phải thị hiện cho người khác thấy, cũng phải làm tấm gương tốt cho người khác thấy. Hình ảnh tốt, chữ tốt này không phải chữ tốt trong tốt xấu. Tốt trong tốt xấu là đối lập nhau. Chữ tốt này là hai bên tốt xấu đều xả bỏ hết, là tốt chân thật. Cho nên bạn có thể thị hiện tích cực, cũng có thể thị hiện tiêu cực, chỉ một mục đích là khiến chúng sanh giác ngộ, khiến chúng sanh quay đầu, đây gọi là hình ảnh tốt. Cho nên cần nhớ kỹ: “Vi thiện vi ác, trục cảnh nhi sanh”. (Làm lành làm dữ tùy theo cảnh duyên mà sanh ra) Cảnh giới là duyên. Sự khác biệt lớn nhất giữa người giác ngộ với người mê hoặc chính là quan sát cảnh duyên khác nhau, vận dụng cảnh duyên để trợ tu khác nhau. Người giác ngộ họ khéo quan sát cảnh duyên, lợi dụng cảnh duyên để hỗ trợ tăng trưởng đạo nghiệp của mình. Người mê hoặc thì tạo nghiệp ở trong cảnh duyên. Chỗ này nói người “chưa giải thoát”. Chưa giải thoát là chúng sanh mê hoặc điên đảo, họ làm thiện làm ác, cái thiện ác này là đối lập nhau. Thiện là pháp thiện thế gian, chỉ có thể được quả thiện ở cõi trời và người, không thể ra khỏi tam giới. Ác là chắc chắn đọa ba đường ác. Ba đường ác là lấy địa ngục làm chủ. Ngạ quỷ, súc sanh là phụ thuộc.
“Luân chuyển ngũ đạo” (Lăn mãi trong năm đường)
Luân chuyển là luân hồi. Ngũ đạo là không nói cõi A-Tu-La, chỉ nói đến trời, người, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục,nói năm đường này. Tại sao không nói cõi Tu-La vậy? Trong Kinh “Lăng Nghiêm” nói cho chúng ta biết, ngoài đường địa ngục ra bốn đường khác đều có A-Tu-La. A-Tu-La có phước báo lớn nhất là A-Tu-La cõi trời, thấp hơn một bậc là A-Tu-La cõi nhân gian. Ở trong cõi quỷ có A-Tu-La, A-Tu-La quỷ vương ác độc. Ở trong cõi súc sanh có A-Tu-La, cho nên A-Tu-La có thể không bàn đến. Nếu như cộng thêm đường A-Tu-La vào nữa, là để chuyên nói cho A-Tu-La cõi trời. Nếu không nói, thì A-Tu-La cõi trời được xếp vào loại thiên đạo. Cho nên nói ngũ đạo hay nói lục đạo ý nghĩa đều giống nhau.
“Luân chuyển ngũ đạo, tạm vô hưu tức” (Lăn mãi trong năm đường, không lúc nào tạm ngừng ngớt)
Đây là nói sinh tử luân hồi. Phật ở trong Đại Kinh thường nói: “Sanh tử mệt mỏi không ngừng nghỉ”. Ở đây chết rồi liền đầu thai ở nơi kia, lại đi đầu thai rồi. Hết sinh lại tử, hết tử lại sinh họ vĩnh viễn không ngừng nghỉ, cho nên ví nó giống như bánh xe xoay vần, khổ không thể tả.
“Động kinh trần kiếp” (Trải đến kiếp số nhiều như vi trần) Kiếp số như vi trần.
“Mê hoặc chướng nạn” (Mê lầm chướng nạn)
“Mê” là vô minh phiền não. Ở trong lục đạo cái gọi là kiến tư phiền não, đây là mê, mê hoặc. “Chướng”, chướng thường nói là nhị chướng, tam chướng. Tam chướng là hoặc, nghiệp, khổ, tứcmê hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Tại sao gọi là chướng? Chướng ngại bạn minh tâm kiến tánh. “Nạn” là nói bát nạn. Chúng ta thường nói tam đồ bát nạn. Nạn là bạn gặp nạn. Ở trong támnạn đặc biệt phải lưu ý, thế trí biện thông là một trong támnạn. Người bình thường cho rằng nó là việc tốt. Trời Trường Thọ là một trong bát nạn. Trời Trường Thọ ở đâu vậy? Trời Tứ Không. Tại sao nói trời Tứ Không là gặp nạn vậy? Ở trong trời Tứ Không không có Phật Bồ-tát giảng kinh thuyết pháp. Nói nạn, tám loại nhân duyên, mù, điếc, câm tám loại nhân duyên, nó làm chướng ngại cơ duyên nghe pháp củabạn, không dễ dàng tiếp xúc Phật pháp, không có cơ hội học Phật, cái này gọi là gặp nạn, không phải nạn thông thường. Không có cơ hội học Phật là gặp nạn rồi. Trời Trường Thọ sanh về trời phi tưởng phi phi tưởng tuổi thọ tám vạn đại kiếp. Tám vạn đại kiếp thời gian dài như vậy, không tiếp xúc được Phật pháp, bạn nói đáng tiếc biết bao!Phật, Bồ-tát ở trong kinh này tán thán người cõi Diêm Phù Đề chúng ta. Người cõi Diêm Phù Đề, tuy rất dễ tạo tác tất cả tội nghiệp, nhưng cũng có ưu điểm là rất dễ quay đầu. Cho nên Phật Bồ-tát tán thán. Bồ-tát Địa Tạng nói, chúng ta hành thiện, việc thiện cực nhỏ, việc thiện nhỏ như sợi lông giọt nước, Phật Bồ-tát nhìn thấy đều hoan hỷ, đều vui lòng đến giúp đỡ. Đây là nói chúng sanh ở nơi này, tuy tạo nghiệp nhưng dễ quay đầu. Ở trên trời, ở tầng trời càng cao thì càng khó quay đầu. Phật nói trong kinh, học Phật có 20 loại nạn, giàu có khó học đạo, thiên nhân giàu có, hằng ngày hưởng phước, hưởng rất tự tại. Học Phật vất vả như vậy họ không làm, họ không biết khổ. Nghèo túng khó học đạo, một ngày ba bữa cơm còn ăn chưa no, hằng ngày bị đói. Ở trong tình trạng đói thì đâu có tâm trạng nào để học Phật? Đây là ví dụ cõi trời là giàu có, ví dụ ba đường ác là nghèo túng, đều là nạn. Cho nên người ở trong cảnh gia đình trung lưu, cũng không quá giàu có, cũng không có bị đói, loại người này rất dễ giác ngộ. Họ biết khổ, họ dễ dàng giác ngộ. Cho nên nhị chướng, tam chướng, bát nạn, đây là cảnh rất khó thoát khỏi. Dưới đây Thế Tôn lại dùng ví dụ để nói:
“Như ngư du võng, tương thị trường lưu, thoát nhập tạm xuất, hựu phục tao võng.” (Ví như loài cá bơi lội trong lưới theo dòng nước chảy, thoát hoặc tạm được ra, rồi lại mắc vào lưới)
Ngư ví như chúng sanh, những chúng sanh trong lục đạo này. Võng là ví như lục đạo, tam giới, lục đạo. Trường lưu là ví như tạo nghiệp, đang tạo vĩnh viễn không dứt. Thoát nhập là ví như sanh tử luân hồi. Đúng là ví như chúng sanh trong lục đạo tánh thức vô định, giống như cá bơi khắp nơi vậy, không có phương hướng nhất định, không có mục tiêu nhất định, thường hay bơi vào trong lưới. Võng là lưới, là lưới của ma. Ma là gì vậy? Ý nghĩa của ma là giày vò. Thân tâm của bạn vĩnh viễn đang bị giày vò, đang bị hủy hoại, khổ không thể tả. Nguyên nhân căn bản, ở trong Phật pháp nói: “Ái bất trọng bất sanh Ta-bà, niệm bất nhất bất sanh Tịnh Độ” (Ái không nặng không sanh vào cõi Ta-Bà, niệm không nhất tâm không thể sanh về Tịnh Độ) Nói rõ nguyên nhân căn bản của lục đạo luân hồi là gì? Tình chấp. Đây không phải là việc tốt. Tình là cái gì vậy? Xin thưa với quý vị, tình chính là trí tuệ. Giác ngộ rồi nó là trí tuệ. Khi mê thì nó là tình. Phật ở trong kinh thường nói: “Phiền não tức Bồ đề.” Khi giác ngộ thì phiền não là Bồ đề. Khi mê thì Bồ đề là phiền não. Quý vị nhất định phải biết, trí tuệ vô lượng vô biên, phiền não cũng là vô lượng vô biên, ở đây một khi mê thì tất cả đều mê, đem trí tuệ vô lượng vô biên trong tự tánh của bạn thảy đều biến thành phiền não, biến thành tình chấp. Một khi giác ngộ rồi thì toàn bộ tất cả vô lượng vô biên phiền não lại khôi phục thành vô lượng vô biên trí tuệ, chỉ trong khoảng một niệm, nhất định phải giác, nhất định phải sáng tỏ. Cái mà chúng sanh lục đạo gọi là tình, gọi là ái, là do phía trước họ có cái nguyên tắc cơ bản ở trong đó, là tánh thức vô định. Hay nói cách khác, tình đó vô định, ái đó cũng vô định. Hôm nay mong muốn rồi, ngày mai không mong muốn nữa, hôm nay có tình, ngày mai vô tình rồi, bất định. Cho nên bạn nhất định phải biết, người thế gian bất kể họ nói với bạn tình, ý, ái như thế nào, bạn nhất định trong tâm phải giác ngộ thật rõ ràng, thật minh bạch, đó là gì vậy? Giả dối, đừng cho là thật. Cho là thật là bạn bị mắc lừa rồi. Mắc lừa là sao? Đó là sanh tử luân hồi, không phải thật. Ái chân thật, tình chân thật, xin thưa với quý vị, Phật Bồ-tát mới có, vĩnh viễn không thay đổi. Bởi vì tánh thức của Phật Bồ-tát là định. Tánh thức của chúng sanh phàm phu là bất định. Thế nên cái tình của Phật Bồ-tát đó, là tình chân thật, ái chân thật. Họ không dùng danh từ tình và ái, họ dùng từ, dùng bi. Từ bi là tình chân thật, ái chân thật, vĩnh viễn không thay đổi, điều này chúng ta nhất định phải hiểu cho rõ ràng. Chúng ta phải học theo Phật Bồ-tát, đối với tất cả chúng sanh phải thật sự có tình, thật sự yêu thương, vĩnh hằng bất biến. Đây là Phật trong kinh nói: “Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi” Chỗ này chúng ta có thể nói thêm mấy câu, đây là Phật ở trong tất cả kinh luận, có thể nói 49 năm Phật thường nói, không biết đã nói đến bao nhiêu lần, mục đích đều là để nhắc nhở chúng ta. Phật năm xưa giảng kinh thuyết pháp, mỗi ngày đều có thính chúng mới đến. Phật rất từ bi: “Ở trong cửa Phật, không bỏ một ai” có một người mới đến, chưa nghe được lời khai thị quan trọng, Phật đều phải nói lại một lần. Người mê mất tự tánh, tâm tánh bất định, ở trong họ sinh ra tình với ái, là nhất thời, là rất dễ sinh ra thay đổi, nhất định không phải thật. Chúng ta cần phải học theo Phật, tình của Phật, ái của Phật là chân thật, vĩnh hằng bất biến. Hơn nữa tình và ái của Ngài là thanh tịnh, không nhiễm mảy bụi.Là bình đẳng, không phải đối với người này thì thương, đối với người kia thì ghét, không có. Tận hư không khắp pháp giới, đối với Phật, Bồ-tát cũng kính yêu, đối với địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng kính yêu,tâm kính yêu này nhất định là bình đẳng. Không phải nói đối với Phật Bồ-tát thì nhiều hơn một phần, đối với súc sanh thì ít đi một phần, nhất định không có hiện tượng này. Tại sao vậy? Tình thương rộng lớn này của Ngài, là lưu xuất ra từ trong tự tánh, là đức năng vốn có ở trong chân tâm. Trong đề kinh của “Kinh Vô Lượng Thọ” nói: “Thanh tịnh bình đẳng giác”. Tâm từ bi yêu thương rộng lớn của Ngài, nhất định tương ưng với thanh tịnh, bình đẳng. Nếu như không tương ưng với thanh tịnh, bình đẳng, giác, thì đó chính là tánh thức vô định. Tại sao vậy? Tâm ý thức làm chủ. Phàm phu chúng ta dùng tâm ý thức. Tâm ý thức bất định, điều này chúng ta nhất định phải nhận thức rõ ràng. Cho nên tất cả chúng sanh lục đạo không thể thoát khỏi sinh tử luân hồi, nguyên nhân chủ yếu là ở chỗ này. Từ đó cho thấy, chúng ta đời này niệm Phật, muốn cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, thường hay nói phải thấy thấu suốt, phải buông xả. Đây là điều thứ nhất trong buông xả, phải đem giả tình giả nghĩa trong thế gian buông xả, buông xả triệt để. Sau khi buông xả rồi cầm lên,cầm lên vô duyên đại từ, đồng thể đại bi như chư Phật Bồ-tát. Buông xả được, cầm lên được. Cầm lên tình thương yêu rộng lớn của chư Phật Bồ-tát, bạn có thể quên mình vì người rồi, cái gì cũng có thể hy sinh được, cái gì cũng có thể xả bỏ được, vì lợi ích tất cả chúng sanh, đây là noi theo Bồ-tát Địa Tạng.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.