Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 5

Tập 5

Xin mời mở quyển kinh ra, trang thứ nhất: “Như thị ngã văn: Nhất thời Phật tại Đao Lợi thiên, vị mẫu thuyết pháp.

 Ở đoạn này chúng ta nói đến “nhất thời”. “Nhất thời” về ý nghĩa vẫn cần phải bổ sung thêm một chút. Có 2 cách nói về thời gian ở trong Phật pháp. Cách nói thứ nhất là Sát-na-tế. Phật nói Sát na tế tức là thực thời, nghĩa là chân thật, cũng chính là nói chân tướng của thời gian. Một danh từ khác gọi là Tam ma da. Ý nghĩa của Tam ma da là trường thời, chính là tướng tương tục mà chúng ta thường hay nói. Các vị xem “Kinh Kim Cang” đã nói “như lộ diệc như điện”. “Như lộ”, “lộ” là hạt sương, chúng ta hiểu thời gian của hạt sương cũng rất ngắn ngủi, hạt sương rơi xuống vào buổi sáng tinh mơ, khi mặt trời mọc thì nó liền bốc hơi. Dùng sự việc này để tỷ dụ cho trường thời, để tỷ dụ tướng tương tục; Dùng ánh chớp để ví cho thời gian chân thật. Thời gian chân thật thì trong “Hoa Nghiêm kinh thập định phẩm” nói là Sát na tế, đây mới là chân chật.

Chúng ta rất khó thể hội được quan niệm Sát-na-tế. Hiện nay khoa học phát triển, dùng dụng cụ khoa học để quan sát, chúng ta có thể thể hội được một chút. Hơn nữa, thực tại mà nói, Sát-na-tế chính là hầu hết trên kinh thường nói sanh diệt đồng thời, bởi vì thời gian sanh diệt của nó quá ngắn, tuyệt đối không phải là lục căn của chúng ta có thể cảm nhận ra được. Lục căn của chúng ta có thể có cảm nhận được, nói một cách khác, phải cần thời gian tương đối dài, vừa kích thích thì lập tức liền có phản ứng. Tuy rằng nói là lập tức nhưng vẫn là thời gian rất dài. Nếu như nói sanh diệt của Sát-na-tế thì chúng ta có thể là hoàn toàn không cảm nhận được. Không những là phàm phu lục đạo chúng ta, mà người cõi thiên thông minh hơn chúng ta rất nhiều, cảm nhận nhanh nhạy hơn rất nhiều, nhưng họ cũng không cảm nhận ra được, thậm chí đến Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát. Phật ở trên kinh nói với chúng ta, Bát Địa Bồ Tát mới có thể nhìn thấy được A Lại Da. A Lại Da chính là Sát-na-tế, phải đến Bát Địa thì định công mới đủ sâu, thì mới có thể cảm nhận được Sát-na sanh diệt. Phật thường ở trên kinh dùng “bất sanh bất diệt” để hình dung Sát-na sanh diệt. Nếu như không có sanh diệt, vậy thì nói “bất sanh bất diệt” là phí lời rồi, không có ý nghĩa gì cả. Nói “bất sanh bất diệt” đích thực là có sanh có diệt, nhưng vừa sanh ra thì liền diệt mất, dường như là sanh diệt đồng thời, cho nên gọi là bất sanh bất diệt. Những lời này nói ra thì có ý nghĩa. “Sanh diệt đồng thời”, thời gian cực kỳ ngắn ngủi. Thời gian ngắn ngủi này, nói lời thành thật thì khoa học kỹ thuật hiện tại tuyệt đối không thể đo lường được. Nếu khoa học kỹ thuật có thể đo lường được thì thời gian nhất định là rất dài.

Đây là “nhất thời” mà trên kinh Phật đã nói. Câu nói này hoàn toàn là lời nói thật, chúng ta phải có thể tỉ mỉ mà thể hội, bạn hiểu được nhất thời thì bạn sẽ hiểu hết thảy pháp bất sanh bất diệt, bạn sẽ xa lìa được sự lo sợ đối với việc sanh tử, bạn hiểu được “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Tướng của hư vọng là bất sanh bất diệt, đây mới là chân tướng. Chúng ta nhìn không thấy, Bồ Tát từ Bát Địa trở lên thì mới nhìn thấy được.

 “Nhất thời” ở chỗ này nếu như áp dụng trên thực tướng thì chính là lúc cơ duyên Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh đã thành thục, đây gọi là nhất thời. Cách nói này của chúng ta cũng vô cùng viên mãn. Hết thảy kinh đều dùng dòng chữ này, nghĩa là nhân duyên Phật thuyết bộ kinh này đã thành thục rồi.

Nhân duyên lần này của chúng ta vô cùng thù thắng, nơi giảng kinh cũng rất hiếm có. Phật ở tại trời Đao Lợi, không phải là ở một nơi nào khác, mà Phật ở tại Đao Lợi thiên. “Phật” là chủ thành tựu, là người chủ giảng ở trong pháp hội lần này, là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Chữ“tại” này vô cùng hay, đặc biệt là từ trên sự tướng mà nói. Nói “tại” đây cũng đều là nói lời chân thật.

Người thế gian chúng ta đã có quan niệm nhận thức rất sai, có một quan niệm sai lầm, sai cả một đời mà tự mình không thể nhận ra được. Chúng tôi lấy một ví dụ hết sức đơn giản để nói, buổi sáng thức dậy rửa mặt, mặt có cần rửa hay không? các vị nói xem mặt có cần rửa không? Rửa mặt là sai rồi, mà phải là rửa đi những bụi bẩn trên gương mặt, đó không phải là rửa mặt. Giặt đồ, quần áo có cần phải giặt hay không? Cũng chỉ là giặt đi những bụi bẩn bám trên quần áo. Các vị tỉ mỉ mà suy nghĩ xem, chúng ta đã có biết bao nhiêu quan niệm sai lầm rồi, lúc học ở trên lớp lên lau bảng, bảng có cần lau hay không? đó là lau đi những bụi phấn ở trên bảng mà thôi, làm gì có lau bảng chứ, bảng mà lau đi thì bảng cũng phải không còn nữa, vậy thì mới gọi là lau bảng chứ. Vậy thì bạn hiểu được trong cuộc sống thường ngày, các vị tỉ mỉ mà suy nghĩ, đã có biết bao nhiêu quan niệm sai lầm, đã sai một cách quá mức rồi. Mọi người đều sai, nên cho rằng đúng. Phật nói lời thành thật cho chúng ta nghe, nhưng chúng ta thì cảm thấy nó là lạ làm sao.

Chữ “tại” này là nói thật. nên nói “trụ” thì đó là giả, bạn trụ làm sao được? Hôm nay bạn dọn đến chỗ này, ngày mai dọn sang chỗ kia, làm gì mà trụ chứ? Nói thân thể này hiện tại đang ở “tại” đó thì mới đúng. Cho nên “Phật tại”. Chúng ta thực tại nói cũng là tại, hiện tại đang tại Singapore, hiện tại tại Tịnh Tông Học Hội, buổi tối thì tại Cư Sĩ Lâm, đó là “tại”. Còn “trụ” thì nghĩa là bạn ở đó không đi đâu hết, gọi là trụ, thường thường đi chuyển thì gọi là “tại”.

Ở trong Phật pháp thường nói “trụ”. “Trụ” nghĩa là gì? Là tâm an trú, cung điện lầu các mà bạn trú ngụ. Phật ở chỗ này nói cung điện lầu các là từ bi, tâm an trú ở trong từ bi, tâm an trú trong chánh giác, cái này gọi là trụ. Vĩnh viễn không rời khỏi thì gọi là “trụ”. Thân là thường xuyên động, nên gọi là “tại”. Cho nên từ trên sự tướng mà nói “tại”.

Phật lần này ở tại đâu? Tại “Đao Lợi Thiên”, tầng trời thứ 2 của Dục giới. Người thế gian biết có trời, biết là có thiên thần, cũng rất cung kính đối với các vị thần tiên này, tôn xưng họ là thượng đế, người Trung Quốc thì gọi họ là Ngọc Hoàng Đại Đế, đại khái đều là nói vị chủ của Đao Lợi Thiên. Nhưng họ không biết ngoài trời vẫn còn trời. Phật nói với chúng ta, thế giới Ta Bà có 28 tầng trời, số lượng trong mỗi tầng trời cũng là vô lượng vô biên, từ dưới lên có đến 28 tầng. 28 tầng phân chia thành tam giới: Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Dục Giới thì vẫn còn cái dục của việc ăn uống và nam nữ, việc này vẫn chưa đoạn, nhưng mà càng lên cao thì những việc đó càng mờ nhạt, đến Sắc Giới thì cái dục này không còn nữa. Chúng ta thường nói tài, sắc, danh, thực, thùy thì người của trời Sắc Giới hết thảy đều không có, người của trời Sắc Giới không cần ăn uống, cũng không cần ngủ nghỉ, luôn luôn tỉnh táo, không cần ăn uống, thiền duyệt vi thực, cho nên họ không cần ăn, nhưng mà họ vẫn còn sắc thân, sắc tướng. Đến Vô Sắc Giới thì đây là phàm phu bậc cao nhất ở trong lục đạo, họ ngay cả thân thể này cũng không cần đến. Phật pháp trước khi đến Trung Quốc, thì Trung Quốc đã xuất hiện một vị đại trí huệ đó là Lão Tử. Lão Tử đã nói với mọi người “ta có nỗi lo lớn vì ta có thân này”. Ta có nỗi hoạn nạn khốn khó lớn nhất là gì? Chính là có thân thể này. Thân thể là một thứ rườm rà, là thứ phiền phức. Ngài có giác ngộ này. Lão Tử có thể sanh đến trời Vô Sắc Giới, bởi vì ngài chán ghét cái thân thể này, chán ghét những sắc tướng này. trời Vô Sắc Giới thì không có sắc tướng, thông thường chúng ta gọi là linh giới, đại khái chính là nói cõi trời Vô Sắc Giới, ở nơi đó là tự tại nhất, ngay cả sắc tướng cũng không có. Đây là phân chia lớn, phân chia thành tam giới. Tam giới có 28 tầng trời, đây là 1 phạm vi giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật, lớn đến như vậy.

Thích Ca Mâu Ni Phật có sanh tử hay không? xin nói với các vị là không có. Ngài là ứng hóa. Ngài xuất hiện tại thế gian này của chúng ta là dùng ứng hóa thân để xuất hiện. Chúng ta nhìn thấy ngài có sanh có diệt, thực sự ngài diệt rồi thì lại đến một tinh cầu khác, đến một địa phương khác lại xuất hiện để giáo hóa chúng sanh. Việc này là đại tự tại, biểu thị ra đại tự tại.

Phật nói với chúng ta, “thân” có rất nhiều cách nói. Trên “kinh Hoa Nghiêm” nói có 10 loại thân, thông thường thì chúng ta nói có 3 loại thân, nhưng nói tường tận thì là 10 loại, 10 loại quy nạp lại thì còn 3 loại.

“Pháp thân”, Pháp thân là chân thân, hết thảy tất cả thân đều là từ nó mà sanh khởi, cho nên nó là một cái thân cơ bản nhất, có thể sanh ra hết thảy vạn pháp, có thể hiện cái thân tướng của chúng ta, có thể hiện tướng của quốc độ, sơn hà đại địa, hết thảy thân tướng đều là pháp thân biến hiện mà ra.

Loại thứ 2 là “Trí thân”, chúng ta cũng gọi là “Báo thân”. Báo thân là thân Trí Huệ, cũng chính là nói trí huệ của người đó đã khai mở rồi, trí huệ hiện tiền, đối với vũ trụ nhân sanh hết thảy vạn pháp vạn vật không gì không biết không gì không thể.

loại thứ 3 thì gọi là “Ứng hóa thân”. Thực tại nói Ứng hóa thân có 2 ý nghĩa. Ứng thân là tùy loại hiện thân, nên dùng thân gì để độ thì họ dùng thân đó để hiện. Cho nên Phật đến nhân gian này hay đến một nơi nào đều không có chướng ngại, tự do tự tại, muốn đến thì đến, muốn đi thì đi, đến và đi đều tự do, không giống như phàm phu chúng ta. Phàm phu chúng ta là Nghiệp báo thân, không tự do một chút nào, hoàn toàn bị khống chế bởi nghiệp lực. Nói là bị nghiệp lực khống chế thì mọi người không dễ hiểu, chúng tôi dùng một cách khác để nói, là bị vận mệnh khống chế, bị vận mệnh chi phối, như vậy thì mọi người dễ hiểu. Cho nên nói “hết thảy đều do mệnh, chẳng chút nào do người”. Bạn nói xem việc này khổ biết bao. Mệnh là gì? Mệnh chính là nghiệp, là nghiệp báo. Trong quá khứ đã tạo thiện nghiệp thì trong đời này chúng ta được thiện báo, trong quá khứ đã tạo ác nghiệp thì đời này chúng ta nhận được chính là bất thiện báo, cho nên hết thảy thọ dụng của một đời, trong ngạn ngữ có một câu “một miếng ăn, một giọt nước, không gì chẳng được định sẵn”, chính là đạo lý này, chân thật là không có chút gì do con người. Nhưng Phật Bồ Tát đến thế gian này cũng đến đầu thai, cũng thị hiện việc tử vong, nhưng sự sanh tử của các Ngài là tự tại, không phải do nghiệp lực, mà là nguyện lực, ở thế gian này muốn trải qua đời sống như thế nào thì sẽ sống như thế ấy, muốn trụ thế bao nhiêu năm thì sống bấy nhiêu năm. Các Ngài sanh tử tự tại, muốn lúc nào đi, muốn đi đến nơi nào thì đến. Các Ngài rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch, đến đi tự do. Đây gọi là nguyện lực thọ thân. Các Ngài là nguyện lực, không phải nghiệp lực. Chúng ta phải hiểu rõ những đạo lý này, sau đó mới biết được chúng ta nên học Phật như thế nào? Làm thế nào để đem nghiệp lực của chúng ta chuyển biến thành nguyện lực. Bản lĩnh của Phật Bồ Tát là ở chỗ này. Các Ngài có thể chuyển, chúng ta cũng có thể chuyển. Bắt đầu từ chỗ nào để chuyển? Phải bắt đầu từ tâm mà chuyển, tâm chuyển rồi thì thân liền chuyển, nếu như nói chuyển từ thân mà tâm không chuyển thì không có tác dụng gì, có chuyển như thế nào thì cũng không giống. Nhất định phải từ tâm mà chuyển.

Tâm thì nói là “trụ”, không phải nói là “tại”. Trên “kinh Hoa Nghiêm” Bồ Tát có thập trụ, đó gọi là trụ, đó là tâm trụ không phải là thân trụ. Trụ của Phật trụ của Bồ Tát như vậy thì đúng. Ở trên kinh Phật nói với chúng ta, trụ xứ có 4 loại. 4 loại này đều chính xác. 2 loại trước vẫn còn nằm trong lục đạo, chưa ra khỏi lục đạo, gọi là “thiên trụ”.

Thiên trụ chính là bạn vào đời sau nhất định có thể sanh vào trời Dục giới. Trời Dục giới có 6 tầng trời, sau này chúng tôi sẽ giới thiệu một cách đơn giản cho các vị hiểu. Thiên trụ chính là tâm an trụ trong “Thập Thiện Nghiệp Đạo”. Bố thí, Trì giới, tu Thập Thiện Nghiệp Đạo, đời sau bạn nhất định sẽ được sanh đến thiên giới, phước báo thì nhiều hơn người ở thế gian chúng ta rất nhiều, hưởng thiên phước.

Loại thứ hai gọi là “Phạm trụ”. Phạm trụ là tu thiền định, tu tâm thanh tịnh, hết thảy dục niệm đã phai mờ, đối với ngũ dục lục trần đều xem rất nhẹ, trong tâm thì tràn đầy từ bi hỷ xả. Từ là đem niềm vui đến cho người, khiến người vui vẻ, giúp người được vui. Bi là bạt trừ cái khổ cho người. Chúng sanh có khổ nạn, giúp đỡ họ giải quyết khổ nạn. Hỷ là nhìn thấy người khác được phước, được lợi ích, tuyệt đối không có tâm đố kỵ, mà sanh tâm hoan hỷ. Xả là vạn duyên có thể buông bỏ được. Tâm thường an trú trong từ bi hỷ xả, thì sẽ sanh lên trời Sắc giới. Việc này trú ở trong tam giới được xem là chính đáng. Nhưng con người chúng ta hiện nay không như vậy, con người hiện tại tâm an trú ở đâu? Tâm an trú ở trong tham, sân, si, mạn. Việc này thì nguy quá rồi. An trú ở trong tham sân si mạn, an trú ở trong sát, đạo, dâm, vọng, thì quả báo là ở Tam đồ, cho nên họ không phải là thiên trụ, không phải là Phạm trụ, mà là quỷ trụ, địa ngục trụ, súc sanh trụ, họ làm những việc này. Chúng ta đối với những lý và sự này rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch, phải biết được tâm nên an trú ở đâu, tương lai sẽ sinh ra hậu quả gì? Nó rất đáng sợ.

loại thứ 3 là “Thánh Trụ”, thánh trụ chính là trụ ở trong “Tâm Bồ Đề”. Bậc thánh có Tiểu thừa, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát tuy không đồng, nhưng họ cũng có điểm chung đó là tâm nhất định trụ ở trong Tam muội, đây là điểm chung

thứ 4 là “Phật trụ”. Trụ ở trong Phật sở trụ. Quả nhiên nhập vào cảnh giới này, bạn là ở địa vị thập trụ Bồ Tát. Chân thật học Phật nhất định phải an trong Phật trụ. Phật trụ ở tại đâu? “Đại tam không tam muội”: không, vô tướng, vô nguyện. Vô nguyện cũng gọi là vô tác. Nếu như áp dụng vào trong Tịnh Tông, thì an trụ ở trong niệm Phật Tam Muội. Những cảnh giới khác rộng sâu vô bờ mé, chúng ta rất khó thể hội, không bằng y chiếu theo giáo huấn của Phật, chúng ta đem tâm an trú ở trong “niệm Phật Tam Muội”. Việc này tương đối dễ học. Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả, việc này thực là vô cùng thù thắng hiếm có.

Trên đây là nói về ý nghĩa của 2 chữ “tại” và “trụ”.

Hôm nay Phật tại Đao Lợi thiên làm gì? “Vị mẫu thuyết pháp”. Nếu y theo trong “Tăng Nhất A Hàm” nói, lần pháp hội này là do Đế Thích Thiên vương, tức là chủ của Đao Lợi Thiên đã khải thỉnh. Đao Lợi Thiên chủ rất thông minh, rất có trí huệ, ngài nói hết thảy chư Phật quá khứ đều đã từng đến trời Đao Lợi để vì mẹ mà thuyết pháp, để báo ân sinh thành của mẫu thân, Thế Tôn thành Phật rồi, đương nhiên cũng không thể nào ngoại lệ. Thế tôn nhận sự khải thỉnh của Đao Lợi Thiên chủ, đã đến Đao Lợi Thiên để mở lần pháp hội này. Nhân duyên này rất sâu, câu chuyện cũng rất dài, kể chuyện thì sẽ lơ là đi việc giảng kinh, cho nên chúng tôi đã đem câu chuyện này lược bớt đi, nhưng cũng không thể không biết.

Mẫu thân của Phật là Ma Da phu nhân, thực sự mà nói cũng là đại quyền thị hiện, đều là Phật Bồ Tát tái lai. Mỗi một người ở trên nhân địa phát nguyện không như nhau, phu nhân phát nguyện sẵn lòng đời đời kiếp kiếp làm thân phận nữ nhân, muốn làm mẫu thân của Phật. Phu nhân đã phát nguyện này, bởi vì con trai của phu nhân là Phật, nên người mẹ này phước báo rất lớn. Việc này đều là biểu diễn ra một tấm gương cho chúng ta xem. Phước báo lớn nhất, hoàn toàn là y theo phước sanh đến Đao Lợi Thiên, nhưng từ Dạ Ma thiên trở lên thì không được.

Các vị hãy xem, trong nhà Phật gọi là Phật sự siêu độ, thì Lương Hoàng Sám là vô cùng thù thắng. Lương Hoàng là Lương Võ Đế. Lương Võ Đế khải thỉnh Bảo Chí Công làm Phật sự siêu độ cho phu nhân của ông, cho nên gọi là Lương Hoàng Sám. Lương Hoàng là Lương Võ Đế. Phi tử của ông khi còn sống đã tạo ác nghiệp và đọa vào ác đạo. Bảo Chí Công là 1 cao tăng đắc đạo. Bảo Chí Công là ai? Là Quan Thế Âm hóa thân ra. Bạn xem còn gì bằng! Quan Thế Âm Bồ Tát đích thân chủ trì pháp hội này, chủ trì Phật sự siêu độ này, nhưng cũng chỉ có thể siêu độ được Phi tử của ông lên đến Đao Lợi Thiên. Các vị phải hiểu được, chư Phật Như Lai siêu độ cũng chỉ có thể siêu độ được đến Đao Lợi Thiên, muốn lên cao hơn nữa thì tự mình phải có công phu tu hành, không có công phu tu hành thì không được. Hiểu rõ được chân tướng sự thật này thì những năm còn lại trong cuộc đời hãy nên chăm chỉ tu hành, bạn không tu hành mà chỉ nhờ vào người khác, dù người đó có bản lĩnh như thế nào cũng chẳng qua chỉ độ đến được Đao Lợi Thiên mà thôi. Nếu như là phàm phu đến để chủ trì Phật sự siêu độ thì hiệu quả càng nhỏ bé hơn rất nhiều, chỉ có thể nói là làm thì tốt hơn là không làm, còn hiệu quả như thế nào thì rất khó nói. Ngày nay bạn đi đâu để tìm ra một vị cao tăng đắc đạo chân chánh, đi đâu tìm Phật Bồ Tát tái lai? Cho nên phải hiểu đạo lý này, sau đó chúng ta tự mình mới chân thật nắm chắc lấy thời gian, 1 tấc thời gian một tấc mạng sống, phải chăm chỉ nổ lực.

Làm mẹ của Phật thì phước báo lớn đến như vậy mà cũng chỉ là sanh đến Đao Lợi Thiên. Từ Đao Lợi Thiên trở lên cần phải có định công, cần phải có tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thành tựu được công đức chân thật. Công đức đó ít, mỏng manh, dục vẫn chưa đoạn. Ý niệm về dục vẫn chưa đoạn thì sanh 4 tầng trời đầu tiên trong Dục Giới, nhà Phật thì nói là “vị đáo định”, nghĩa là bạn tu định chưa đạt, nhưng mà có tu. Ví dụ Tứ Thiền, đệ tứ thiền, nếu công phu thiền định được 100 điểm thì mới có thể đến được đệ tứ thiền, đệ tam thiền phải được 90 điểm, nhị thiền phải được 80 điểm, sơ thiền phải được 70 điểm. Công phu của bạn là từ 60 điểm trở xuống, cho nên Sắc Giới thì bạn không có phần. Nhưng bạn có tu, công phu thiền định của bạn có thể có 60 điểm, 50 điểm, 40 điểm, bạn có công phu này, bạn không phải là 0 điểm. Bạn hoàn toàn không có tu, bạn chuyên tu phước, tu bố thí, trì giới, tu “Thập Thiện Nghiệp Đạo”, không có định công, chưa có xả bỏ được ý niệm dục tình, bạn có thể sanh là Tứ Vương thiên hoặc Đao Lợi Thiên. Có 1 chút định công, tâm địa có 1 chút thanh tịnh, mới có thể sanh được đến Dạ Ma, Đâu Suất, Tha Hóa thiên, Tha Hóa Tự Tại thiên. Phước báo trên các tầng trời thì càng lên càng lớn, càng lên cao thì thọ mạng càng dài, chân thật là hưởng phước vô tận. Nhưng dù tuổi thọ có dài hơn đi nữa, cũng có lúc báo tận, cũng chính là có lúc sẽ hưởng hết. Sau khi hưởng hết rồi thì phải tùy nghiệp là lưu chuyển, do vậy sanh thiên không phải là pháp cứu cánh, vẫn là không bằng niệm Phật vãng sanh Thế Giới Cực Lạc.

Sanh đến Thế Giới Cực Lạc là Vô Lượng Thọ, nói một cách khác, vĩnh viễn không sanh không tử, không những Dục giới thiên không thể sánh bằng mà Sắc giới và Vô Sắc Giới thiên cũng không thể sánh bằng. Cho nên hết thảy chư Phật đều tán thán A Di Đà Phật, tán thán Thế Giới Cực Lạc, đạo lý là ở chỗ này.

Câu kinh văn “vị mẫu thuyết pháp” này, tuy rằng pháp hội là do Đế Thích thiên chủ ngài đến khải thỉnh, nhưng ý nghĩa rất sâu. Thứ nhất là để tránh việc thế gian có một số người hiểu lầm đối với Phật pháp. Người học Phật, đặc biệt là những người phát tâm xuất gia, thế phát xuất gia, dường như kể từ đó về sau cũng không chăm sóc cho cha mẹ. Người thế gian cho rằng là bất hiếu, đặc biệt là người Trung Quốc có câu “bất hiếu có ba, không người nối dõi là lớn nhất”.  Cha mẹ nương dựa vào bạn làm người nối dõi, bạn vừa đi xuất gia thì vấn đề nối dõi sẽ đoạn dứt, làm sao để không có lỗi đối với cha mẹ tổ tiên? Người thế gian không biết việc xuất gia là đại hiếu, đây là ý nghĩa thứ nhất. Ý nghĩa thứ 2 cũng là làm ra một tấm gương cho tứ chúng đệ tử học tập. Nam chúng, nữ chúng, tứ chúng đệ tử khởi phát cái tâm hiếu của chính mình, để cho họ thể hội được một câu ở trong tam Phước là hiếu dưỡng phụ mẫu. Trong nhà Phật mặc dù đi xuất gia nhưng cũng không thể ngay cả cha mẹ cũng không chăm lo, đây là không có đạo lý, nhưng hình thức hiếu dưỡng thì không giống nhau. Chăm chỉ tu trì, y chiếu phụng hành theo những lời Phật dạy, lấy công đức này hồi hướng cho cha mẹ, cha mẹ có thể được chư Phật hộ trì, thiện thần bảo hộ, đây mới là hiếu chân thật. Người thế gian hiếu thuận cha mẹ thì thuê vài người làm để chăm sóc cho cha mẹ, còn đệ tử Phật thì khiến Thiên long thiện thần đến chăm lo cho cha mẹ, như vậy sẽ còn chu đáo hơn việc bạn thuê người khác đến chăm sóc rất nhiều. Nhưng nếu như bản thân bạn không có tu trì, thiên long thiện thần không bảo hộ bạn, còn xem thường bạn. Bạn chân thật tu hành, có đạo có đức, cảm động thiên long thiện thần tự nhiên sẽ đi chăm sóc, không cần bạn phải cầu họ, cũng không cần bạn phải thông báo với họ, tự nhiên họ sẽ đến chăm lo. Vì sao vậy? Vì tôn kính bạn, tôn kính cha mẹ của bạn, cho nên mới có tấm lòng này.

Lại xem tiếp phần cuối của đoạn kinh văn này: “Nhĩ  thời, thập  phương  vô  lượng  thế giới, bất khả thuyết, bất khả thuyết. Nhất thiết  chư  Phật,  cập  đại  Bồ  Tát  Ma  Ha  Tát, giai  lai  tập  hội”.

Đoạn kinh văn này là đề tựa phát khởi của bản kinh. Kinh này tổng cộng 13 phẩm, phẩm đầu tiên chính là phẩm đề tựa, nhưng nó lại không nói là phẩm đề tựa, mà tựa đề của nó là “Đao Lợi Thiên Cung Phẩm”. Trên thực tế, phẩm này là phần lời tựa của kinh. Ý nghĩa bên trong phần lời tựa này vô cùng chu toàn và viên mãn. Phía trước là 6 loại thành tựu, đây là chứng tín tự, từ đoạn kinh văn này về sau là phát khởi tự của kinh văn này. Trong phát khởi tự nói với chúng ta rất rõ ràng, hàm nhiếp có giáo, lý, hành, quả. Trong khoa chú đoạn này là “Quả Nhân Tập Tán”. Những chỗ này chúng ta phải đặc biệt chú ý, phải biết học tập như thế nào. Phật thuyết pháp trước tiên đem quả báo mở bày ra cho mọi người xem, y theo quả báo này mà sanh khởi tín tâm, sau đó lại giải thích cho bạn quả báo hình thành như thế nào? Lại nói nhân với bạn thì bạn sẽ chăm chỉ lắng nghe, bạn rất muốn biết nó. Đây là thiện xảo phương tiện khi thuyết pháp, chúng ta phải hiểu. Cho nên nói quả nhân, ngài không nói nhân quả, vừa mới bắt đầu đầu đã mở bày ra điều gì? Bảo bạn xem xem những nhân vật tham gia đại hội, đây là “quả”, đây là người, người là quả người, là do quả đức của ngài đã cảm động nhiều người như vậy cùng đến tham gia pháp hội.

Trước khi Phật giảng kinh đã hiện tướng lành, hiện ra chủng chủng các loại quang minh. Cái tướng lành này là “Lý”. Văn Thù Bồ Tát nhìn thấy hiện tượng này sanh khởi nghi hoặc, đây là biểu “hành”. Thế Tôn và Bồ Tát một người hỏi một người trả lời. Văn Thù hỏi, Thế Tôn giải đáp cho ngài, đây là giáo. Cho nên trong phần đề tựa chúng ta nhìn thấy có giáo, lý, hành, quả. Lần tụ hội này là quả báo. Giống như “kinh Hoa Nghiêm”, vừa mở đầu, giảng nói về sự Y Chánh Trang Nghiêm của Tỳ Lô Giá Na Phật. Quả báo được bày ra để cho bạn xem.

Chỗ này hiển hiện ra bất khả tư nghị, các bạn ở trong bộ kinh nào mà nhìn thấy được kinh văn như vậy? “Nhĩ thời”, Phật đến Đao Lợi Thiên cung, vì mẫu thân mà thuyết pháp, “thập phương vô lượng thế giới bất khả thuyết, bất khả thuyết hết thảy chư Phật”, các bạn ở trên kinh nào nhìn thấy được khi Phật giảng kinh mà hết thảy chư Phật đến nghe chưa? Chưa từng thấy qua. Cảnh tượng này thật quá sức tưởng tượng, “kinh Hoa Nghiêm” cũng không có cảnh tượng như vậy, “Kinh Vô Lượng Thọ” cũng không có cảnh tượng như vậy, vô cùng hy hữu, không thể xem qua một cách hàm hồ qua loa được. Thông thường chúng ta nói, “một Phật ra đời, nghìn Phật ủng hộ”, đó là chư Phật hóa hiện ra thành Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát đến giúp Phật hoằng hóa. Nhưng chỗ này thì không phải vậy, chư Phật dùng thân phận của Phật mà đến. Thích Ca Mâu Ni Phật hôm nay giảng “Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh”, hết thảy chư Phật đều đến để nghe. Các bạn xem, số người này là “vô lượng thế giới bất khả thuyết, bất khả thuyết hết thảy chư Phật cập đại Bồ Tát Ma Ha Tát”. Đại Bồ Tát Ma Ha Tát là chư Phật đưa đến, là theo chư Phật đến, cùng đi với Phật mà đến. Không thể kể không thể nói số lượng chư Phật thì số lượng Bồ Tát càng nhiều hơn. “Giai lai cập hội”, là cùng đến dự hội. Đoạn kinh này quyết định không thể nào xem qua một cách sơ sài qua loa được, bạn phải tỉ mỉ mà suy nghĩ. Thế Tôn cả đời 49 năm, đã giảng hơn 300 hội, không có hội nào thù thắng như vậy, đây là người tham dự pháp hội, là quả, 4 phần của kinh này, giáo, lý, hành, quả.

Các Ngài vì sao mà đến? Không có một vị Phật nào mà không báo ân của mẫu thân. Hôm nay Thích Ca Mâu Ni Phật không phải giảng một pháp nào khác, mà là giảng “Địa Tạng pháp”, chứng tỏ hết thảy chư pháp đều y theo đại địa mà sinh, y theo đại địa mà khởi. Đây là căn bản. Địa Tạng đại biểu cho điều gì? Đại biểu hiếu thân tôn sư. Cho nên thuyết pháp hiếu thân tôn sư thì hết thảy chư Phật nhất định tự mình sẽ đến tham gia. Chư Phật đến để ảnh hưởng chúng. Đao Lợi Thiên vương ở trong pháp hội lần này làm công đức chủ, phước báo của ngài tu được thật quá lớn, mời Phật đến Đao Lợi Thiên giảng “kinh Địa Tạng”. Việc tu phước này rất lớn. Hết thảy tất cả chư Phật Như Lai đều tề tựu, không thiếu một vị nào. Một nhân duyên vô cùng hy hữu. Các Ngài đến để làm gì? Để đề xướng hiếu đạo. Vừa gặp mặt Phật liền tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật. Việc tán thán này ý nghĩa cũng viên mãn đến cùng cực.

“Tán  thán  Thích  Ca  Mâu  Ni Phật,  năng  ư  ngũ  trược  ác  thế,  hiện  bất khả  tư  nghị,  đại  trí  tuệ  thần  thông  chi  lực. Điều  phục  cang  cường  chúng  sanh,  tri  khổ lạc  pháp”.

Những lời này không dễ gì nói ra. Nếu không phải là chư Phật Như Lai chính miệng tuyên thuyết thì các vị Bồ Tát cũng không thể nói ra được. Vì sao vậy? Họ không nhập cảnh giới này thì sao họ có thể nói ra được? Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện ở thời đại nào? “Ngũ trược ác thế”. Xã hội hiện tại của chúng ta có thể nói “ngũ trược ác”, dường như là phàm phu ngu muội vô tri nhất cũng đều có thể cảm nhận được. Ngày trước, 50 năm về trước, 100 năm về trước, loại hiện tượng ngũ trược ác thế này là người có trí huệ cao độ thì mới có thể cảm thấy được, người bình thường cảm nhận không được. Thế gian rất tốt, cũng không tệ, cuộc sống của tôi rất vui vẻ, họ không cảm nhận được sự trược ác. Trược là sự ô nhiễm, nửa thế kỷ về trước, chúng ta không có nghe nói ở đâu đó bảo vệ môi trường, danh từ này không có nghe nói qua, không có nghe nói qua danh từ này, hay nói cách khác, sự ô nhiễm đối với môi trường vẫn có thể nhẫn chịu được. Đến khi có đề xuất bảo vệ môi trường, hay nói cách khác là sự ô nhiễm môi trường đã khiến con người cảm thấy khó chịu, cả thế giới mỗi một chính phủ đều đang đề xướng, nói cách khác, sự trược ác này đã đến mức độ tương đối nghiêm trọng rồi, nên mới có danh từ này xuất hiện.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *