Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 85

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 85 

Xin mời mở bản kinh ra, phần khoa chú quyển hạ, trang 48. Đoạn này là chú giải giới thiệu đơn giản, vắn tắt về tác dụng phóng quang của đức Thế Tôn. Trước tiên chúng tôi xin giới thiệu đơn giản một chút về những danh từ này, sau đó lại làm một bài thuyết minh tổng hợp. Thứ nhất là Bạch Hào Tướng Quang. Bạch Hào là một trong ba mươi hai tướng tốt. Trong chú giải đã nói ra nghiệp nhân của tướng tốt này. Tuy chỉ nói có một vài câu, nhưng vô cùng quan trọng. “Tại nhân hành bố thí thời, thích khả tiền nhân ý.” (Trong lúc tu nhân làm việc bố thí, làm vừa lòng người nhận) Hai câu nói này rất quan trọng. Chúng ta biết đức Phật giáo hóa tất cả chúng sanh? Ngài dạy điều gì? Dạy bố thí. Bố thí chính là xả, là buông xả. Người có thể xả hết tất cả thì người này liền thành Phật. Tuy đang xả nhưng vẫn chưa xả sạch sẽ, thì người này là Bồ Tát. Người hoàn toàn không hiểu biết gì về bố thí và buông xả là phàm phu. Phạm vi của chữ “Xả” này là vô cùng vô cùng rộng. Có thể nói là tất cả pháp mà Thế Tôn nói trong bốn mươi chín năm là nói về chữ bố thí, quý vị hãy thể hội thật kỹ ý nghĩa này. Bên trong phải xả hết phiền não, tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đây là bên trong. Bạn có thể xả hết những thứ này bạn liền thoát khỏi luân hồi. Từ đó cho thấy luân hồi do đâu mà có? Luân hồi là do tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến tạo nên, chứ không phải do người khác tạo, là tự mình tạo nên. Bên ngoài đây là ngũ dục lục trần: tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thảy đều xả sạch. Đức Phật bảo chúng ta xả là dựa vào đạo lý gì? Đạo lý đức Phật nói rất rõ ràng, rất minh bạch. Trong suốt bốn mươi chín năm giảng dạy, không có lúc nào, không có nơi nào không nói. Đặc biệt là “Kinh Bát Nhã”, đức Phật nói cho chúng ta biết: “Vạn pháp vô sở hữu, tam tâm bất khả đắc” (Không thể sở hữu được pháp nào, ba tâm không thể được) vậy là đã nói ra toàn bộ chân tướng sự thật rồi. Tất cả những hiện tượng bên ngoài, ngũ dục lục trần không có gì sở hữu được. Trong kinh nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh.” (Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng. Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng.) Làm sao bạn có thể đạt được nó chứ? Bạn mong muốn đạt được nó, là sai rồi! Khi niệm này khởi lên thì lục đạo liền hiện tiền, bạn liền tạo ra lục đạo luân hồi. Không biết tất cả pháp là huyễn có, nó không phải là thật có, là giả có. Ba tâm không thể được, là tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được. Cái tâm hay được không có, tất cả pháp để được đó cũng không có. Đức Phật dạy bạn làm sao sống đời sống bình thường. Đời sống bình thường chính là buông xả vạn duyên, thân tâm thế giới đều không thể được, đây là cảnh giới của Phật, đây là đời sống của một người bình thường, cảnh giới của người bình thường. Bên trong bạn có một ý nghĩ được, bên ngoài muốn sở hữu mọi thứ, là bạn hoàn toàn mê rồi! “Nhân hành bố thí thời, thích khả tiền nhân ý.” (Trong lúc tạo nhân làm việc bố thí, làm vừa lòng người nhận.) Ý nghĩa này là sâu rồi. Như thế nào mới làm vừa lòng người nhận. Làm việc bố thí khiến người ta giác ngộ, vậy mới là làm vừa lòng người nhận. Không phải họ muốn tiền tài là họ nhận được tiền tài, vậy là thỏa mãn rồi, đó là thỏa mãn ý tham, sân, si, là hoàn toàn trái ngược lại với chân tướng sự thật rồi. Từ đó cho thấy, tất cả hiện tượng do đâu mà có? Là do duyên sinh. Duyên cũng không phải là thật. Hiện tượng của duyên là gì? Là sát-na sinh diệt, cho nên sinh sinh không dừng trụ, đây là hiện tượng của duyên. Ngày nay chúng ta có được cái thân này cũng là duyên. Mọi người, mọi việc, mọi vật gặp phải trong đời này cũng là do duyên. Nhất định phải biết, toàn bộ tất cả duyên đều là sinh sinh không dừng trụ, sát-na sinh diệt. Sáng tỏ chân tướng sự thật, thì tự nhiên sẽ giống như Phật Bồ Tát vậy, sẽ kết thiện duyên với người trong thế gian này, tuyệt đối không kết ác duyên. Tất cả mọi ác duyên nên hóa giải hết, oan gia nên hóa giải chứ không nên kết. Cách hóa giải như thế nào? Gặp phải oan gia đối đầu đến giày vò mình, mình vui vẻ đón nhận, không có mảy may tâm oán hận, vả lại còn sinh tâm vui vẻ. Tại sao vậy? Món nợ này hết rồi, trả rồi. Họ giày vò mình, họ gây phiền phức cho mình, tại sao không gây phiền phức cho người khác? Cho nên mình lập tức liền nhận ra được là duyên. Ta trước đây làm khó họ, nên đời này phải gặp lại họ làm khó ta. Nhân duyên quả báo không mảy may sai chạy. Chỉ có người sáng suốt, người giác ngộ mới vui vẻ đón nhận. Báo xong rồi, lần sau nếu có duyên gặp lại nữa, vậy là vui vẻ rồi. Cho dù giết hại, giống như trong kinh đức Phật có nêu ra câu chuyện vua Ca Lợi bị cắt xẻ thân thể. Câu chuyện này là xuất hiện ở trong “Kinh Niết Bàn”, đức Phật kể rất tỉ mỉ. Đây là Bồ Tát tu hành ở trên núi, vậy thì không ai gây trở ngại được. Vua Ca Lợi đi săn gặp Bồ Tát đang tu hành, đang tĩnh tọa. Vị quốc vương này khi đi săn, có mang theo rất nhiều người, trong số này cũng có rất nhiều cung nữ, họ nhìn thấy Bồ Tát, tướng mạo trang nghiêm, thanh tịnh, từ bi, bèn thỉnh giáo Ngài, vậy là có rất nhiều người vây quanh. Vị quốc vương này khi nhìn thấy thì không vui, cho nên liền nổi giận, và ra lệnh xử tử Lăng Trì Bồ Tát. Lăng Trì là dùng dao cắt từng miếng thịt xuống. Bồ Tát không có một chút xíu tâm oán hận nào cả, nhẫn nhục ba-la-mật viên mãn rồi. Vả lại Bồ Tát còn phát nguyện, tương lại tôi thành Phật, trước tiên tôi sẽ độ ông. Đức Phật nói vị Bồ Tát bị vua Ca Lợi cắt xẻ thân thể lúc đó là tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni. Vua Ca Lợi là ai? Là tôn giả Kiều Trần Như. Lần này gặp lại thì quan hệ giữa hai người rất tốt, là đã hóa giải hết oán rồi. Người thế gian gặp chút xíu chuyện bất như ý là ôm hận vào trong lòng. Phiền phức rồi! Đời đời kiếp kiếp oan oan tương báo không bao giờ dứt, vô cùng đáng thương. Tại sao phải đi làm những chuyện ngu ngốc này? Nhẫn Nhục tiên nhân bố thí cái gì cho vua Ca Lợi vậy? Bố thí từ bi, bố thí nhẫn nhục, bố thí thiền định, bố thí trí tuệ, vậy mới gọi là “Vừa lòng người nhận”, được tướng tốt, được tướng Bạch Hào. Câu thứ hai là: “Đại bạch hào tướng quang”, ý của chữ “Đại” là thù thắng hơn so với phía trước. Mười sáu cặp đối trong ba mươi hai câu này, câu sau mỗi cặp đối đều thêm một chữ “đại”, ý nghĩa đều giống nhau, nhưng vượt trội thù thắng hơn, đây là ý nghĩa của chữ đại.

  Thứ ba:

  “Thụy hào tướng quang”

  (Tia sáng lành tốt)

  Chữ “Thụy” nghĩa là tốt lành. Vào thời xưa người ta lấy ngọc làm tiêu chí cho điều tốt lành. Người xưa bất kể là nam hay nữ đều đeo ngọc. Ngọc là một loại trong đá quý, và họ thường dùng ngọc làm tín vật. Tín vật là giống như hiện nay chúng ta gọi là vật làm tin vậy, đây là bằng cứ, là chứng cứ. Ở chỗ này biểu thị cho lục đạo dựa vào sức oai thần của Bồ Tát Địa Tạng, cũng chính là vật làm tin của Bồ Tát Địa Tạng dành cho chúng sanh trong lục đạo. Dựa theo lý luận, phương pháp của Bồ Tát Địa Tạng tu hành, thì bạn có thể thoát khỏi Tam Đồ, thoát khỏi lục đạo, đây là chứng cứ tốt lành. Gọi nó là “Thụy hào tướng quang”. “Đại thùy hào tướng quang” thì không cần phải nói nữa rồi. Đây là tướng thù thắng nhất trong thụy hào tướng quang, gọi nó là đại.

  Thứ năm là:

 “Ngọc hào tướng quang”.  

(Tia sáng ngọc)

 Đại biểu chúng sanh lục đạo. “Ngọc” người cổ đại rất coi trọng nó. Bởi vì tính chất của ngọc ôn hòa, thấm nhuận, gọi là đức điềm đạm. Sau khi mài giũa có thể làm nên rất nhiều loại dụng cụ. Phàm phu, tính tình của phàm phu lục đạo nóng nảy, cho nên thời xưa người quân tử thường đeo ngọc. Ngọc là vật trân quý, bạn đeo ở trên người, phải luôn luôn bảo vệ nó, nên không thể hành động cẩu thả được. Dụng ý của đeo ngọc là ở chỗ này. Trên tay bạn đeo vòng ngọc, nếu như bạn nổi giận đập tay xuống bàn, thì vòng ngọc bị vỡ vụn ngay, dụng ý của nó là ở chỗ này, bảo bạn học điềm đạm giống như ngọc vậy, để ngăn ngừa nóng nảy, là lấy cái ý này. “Ngọc hào tướng quang” là biểu thị cho phàm phu trong lục đạo, xả bỏ tính nóng nảy trong nhà lửa. Nhà lửa chính là lục đạo. Tập khí trong lục đạo, là tập khí không tốt. Tăng trưởng tánh đức. Đức năng trong tự tánh không gọi là tập khí. Tại sao vậy? Vốn dĩ đầy đủ, nó không phải do huân tập mà thành. Phàm phu gọi là tập khí. Tập khí là do huân tập mà thành, không phải bản tánh, gọi là tập tánh. Khổng Lão Phu Tử nói là: “Tánh tương cận, tập tương viễn.” (Bản tánh thì giống nhau, nhưng do tập luyện thành xa nhau) Tánh là chân như bản tánh. Chân như bản tánh mọi người đều giống nhau. Phật pháp nói thấu triệt hơn nữa. Nhưng tập tánh của mỗi người khác nhau, không những là xa lìa với bản tánh của bản thân bạn, mà tập tánh của bạn cũng đều có khoảng cách rất xa với tất cả đại chúng. Cho dù các bạn rất hợp ý nhau, nhưng thời gian sẽ không dài. Trong ngạn ngữ thường nói: “Hoa không tươi được trăm ngày”. Đây là từ trong ví dụ. Hoa tươi thế nào đi nữa, cũng không cách gì duy trì được ba tháng. Dùng ví dụ đơn giản này để chứng minh, con người chung sống với nhau, lúc quan hệ tốt đẹp là giống như hoa nở vậy. “Nhân vô thiên nhật hảo” (Người không có ở tốt đẹp với nhau được nghìn ngày) Nghìn ngày là ba năm. Ở với nhau lâu rồi thì tập khí sẽ xuất hiện. Lúc mới gặp nhau không biết tập khí của bạn, nên đối với bạn rất cung kính, rất tốt! Ở lâu rồi, tập khí xấu hiện ra hết, nên tâm cung kính bị suy thoái, đạo lý này chúng ta phải biết. Làm thế nào mới có thể ở với nhau được lâu dài? Kiến tánh. Tánh đức hiển lộ thì mới có thể ở với nhau lâu dài được. Nó không phải tập khí, là tập tánh. Bậc đại thánh đại hiền trong thế gian và xuất thế gian, kiến giải của họ, cách nói của họ thật sự có học vấn. Cho nên họ chỉ dạy chúng ta trong giao tiếp giữa con người với nhau, phải giữ thái độ gì? Đạm bạc. “Quân tử chi giao đạm như thủy” (Giao tiếp giữa người quân tử với nhau đạm bạc như nước.) Đạm bạc mới lâu dài, mới có thể duy trì được lâu dài. Gần gũi quá mức thì tương lai chắc chắn sẽ xa lánh, đây là đạo lý hiển nhiên, chúng ta nhất định phải biết. Cho nên ý nghĩa mà trong “Ngọc hào tướng quang” biểu thị, là dạy chúng ta đào thải tập khí, bồi dưỡng thiên tánh. Thiên tánh chính là tánh đức. Xa lìa lục đạo, khế nhập cảnh giới thánh hiền.

  Câu thứ bảy:

  “Tử hào tướng quang”

  (Tia sáng sắc tía)

  Màu “tía” ở chỗ này biểu thị cho tạp loại chúng sanh thu được lợi ích. Phạm vi của tạp loại rộng vô cùng. Vừa mới nói rồi, tập khí của tất cả chúng sanh khác nhau, nhiễm ô khác nhau, tạo nghiệp khác nhau, quả báo khác nhau. Chỉ cần nhìn thấy hào quang của Phật đều có thể được lợi ích. Được lợi ích lớn hay nhỏ, được lợi ích dày hay mỏng, cũng do chúng sanh mà có sai khác. Nhân duyên ở trong đây trong kinh điển nói quá nhiều rồi. Chúng ta cần thể hội cho thật kỹ.

  Câu thứ chín:

  “Thanh hào tướng quang”

  (Tia sáng sắc xanh)

  Màu này biểu thị cho địa ngục, màu “xanh”. Tại sao dùng màu xanh để biểu thị cho địa ngục? Trong tiểu chú cũng có nói. Nó biểu thị cho địa ngục Hắc Nghiệp, là địa ngục dành cho người tạo tội nghiệp cực nặng. Tội gì là cực nặng vậy? Nghiệp cắt đứt pháp thân huệ mạng của tất cả chúng sanh là nặng nhất. Bạn giết hại thân của họ, trong Phật pháp nói nếu như tội nghiệp của họ không nặng thì bốn mươi chín ngày họ lại đi đầu thai rồi. Việc xả thân thọ thân trong lục đạo là hiện tượng rất bình thường. Cho nên tội giết hại mạng sống người khác không nặng, tội cắt đứt huệ mạng của người ta là rất nặng. Nói hơi thô thiển một chút là làm chướng ngại việc cầu đạo của người ta, chướng ngại người ta học Phật, phá hoại cơ duyên học Phật của đại chúng, đây chính là cắt đứt pháp thân huệ mạng của tất cả chúng sanh, tội này rất nặng. Nặng ở chỗ nào vậy? Quý vị nhất định phải biết, sau khi xả bỏ mạng sống rồi sẽ rất nhanh chóng có lại. Có thể sau khi xả xong lại được một cái thân mới còn tốt hơn, còn trang nghiêm hơn thân này nữa. Người hại người khác họ là tạo ác nghiệp, còn người bị hại thì không tạo nghiệp, không có tạo ác nghiệp. Người giết hại người khác có tội, còn người bị người ta giết hại có tội gì? Cho nên luôn luôn người bị giết hại, khi chuyển đời thì phước báo thường lớn hơn đời này, những chuyện này quá nhiều rồi. Nhưng người giết hại người khác, sau khi họ chết phần lớn là đọa ác đạo, quả báo của họ không thể tốt hơn đời này được. Cho nên thân người, thân trong lục đạo, rất dễ dàng có được mạng sống. Nhưng cơ hội học Phật thì khó rồi, không dễ gì có được. Trong kệ khai kinh có nói: “Trăm nghìn muôn kiếp khó được gặp” đó là sự thật. Cái cơ hội khó gặp như vậy, họ gặp được rồi, bạn lại phá hoại họ, bạn gây chướng ngại cho họ, bạn nói tội này nặng cỡ nào? Nếu như người này nghe pháp, thật sự sáng tỏ, thông suốt rồi, chăm chỉ tu học thì có thể trong đời này họ vãng sanh không thoái chuyển, đi làm Phật rồi. Bạn đã cắt đứt mất cơ hội trong đời này có thể vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi thành Phật làm tổ của người này rồi. Vậy tội này của bạn nặng cỡ nào? Nếu như chúng ta thật sự hiểu rõ đạo lý này, sáng tỏ chân tướng sự thật, việc xấu như thế nào cũng có thể làm, nhưng nhất định không nên chướng ngại người ta tu đạo, đặc biệt là người niệm Phật. Bởi vì bạn tu học pháp môn khác, thì trong đời này bạn rất khó thoát khỏi luân hồi, nhưng phước báo nhân thiên thì rất dễ đạt được. Duy chỉ có niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ thì trong đời này bạn rất có thể vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, viên thành Phật đạo, gặp được cơ hội này là quá khó quá khó. Nếu bạn làm mất đi cơ hội này của người ta thì tội nghiệp của bạn tạo là nặng rồi! Tội này là đọa địa ngục, chúng sanh địa ngục. Chúng sanh địa ngục nhìn thấy hào quang của Phật, xin thưa quý vị là thấy sắc xanh. Giống như khi màu sắc khác nhau, thì mỗi loại chúng sanh nhìn thấy hào quang khác nhau, mỗi loại chúng sanh nhìn thấy hình ảnh cũng khác nhau. Năm một chín tám hai, pháp sư Thánh Nhất ở Hồng Kông đi triều bái Phổ Đà Sơn, họ tổng cộng có mấy người, số người không nhiều, đại khái khoảng ba bốn người, đến lễ bái tại cửa động “Động Phạn Âm”, hy vọng có thể nhìn thấy Bồ Tát Quan Âm. Họ đi có ba người, rất tuyệt vời. Pháp sư Thánh Nhất kể với tôi, đại khái lễ lạy khoảng hơn nửa giờ đồng hồ, thì Bồ Tát Quan Âm xuất hiện, ba người đều nhìn thấy, đều rất hoan hỷ. Sau khi rời khỏi thì ba người nói chuyện với nhau, nhìn thấy hình ảnh Bồ Tát Quan Âm như thế nào? Pháp sư Thánh Nhất nhìn thấy là thân màu hoàng kim, Bồ Tát Quan Âm đội mão Tỳ Lô, là giống như hình ảnh Bồ Tát Địa Tạng vậy. Bồ Tát Địa Tạng là đội mão Tỳ Lô, thân thể là màu hoàng kim, hào quang màu vàng kim. Ba người đều là người xuất gia, một vị khác nhìn thấy là Bạch Y đại sĩ mà chúng ta thường thấy, còn một vị người xuất gia nữa thì nhìn thấy là tướng Tỳ Kheo, chính là hình ảnh người xuất gia Tỳ Kheo. Ba người đồng thời lễ bái, đồng thời nhìn thấy, mà ba người thấy khác nhau. Từ câu chuyện này, bạn mới thấy đức Phật phóng quang là đâu có phóng ra nhiều màu sắc như vậy? Đức Phật chỉ phóng ra một đạo hào quang, nhưng mỗi loại chúng sanh nhìn thấy khác nhau, không giống nhau. Hình ảnh đức Phật hiện ra là một, nhưng mỗi loại chúng sanh thấy cũng khác nhau. Đức Phật nói ra cũng chỉ một âm thanh, nhưng mỗi loại chúng sanh nghe cũng khác nhau. Đạo lý này trong kinh đức Phật cũng nói rất rõ ràng là “Cảnh chuyển theo tâm”. Đức Phật thị hiện cảnh giới này, nhưng tâm niệm của mỗi chúng sanh khác nhau, nên mỗi người chuyển đổi thành cảnh giới thọ dụng của riêng mình. Nhưng bất kể là nhìn thấy sắc tướng như thế nào, bất kể là nhìn thấy hào quang màu gì, không có ai mà không được lợi ích, đều có thể được lợi ích.

  Câu mười một.

  “Bích hào tướng quang”

  (Tia sáng sắc biếc)

  “Bích” là màu xanh thẳm. Màu xanh thì lợt, còn màu xanh biếc thì đậm. Chúng ta gọi là xanh biếc. Trong tiểu chú nói: “Biểu địa ngục trung lợi căn, như Điều Đạt tại ngục lạc như Tam Thiền.” (Biểu thị cho người lợi căn trong địa ngục, giống như Điều Đạt ở trong địa ngục mà thọ lạc như cõi Tam Thiền) Điều Đạt là Đề-Bà-Đạt-Đa. Đề Bà Đạt Đa tạo tác ác nghiệp rất nhiều, rất nặng, đọa địa ngục. Nhưng chúng ta biết, Đề Bà Đạt Đa là do Bồ Tát thị hiện, Ngài không phải phàm phu, cũng là do chư Phật Như Lai ứng hóa ở thế gian, giống như hát kịch Ngài đóng vai phản diện vậy. Ngài đóng cái vai này, diễn cái vai này cũng rất thành công. Tạo tác ác nghiệp cũng cảm thọ quả báo, đọa địa ngục. Ngài thật sự là đọa địa ngục, nhưng ở trong địa ngục có thọ tội hay không? Không có. “Lạc như Tam Thiền” (Vui như ở cõi Tam Thiền) Trong cõi trời Tứ Thiền nơi an vui nhất là Tam Thiền, an vui. Đây là giáo hóa chúng sanh từ góc độ phản diện, thị hiện cho người thế gian thấy, không nên tạo ác, tạo ác chắc chắn phải thọ ác báo. “Xà vương nhập ngục” (Vua A Xà Thế vào ngục). Vua A Xà Thế cũng là do Bồ Tát thị hiện, trong lúc lâm chung Ngài sám hối rất nhanh. Tướng địa ngục hiện tiền Ngài không có bước vào. Trương Thiện Hòa triều Đường ở Trung Quốc cũng là một ví dụ rất hay. Mọi người đều biết, người đó cũng là lúc sắp mạng chung, tướng địa ngục hiện tiền. Chỗ này nói “Tạm nhập tức xuất” (Tạm vào liền ra). Tạm nhập là không phải vào thật. Tướng địa ngục hiện tiền họ nhìn thấy, sau khi nhìn thấy họ lập tức sám hối. Tăng thượng duyên của Trương Thiện Hòa rất tốt, đúng vào lúc này gặp được một vị pháp sư đi ngang qua nhà ông, nghe thấy ông ở trong đó kêu cứu mạng. Vị pháp sư này bước vào nhìn xem và hỏi ông nguyên nhân gì kêu cứu? Ông nói nhìn thấy rất nhiều người đầu trâu, muốn đòi mạng ông. Ông làm nghề giết trâu. Vị pháp sư này vội vàng thắp một nén hương đưa cho ông cầm, bảo ông lớn tiếng niệm Phật A Di Đà. Sau khi niệm xong mấy tiếng Phật hiệu A Di Đà Phật, ông nói với mọi người là không còn thấy người đầu trâu nữa, đức Phật A Di Đà đến rồi, ông vãng sanh thế giới Cực Lạc. Cho nên sức mạnh của sám hối là không thể nghĩ bàn. Đây chính là nói người căn tánh nhạy bén tạo tác tội nghiệp địa ngục ở trong địa ngục, biết sám hối, biết quay đầu, quay đầu nhanh.

  Câu thứ mười ba:

  “Hồng hào tướng quang”

  (Tia sáng sắc hồng)

  Biểu thị cho cõi súc sanh. Chúng ta biết, người trong súc sanh tu hành rất nhiều. Người xưa có viết thành một cuốn sánh, chuyên ghi chép súc sanh tu hành mà được quả thiện. Trước đây tại Hoằng Pháp Xã Ấn Quang Đại Sư cũng in rất nhiều, tên sách là “Vật Do Như Thử” (Súc vật còn được như thế) Có lẽ đồng tu đã xem qua cuốn sách này. Bên trong ghi chép đều là chuyện súc sanh niệm Phật. Năm xưa lão pháp sư Đàm Hư giảng khai thị trong buổi Phật thất tại Hồng Kông, có kể một câu chuyện, một con gà trống vãng sanh tại chùa Đầu Đà Ôn Châu, sư đã kể câu chuyện này, đây đều là thật. Đây là ở trong chùa có người phóng sinh, đem một con gà trống đến phóng sinh. Con gà trống này rất thông minh, mỗi ngày đi theo mọi người tham dự thời khóa sáng tối. Tụng xong thời khóa rồi thì nó cũng đi ra. Cái ngày vãng sanh đó, tụng thời khóa xong rồi nó không chịu đi ra. Mọi người đều đi hết rồi, nó vẫn còn nhiễu Phật ở trong chánh điện. Thầy hương đăng bèn nói với nó, mời nó ra. Con gà trống này cũng chẳng chịu nghe theo, đứng ngay giữa chánh điện, ngước đầu nhìn tượng Phật, kêu lên ba tiếng rồi chết, vãng sanh tư thế đứng. Lúc đó lão pháp sư Đế Nhàn là phương trượng chùa Đầu Đà. Súc sanh vãng sanh, cõi súc sanh nhìn thấy hào quang Phật là màu đỏ.

  Câu dưới đây:

  “Lục hào tướng quang”

  (Tia sáng màu lục)

 Màu “Lục”. Ở trong đây chú giải cho chúng ta thấy là: “Tổng biểu ngục quỷ, đồng nhập pháp lưu” (Biểu thị chung cho địa ngục, ngạ quỷ cùng vào dòng pháp). Màu lục là biểu thị cho ba ác đạo. Chúng sanh trong ba ác đạo nhìn thấy hào quang của Phật là màu lục, đều có thể thoát khỏi ác đạo. Những súc sanh này, trong tâm chúng ta đều biết rõ, đều là người tu hành trong quá khứ, do một niệm sai lầm lúc lâm chung mà biến thành cõi súc sanh. Súc sanh là ngu si, trong lúc lâm chung không đề khởi chánh niệm được, nên lầm vào ác đạo. Dù đọa vào trong ác đạo, nhưng rốt cuộc thiện căn vẫn tương đối sâu dày, bản thân họ không phải không biết. Biết hiện nay là thân súc sanh, nhưng vẫn không quên tu hành niệm Phật, cho nên họ vẫn còn cái duyên này, vẫn có thể tiếp cận đạo tràng, vẫn có thể nhìn thấy tượng Phật, nghe thấy âm thanh của Phật. Họ nhìn thấy hào quang Phật là màu lục.

  Câu mười bảy dưới đây:

  “Kim hào tướng quang”

  (Tia sáng màu vàng y)

  Rất nhiều người chúng ta nhìn thấy hào quang Phật có màu vàng y. Người nhìn thấy màu vàng y không những căn tánh họ nhạy bén, mà nhất định rất sâu dày. Trong kinh Phật nói, thiện căn, phước đức, nhân duyên chín muồi. Chú giải nói là biểu thị cho ngạ quỷ. Ngạ quỷ quý vị phải nhớ kỹ, không nhất định đều là nói đến cõi ngạ quỷ, mà có thể biến nó thành nghiệp nhân của ngạ quỷ để nói. Nghiệp nhân của ngạ quỷ là tham. “Tuy cửu mai ác thú, nhi Phật tánh bất thất” (Tuy chôn vùi lâu nơi đường ác, mà không mất Phật tánh) Chúng ta có thể khẳng định tất cả chúng sanh địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều có Phật tánh, điều này ở trong kinh đức Phật thường nói. Tất cả chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay đều đã từng học Phật, đều đã từng nghe pháp, đều đã từng gần gũi chư Phật Như Lai. Chỉ là không nghe lời chỉ dạy, cứ thuận theo tập khí của mình mà tạo lục đạo luân hồi như cũ, không may bị đọa tam đồ. Từ vô lượng kiếp đến nay huân tập chủng tử nhiều, thiện căn vẫn tương đối sâu dày. Mặc dù đọa tam đồ, gặp được duyên Phật thì thiện căn sẽ hiện tiền. Nhất là pháp môn niệm Phật, vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc thì chúng sanh ngạ quỷ hay súc sanh vãng sanh cũng có thể nhìn thấy tia sáng vàng y, cũng nhìn thấy Phật A Di Đà đến tiếp dẫn. Có điều những đường này, ba ác đạo nghiệp chướng nặng, rất khó giác ngộ. Nếu thật sự giác ngộ thì chẳng thua kém cõi người. Phật A Di Đà độ chúng sanh là độ chúng sanh trong chín pháp giới. Điều này ở trong kinh chúng ta cũng thấy rất rõ ràng, cho nên nói là trong ba ác đạo, nếu như nói vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, nhìn thấy hào quang của đức Phật A Di Đà soi chiếu cũng là màu vàng y.

  Câu thứ mười chín dưới đây:

  “Khánh vân hào tướng quang”

  (Tia sáng tướng mây lành)

  “Khánh vân” chúng ta cũng gọi nó là “Cảnh vân”. Trong chú giải nói: “Thử biểu ly ngũ trụ phiền não, hiển ngũ phần pháp thân chi tường trưng.” (Đó là đại biểu cho điềm lành, lìa khỏi ngũ trụ phiền não, hiển bày ngũ phần pháp thân.) Khánh Vân cũng là mây màu. Giống như chúng ta nhìn thấy ráng mây vào sáng sớm và chiều tối vậy, đây là thuộc về khánh vân. Nó có rất nhiều màu sắc, đại biểu cho ngũ trụ phiền não. Thế nào gọi là ngũ trụ phiền não? Đây là danh từ Phật học, cũng là thường thức phổ thông. Trên thực tế chính là bình thường chúng ta gọi là kiến tư phiền não, trần sa phiền não, vô minh phiền não, thông thường chúng ta phân phiền não ra thành ba loại. Nói Ngũ Trụ vẫn là từ ba loại này triển khai ra. Kiến tư phiền não, kiến phiền não là một trụ, kiến hoặc. Trong Phật pháp gọi là: “Kiến nhất thiết xứ trụ địa.” Nó là sinh ra từ phân biệt, nó không phải do câu sanh. Kiến là một trụ. Trong tư hoặc thì có ba trụ, có dục giới, sắc giới, vô sắc giới, đây là tư hoặc. Tam giới thảy đều gọi là “Ái trụ địa”. Phiền não này là do câu sanh, là tập khí từ vô lượng kiếp đến nay. Tư hoặc là gì? Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, là tập khí tích lũy đời đời kiếp kiếp, là câu sinh phiền não. Hợp chung lại, đây là bốn trụ. Kiến là một trụ. Trong tư có dục giới, sắc giới, vô sắc giới, vậy là bốn trụ rồi. Hợp chung lại gọi là phiền não chướng, thông thường chúng ta cũng gọi là kiến tư phiền não. Dưới đây thêm một loại nữa là trần sa, vô minh. Trần sa với vô minh hợp chung lại thành một trụ, là “Vô minh trụ địa”. Như vậy là biến thành ngũ trụ. Vô minh trụ địa là căn bản, là thuộc về sở tri chướng. Bốn trụ phía trước là phiền não chướng. Trần sa, vô minh phía sau hợp chung lại là sở tri chướng, cũng gọi là ngũ trụ vô minh, cũng còn gọi là ngũ trụ phiền não. Từ đó cho thấy, nếu phá hết ngũ trụ rồi, thì đó chính là quả địa Như Lai. A La Hán chỉ phá được bốn địa, thoát khỏi dục giới, sắc giới, vô sắc giới rồi, trần sa, vô minh chưa phá, chưa phá được vô minh trụ địa, cho nên họ không thể ra khỏi Tam Giới. Trần sa phá rồi. Trần sa là dụ cho nhiều. Vô minh đây là căn bản. Phá được một phẩm căn bản vô minh thì thoát khỏi thập pháp giới, bắt đầu phá sở tri chướng rồi. Ở chỗ này dùng Khánh Vân Hào Tướng Quang để tượng trưng. Lìa khỏi ngũ trụ phiền não, hiển bày ngũ phần pháp thân. Cảnh giới này trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói là Bồ Tát sơ trụ viên giáo, là vào cảnh giới này rồi.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *