KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 14
Chúng ta xem Kinh văn: “Thánh Nữ hựu vấn, đại quỉ vương viết: Ngã mẫu tử lai vị cửu, bất tri hồn thần đương chí hà thú?” Thánh Nữ lại hỏi đại Quỉ Vương rằng: “Thân mẫu của tôi mới khuất gần đây, không rõ thần hồn của người phải sa vào chốn nào?)
Cô đến để hỏi thăm về sự việc của mẹ mình. Cô nói với quỉ vương Vô Độc, mẹ của tôi chết cách nay cũng không lâu, không biết hiện nay thần hồn của bà đang ở nơi nào? Người thế gian chúng ta gọi là linh hồn.
“Quỉ Vương vấn Thánh nữ viết: Bồ-tát chi mẫu tại sanh tập hà hàng nghiệp” (Quỉ Vương hỏi Thánh Nữ rằng: “Thân Mẫu của Bồ-tát khi còn sống quen làm những nghiệp gì?”)
Đây là hỏi cô, mẹ của cô lúc còn sống là làm những nghề gì? Làm những nghề gì thì sẽ biết bà đã tạo nghiệp thiện hay bất thiện, đại thể có thể phán đoán được sau khi chết bà sẽ đi về đâu.
“Thánh Nữ đáp viết: Ngã mẫu tà kiến” (Thánh Nữ đáp rằng: Thân mẫu của tôi mê tín tà đạo)
Tri kiến (thấy biết) không chánh. Chữ chánh này là chánh và tà. Sao gọi là tri kiến (thấy biết) chân chánh vậy? Chúng ta phải hiểu rõ, phải sáng tỏ. Nói lời chân thật, phàm phu lục đạo tri kiến (thấy biết) đều không chân chánh, đây là điểm chúng ta nhất định phải biết. Nếu chúng ta có tri kiến (thấy biết) chân chánh, thì sao có thể vào lục đạo được? Ngoài lục đạo là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, Phật. Thanh Văn là chánh giác, Bồ-tát là chánh đẳng chánh giác. Quỉ Vương hỏi Thánh Nữ Bà La Môn là mẫu thân của cô, vị này xưng cô là Bồ-tát, mẹ của Bồ-tát lúc còn sống làm những ngành nghề nào? Thánh Nữ nói mẫu thân của cô tà kiến. Tà chánh đều có tiêu chuẩn. Trong Phật pháp, tri kiến (thấy biết) của A-la-hán mới được xem là tri kiến (thấy biết) chính xác. Nên trong Kinh Phật nhắc nhở chúng ta, trước khi chưa có chứng được quả A-la-hán thì không nên tin vào tri kiến (thấy biết) của mình. Nếu bạn cho rằng tri kiến (thấy biết) của mình là chính xác thì xảy ra vấn đề ngay. Tại sao nói tri kiến (thấy biết) của A-la-hán mới được xem là tri kiến (thấy biết) chính xác vậy? A-la-hán đã đem kiến tư phiền não đoạn sạch rồi, cũng chính là nói nhìn sự việc gì cũng khách quan. Nói vậy quý vị dễ hiểu. Tại sao vậy? Họ không có ngã, vô ngã, đã đoạn dứt chấp ngã rồi.
Phàm phu lục đạo khởi tâm động niệm luôn có ngã. Có ngã thì có thành kiến, có quan niệm chủ quan, bạn tự nhiên sẽ nhìn sai tất cả sự lý ngay. Tôi cho là đúng, tôi cho là chính xác, cách nhìn của tôi, vậy là hỏng rồi! Cho nên đoạn kiến tư phiền não xong thì thấy biết mới được xem là chính xác, tiêu chuẩn là ở chỗ này. Chưa đoạn kiến tư phiền não thì làm gì có tri kiến (thấy biết) chính xác được?
Chúng ta hiện nay phải làm thế nào? Chúng ta mới học Phật, một phẩm kiến tư phiền não cũng chưa có đoạn. Phương pháp duy nhất là nương theo Phật, đây là nói đến tầm quan trọng của tam quy y: Y pháp bất y nhân. Học pháp nhất định vẫn cần phải có thầy hướng dẫn, không có thầy hướng dẫn, bạn ở trong Phật pháp cũng không có cách gì nương tựa được. Kinh luận Phật nói quá nhiều, nếu bạn nương tựa vào tất cả là bạn không có trí tuệ. Không có trí tuệ, thấy Phật ở trong Kinh này nói không, trong Kinh kia nói có, rốt cuộc là không hay là có? Bạn liền rối mù ngay, bạn sẽ không có cách gì nương tựa được. Lúc tôi mới học Phật, ở đại học Đài Loan có một vị giáo sư cũng rất nổi tiếng, hiện nay qua đời rồi. Ông nói với tôi: trong Kinh Phật có khi nói có đạo lý, có khi không có đạo lý. Tôi hỏi những chỗ nào không có đạo lý vậy? Ông nói: Tôi có xem qua “Kinh Kim Cang”. Tôi hỏi “Kinh Kim Cang” nói thế nào? Ông nói: “giống như hai thùng nước đổ qua đổ lại, một lúc nói có, một lúc nói không, rốt cuộc là không hay là có? Khiến cho người ta cảm thấy mơ hồ”. Cho nên Phật nói: Phật pháp nếu không có người giảng giải thì tuy có trí cũng không thể hiểu được. Đừng nhìn thấy là giáo sư đại học nổi tiếng, không được đâu! Có thể thấy tri kiến (thấy biết) chích xác khó. Không có tri kiến (thấy biết) chính xác, nếu là người tà kiến còn đi chế nhạo phỉ báng Tam Bảo. Sợ là bản thân chúng ta tuy là xuất gia cũng phạm cái lỗi này, vô tình tạo những tội nghiệp này mà mình không biết, luôn cho rằng mình là đúng, mình không có sai, thấy người khác lỗi lầm.
“Thiết hoặc tạm tín, hoàn hựu bất kính.” (Hoặc có lúc tạm thời tin chánh pháp, xong rồi chẳng kính).
Bốn câu nói này của cô, chúng ta hãy suy nghĩ thật tỉ mỉ xem, quan sát thế gian này, lại soi lại bản thân, e rằng mình cũng đều phạm cả. Lòng tin vào đạo của chúng ta là như sương mai, lúc có lúc không, không qua nổi thử thách, hơi có chút sóng gió, thì đạo tâm của chúng ta liền mất hết, niềm tin liền không còn. Chữ “kính” này là càng không dễ dàng. Kính được sinh ra từ niềm tin. Không có tín làm gì có tâm kính trọng được? Đối với Phật Bồ-tát, đối với cha mẹ còn không cung kính, thì làm sao có thể kính người, kính sự, kính vật được? Miễn bàn. Cho nên bạn mới biết việc này khó biết bao. Chúng ta đọc 4 câu này phải cảnh tỉnh mình, thường xuyên đem 4 câu nói này để trước mặt để răn mình.
“Tử tuy nhật thiển, vị tri sanh xứ.” (Dầu khuất không bao lâu, mà chưa rõ đọa lạc vào đâu?)
“Nhật thiển” là chết chưa có bao lâu, không biết bà hiện nay sanh vào nơi nào? Điều này chứng tỏ Quỉ Vương đã biết, đại khái biết bà rơi vào đường nào rồi.
“Vô Độc vấn viết: Bồ-tát chi mẫu tánh thị hà đẳng” (Vô Độc hỏi rằng: “Thân Mẫu của Bồ-tát tên họ là gì?)
Đây lại hỏi tiếp, Mẫu Thân của Bồ-tát tên họ là gì?
“Thánh Nữ đáp viết: Ngã phụ ngã mẫu câu Bà La Môn chủng.” (Thánh Nữ đáp rằng: Thân phụ và thân mẫu của tôi đều dòng dõi Bà La Môn).
Dòng dõi này ở Ấn Độ được xem là quý tộc. Ấn Độ từ xưa đến nay phân ra 4 giai cấp rất nghiêm ngặt, dòng dõi tôn quý nhất là Bà La Môn.
“Phụ hiệu Thi La Thiện Hiện, mẫu hiệu Duyệt Đế Lợi” (Thân phụ tôi hiệu là Thi La Thiện Hiện. Thân mẫu tôi hiệu là Duyệt Đế Lợi.)
Nói ra tên của cha mẹ của cô, tên này đều rất hay, đều là tên hay cả. Tuy tên rất hay, nhưng việc làm lại không hay, tên không phù hợp với việc làm thật.
“Vô Độc Hiệp chưởng khải Bồ-tát viết: “Nguyện thánh giả khước phản bổn xứ vô chí ưu ức bi luyến.” (Vô Độc chắp tay thưa Thánh Nữ rằng: “Xin Thánh Nữ hãy trở về, chớ đem lòng thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa).
Sau khi Vô Độc nghe xong, đây là khải bạch. Khải nghĩa là rất cung kính, là báo cáo với Thánh Nữ rất cung kính. Ý nghĩa của khải, dùng cách nói hiện nay chính là báo cáo, là nói rất cung kính. Xin Bồ-tát có thể trở về, đừng lo nghĩ nữa. Tại sao vậy?
“Duyệt Đế Lợi tội nữ” (Tội nữ Duyệt Đế Lợi)
Quả thật bà đã từng đến địa ngục, đã thọ khổ ở nơi này, không sai, chuyện của bà mọi người đều biết.
“Sanh thiên dĩ lai Kinh kim tam nhật.” (Được sanh lên cõi trời đến nay đã ba ngày rồi).
Bà hiện nay không còn ở đây nữa, là có thọ tội ở đây nhưng nay đã sanh lên cõi trời Đao Lợi, đã sanh thiên rồi.
“Vân thừa hiếu thuận chi tử, vi mẫu thiết cúng tu phước, bố thí Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như-Lai tháp tự” (Nghe nói nhờ con gái của người có lòng hiếu thuận, vì mẹ sắm sửa lễ vật, tu tạo phước lành, cúng dường chùa tháp, thờ đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như-Lai)
Đây là nghe nói bà có người con gái hiếu thuận, tu phước cho bà. Cô tu phước, bố thí, cúng dường Phật, đây là lòng hiếu cảm động trời đất, tâm hiếu thảo chân thành cảm động trời đất quỉ thần. Trong Kinh nói với chúng ta, hiếu dưỡng cha mẹ gồm: Nuôi dưỡng xác thân của cha mẹ, dưỡng tâm của cha mẹ, dưỡng chí của cha mẹ. Người thế gian thường nói, mong con trai thành rồng, con gái thành phụng, đó là chí của cha mẹ. Cũng chính là hy vọng con cái của mình trong tương lai có thành tựu đích thực, tài đức hơn người. Nhưng rất nhiều bậc cha mẹ trong thế gian có cái nhìn sai lệch, cho rằng đạt được công danh phú quý thế gian thì chính là tài đức hơn người. Quan niệm này là sai lầm. Như thế nào mới là tài đức hơn người đích thực vậy? Siêu phàm nhập thánh, thành Phật, thành Bồ-tát, đó mới là tài đức hơn người đích thực. Toàn bộ tất cả thành tựu thế gian đều không thể sánh bằng, thế gian thành tựu như thế nào đi nữa cũng không thể ra khỏi lục đạo luân hồi. Chỉ có làm Phật, làm Bồ-tát, không những thoát khỏi lục đạo mà còn thoát khỏi thập pháp giới, đây mới là thành tựu đích thực. Người làm cha mẹ không có học Phật, không hiểu được đạo lý này, không hiểu rõ chân tướng sự thật. Chúng ta tiếp xúc Phật pháp, hiểu rõ rồi, chúng ta phải làm được. Không thể nói cha mẹ không biết thì chúng ta không làm. Việc tốt, việc thiện, tuy cha mẹ không biết, đợi khi chúng ta làm được thì cha mẹ cũng được lợi ích lớn lao. Mẹ của Bồ-tát, thì tưởng tượng nổi không?
Cúng Phật, bố thí ba loại hạnh này đều có. Ở đây nói “thiết cúng”, đây là phần trước chúng ta học qua, Thánh Nữ Bà La Môn cúng dường hình tượng Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như-Lai, bởi vì đúng vào thời kỳ tượng pháp của Ngài, cảm động Phật đến dạy cô phương pháp tu hành. Sau khi cô trở về, dũng mãnh tinh tấn, y giáo phụng hành, đây là tu phước, đây là bố thí. Tu phước, bố thí cho ai vậy? Cho người mẹ đã khuất của cô. Cho nên cô tu bố thí này là bố thí pháp, không phải là bố thí tài. Ở trong cúng dường đây là cúng dường pháp, cúng dường y giáo tu hành, phước này quá lớn rồi. Cho nên quỉ vương nói:
“Phi duy Bồ-tát chi mẫu, đắc thoát địa ngục.” (Chẳng phải chỉ riêng thân mẫu của Bồ-tát đặng thoát khỏi địa ngục.)
Không những là mẹ của Bồ-tát được thoát khỏi địa ngục, thoát khỏi biển khổ.
“Ưng thị Vô Gián tội nhân, thử nhật tất đắc thọ lạc câu đồng sanh hất.” (Mà ngày đó, những tội nhơn Vô Gián cũng đều được vui vẻ, đồng đặng thác sanh cả.)
Mẹ của Bồ-tát được phước của người con hiếu thảo là Bồ-tát, bà được sanh thiên rồi. Người ở địa ngục chịu tội đồng thời với bà, thảy đều được thơm lây, đều nhờ phước báo đó mà cùng được sanh thiên cả, chứ không phải chỉ có mỗi một mình mẹ của Bồ-tát sanh thiên, số người cùng chịu tội với bà ở trong địa ngục đồng thời sanh thiên. Sau đó bạn mới biết phước báo của bố thí không thể nghĩ bàn, công đức y giáo tu hành của Thánh Nữ Bà La Môn không thể nghĩ bàn, đây là sự thật chắc chắn, không phải ở đây kể chuyện, không phải đem chuyện này để khuyến thiện. Quý vị phải biết là sự thật vô cùng xác thực. Bản thân bạn nếu tu hành thành tựu, thì không biết sẽ độ được bao nhiêu người? Cho nên ở trong Phật pháp thường hay nói không thể nghĩ bàn, cảnh giới không thể nghĩ bàn. Chúng ta từ những chỗ này nhiều ít cũng có thể thể hội được vài phần.
“Quỉ Vương ngôn tất hiệp chưởng nhi thối” (Nói xong, Quỉ Vương chắp tay chào Thánh Nữ mà cáo lui.)
Quỉ Vương báo cáo xong sự việc này rồi, bèn cáo lui.
“Bà La Môn nữ tầm như mộng quy”(Bấy giờ, Thánh Nữ dường như chiêm bao chợt thức tỉnh.)
Là giống như trải qua một giấc mộng vậy. Thực ra cô không phải ở trong mộng, mà là ở trong định. Xuất định từ trong định.
“Ngộ thử sự dĩ.” (Rõ biết việc đó rồi)
Cô giác ngộ rồi. Cô hoàn toàn hiểu rõ, hoàn toàn sáng tỏ sự việc này.
“Tiện ư Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như-Lai chi tiền lập hoằng thệ nguyện: Nguyện ngã tận vị lai kiếp, ứng hữu tội khổ chúng sanh quảng thiết phương tiện sử lệnh giải thoát.” (Bèn đối trước tháp tượng của đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như-Lai mà phát thệ nguyện rộng lớn rằng: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai, những chúng sanh mắc phải tội khổ thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát.)
Đây là Bồ-tát Địa Tạng phát nguyện lần thứ nhất lúc ở nhân địa. Lần đầu tiên phát tâm học Phật là Đại Trưởng Giả, nhìn thấy hình tượng Phật thì phát tâm. Đây là phần trước tôi nhiều lần nhắc nhở với các đồng tu hình ảnh phải tốt. Thường xuyên nghĩ rằng chúng ta là đệ tử của Như-lai, đặc biệt là đệ tử của Phật A-Di-Đà. Di Đà là: “Ánh sáng tôn quý nhất, là vua của chư Phật”, chúng ta làm sao có thể làm mất mặt Phật A-Di-Đà được? Nếu như trong tâm chúng ta khởi một niệm bất thiện là có lỗi với Phật A-Di-Đà, chúng ta làm một chuyện bất thiện thì chúng ta liền bị tội nghiệp rất nặng, làm sao có thể xứng đáng là học trò của Phật A-Di-Đà được? Học trò của Phật A-Di-Đà là như thế này sao? Thật sự làm một học trò tốt của Phật A-Di-Đà thì nhất định phải y giáo phụng hành. Tại sao bảo bạn hằng ngày phải đọc tụng Đại Thừa vậy? Hằng ngày đọc tụng Đại Thừa chính là hằng ngày ghi nhớ lời giáo huấn của Phật A-Di-Đà dạy cho bạn. Những gì Phật dạy chúng ta làm, chúng ta có làm được chưa? Phật dạy chúng ta không được phép làm, có phải chúng ta vẫn đang tạo tác không? Thật sự làm học trò của Phật A-Di-Đà đúng như ý nghĩa đó, thì bạn đời này nhất định được sanh Tịnh Độ. Hiện đang sống đây, người ta không tôn kính bạn cũng chẳng thể trách họ! Người ta là phàm phu, phàm phu mắt thường, họ ngay cả Phật còn không tôn kính thì làm sao có thể tôn kính bạn được? Nhưng bạn phải biết, chư Phật hộ niệm tán thán, long thiên, quỉ thần, Bồ-tát tôn trọng bạn. Tại sao vậy? Những người này họ có tha tâm thông, có thiên nhãn thông, họ có thể nhìn thấy tâm thiện của bạn, họ biết bạn khởi tâm động niệm. Phàm phu thì không biết, phàm phu ngu si. Bồ-tát Địa Tạng ở chỗ này dạy chúng ta phát nguyện, làm nên tấm gương để cho chúng ta thấy. Nguyện này chính là Tứ Hoằng Thệ Nguyện: “Nguyện ngã tận vị lai kiếp” (Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai). Nguyện này về mặt thời gian là không có kết thúc, là vĩnh hằng, không phải nói là sự việc này tôi phải làm thời gian bao lâu, không có, tôi phải làm một kiếp, làm mười kiếp, làm trăm kiếp, làm ngàn kiếp, không có, mà tận đến bờ mé đời vị lai. Đối tượng được giúp đỡ là những chúng sanh tội khổ này cũng không có nói nhất định. Chúng sanh mắc phải tội khổ, không phân biệt oán hay thân, chỉ cần nhìn thấy có chúng sanh bị khổ bị nạn Ngài liền: “Quảng thiết phương tiện sử lệnh giải thoát” (thì tôi lập ra nhiều phương tiện làm cho chúng đó được giải thoát). Lập ra nhiều phương tiện là liên quan đến ba nguyện phía sau này. Phía trước là chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Lập ra phương tiện gì vậy? Lập ra nhiều phương tiện gì vậy? Đoạn phiền não, học pháp môn, thành Phật đạo, đây đều là lập ra nhiều phương tiện. Bản thân chúng ta không đoạn phiền não, không học pháp môn thì dùng phương pháp gì để độ chúng sanh? Từ đó cho thấy, Bồ-tát đoạn phiền não, đoạn tập khí, học pháp môn không phải vì mình, mà là vì tất cả chúng sanh tội khổ. Thậm chí là thành Phật đạo cũng không phải vì mình. Xem thấy những chúng sanh tạo tác tội nghiệp cực nặng trong thế gian này, chúng ta phải có tâm nguyện này. Tất cả mọi việc tu học ngày nay của ta là vì họ, không phải vì mình. Vì mình có thể qua loa một chút, có thể tùy tiện một chút, nhưng nhìn thấy đông đảo chúng sanh đều đang tạo tội nghiệp cực nặng, thì chúng ta một chút tâm giải đãi, qua loa cũng không được phép có. Tại sao vậy? Phải cứu độ những chúng sanh khổ nạn này, mọi việc phải nghiêm túc, mọi việc phải dũng mãnh tinh tấn.
Như thế bạn muốn hỏi: tôi tự mình tu hành thành tựu có được không? Có thể độ chúng sanh không? Kinh văn này bày ra ở đây, một mình cô Bà La Môn tu hành, một mình cô thành tựu, không những mẹ cô được độ, mà những chúng sanh thọ khổ với mẹ cô ở nơi này, nhóm những chúng sanh bị bắt giam trong địa ngục này, thảy đều sanh lên cõi trời. Đây chẳng phải là sự thật bày ra ở chỗ này sao? Chúng ta còn nghi hoặc gì nữa? Một người thành tựu thì có thể độ được vô lượng vô biên chúng sanh, chỉ sợ là bản thân bạn không có thành tựu. Làm ra vẻ như vậy là không được, như vậy thì đâu thể giúp người được? Nhất định phải làm thật từ bản thân mình. Dùng cách nói của thế gian để nói, chúng ta đề ra bốn tốt: “Giữ tâm tốt, làm việc tốt, nói lời tốt, làm người tốt”. Những năm gần đây ở các nơi trên thế giới chúng ta đề xướng bốn tốt, làm nên hình ảnh tốt cho đại chúng xã hội, khiến cho đại chúng xã hội nhìn thấy hình ảnh này, ở trong Kinh đoạn đầu tiên nói Trưởng Giả Tử. Hình ảnh, hình tượng mà Phật thị hiện khiến cho đại chúng xã hội tiếp xúc đến hình tượng này có được sự cảm ngộ, có thể cảm động, đây chính là độ chúng sanh. Khiến họ giác ngộ, họ quay đầu, họ học tập theo bạn, học tập theo Phật pháp thì người này là được độ. Người được độ tất nhiên là dần dần sẽ thêm nhiều. Người này giác ngộ, họ sẽ khuyên bảo những người xung quanh, bạn bè thân thuộc, hàng xóm láng giềng của họ. Bạn nói sức ảnh hưởng này bao lớn? Nhất định không được cho rằng một mình tôi tu hành thì có tác dụng gì. Trong Kinh nói với chúng ta, một người tu hành sẽ tạo ra hiệu quả không thể nghĩ bàn. Phẩm Kinh này quan trọng nhất chính là phần sau Bồ-tát Địa Tạng làm nên tấm gương dạy chúng ta phát tâm.
“Phật cáo Văn Thù Sư Lợi: “Thời quỉ vương Vô Độc giả đương kim Tài Thủ Bồ-tát thị. Bà la môn nữ giả tức Địa Tạng Bồ-tát thị.” (Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Quỉ Vương Vô Độc trước đó nay chính ông Tài Thủ Bồ-tát. Còn Thánh Nữ bà la môn đó nay là Địa Tạng Bồ-tát vậy.)
Đây là những người quá khứ vô lượng kiếp về trước, hiện nay đều thành tựu. Quỉ Vương Vô Độc thời đó, hiện nay là Bồ-tát Tài Thủ. Cô Bà La Môn thời đó, hiện nay chính là Bồ-tát Địa Tạng. Đây là kể chuyện tu nhân của vô lượng kiếp về trước.
Mời xem Kinh văn.
Kinh Địa Tạng Bồ-Tát Bổn Nguyện
Phẩm Thứ Hai: Phân Thân Tập Hội
“Nhĩ thời bách thiên vạn ức, bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết, vô lượng a-tăng-kỳ-kiếp thế giới sở hữu địa ngục xứ, phân thân Địa Tạng Bồ-tát, câu lai tập tại Đao Lợi thiên cung” (Lúc đó phân thân Địa Tạng Bồ-tát ở các nơi địa ngục trăm nghìn muôn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết, vô lượng vô số thế giới đều đến hội họp tại cung trời Đao Lợi.)
Quý vị có nhìn ra mục đích thực sự của đoạn Kinh văn này ở chỗ nào hay không? “Nhĩ thời” là lúc Phật Thích Ca Mâu Ni mở ra lần pháp hội này ở cung trời Đao Lợi, lúc mà chư Phật Như-lai, Bồ-tát, đại chúng từ mười phương thế giới đến tụ hội. Khi kết thúc đoạn, Thế Tôn cùng Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi một bên hỏi, một bên đáp, chúng ta nhìn thấy con số phía dưới này thật sự là con số thiên văn, không có cách gì tính được.
“Bách thiên vạn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết, vô lượng a-tăng-kỳ thế giới.” (Trăm nghìn muôn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết, vô lượng vô số thế giới.) Thế giới vô biên, chúng sanh vô tận. Phân thân của Bồ-tát Địa Tạng ở các nơi địa ngục, Kim Địa Tạng ở Cửu Hoa Sơn của chúng ta cũng là một trong những phân thân của Ngài, vô lượng vô biên phân thân, là một trong những phân thân, “câu lai tập tại Đao Lợi thiên cung” (Đều đến hội họp tại cung trời Đao Lợi). Quí vị nên biết, điều này chứng tỏ thế gian người tạo tác tội nghiệp bị đọa địa ngục rất nhiều, Bồ-tát Địa Tạng mới phân thân, phân ra nhiều thân như vậy, bạn mới biết có bao nhiêu địa ngục? Thế gian này có bao nhiêu người tạo tác tội nghiệp địa ngục? Ý nghĩa chủ yếu là ở chỗ này. Cho nên nhìn thấy hiện tượng này, thật sự là quá đáng sợ. Tại sao chúng sanh tạo những tội nghiệp này vậy? Không có người dạy. Tất cả chúng sanh đều có thiện căn, đều có tâm hướng thiện, đáng tiếc là không có người hướng dẫn, không có người giúp họ.
Dụng ý thật sự của Phật ở trong Kinh này là dạy chúng ta nên học theo Bồ-tát Địa Tạng, phải làm một phân thân của Bồ-tát Địa Tạng. Chúng ta có thể phát nguyện, chúng ta có thể tự mình làm gương, làm mẫu mực, lúc nào cũng khuyên nhủ tất cả chúng sanh đoạn ác tu thiện, đây chính là tâm của Bồ-tát Địa Tạng, nguyện của Bồ-tát Địa Tạng, hạnh của Bồ-tát Địa Tạng. Tứ chúng đồng tu mọi lúc mọi nơi phải nhớ kỹ là phải làm tấm gương cho mọi người. Ở trong gia đình, bạn phải làm gương cho gia đình bạn; ở trong đạo tràng, bạn phải làm gương cho tất cả tứ chúng đồng tu trong đạo tràng này. Không được nói là họ không làm, tại sao tôi phải làm? Nói vậy là bạn sai rồi! Chẳng khác nào họ đọa địa ngục tại sao tôi không đọa địa ngục? Chẳng phải là ý này sao? Họ đọa địa ngục, ta phải cứu họ. Ta làm sao cứu họ đây? Ta làm gương cho họ thấy, như vậy mới đúng. Họ tham tiền của, tại sao ta không tham? Họ tranh đoạt lợi, tại sao ta không tranh? Vì đây chính là tạo tác hình ảnh địa ngục, kéo hết tất cả chúng sanh đi vào địa ngục, làm như vậy là sai rồi. Chúng ta nhìn thấy người khác đọa địa ngục, thì chúng ta phải tạo nên hình ảnh tốt làm sao thoát khỏi địa ngục, thoát khỏi biển khổ, vậy là đúng rồi. Không được phép nói người ta làm, biết bao nhiêu người thảy đều làm, người trên toàn thế giới đều làm, chỉ một mình tôi không làm. Người làm là do mê hoặc điên đảo, người không làm thì giác ngộ, quay đầu, bạn phải hiểu đạo lý này. Trên thế giới này dùng lời nói để khuyên người ta, rất khó! Bạn khuyên người khác làm, tại sao bản thân bạn không làm? Người ta làm sao có thể tin được chứ? Nhất định phải tự mình làm được, thì mới có thể tạo niềm tin cho người khác được, mới có thể khuyến dụ người khác hướng thiện. Nhất định phải tự mình cố gắng thực hiện. Phật chỉ dạy Thánh Nữ Bà La Môn như vậy, cũng chính là chỉ dạy đại chúng chúng ta. Nhất định phải nghiêm túc, phải quay đầu, phải dũng mãnh tinh tấn.
Xem tiếp Kinh văn dưới đây: “Dĩ Như-lai thần lực cố, các dĩ phương diện dữ chư đắc giải thoát tùng nghiệp đạo xuất giả, diệc các hữu thiên vạn ức na-do-tha số, cộng trì hương hoa lai cúng dường Phật.” (Do nhờ thần lực của Như-lai, phân thân đó hiệp với những chúng đã được giải thoát ra khỏi chốn nghiệp đạo ở mười phương, cũng đều đông đến số nghìn muôn ức na-do-tha, đồng cầm hương hoa đến cúng dường Phật.)
Đoạn Kinh văn này nói về những đại chúng cùng đến với Bồ-tát Địa Tạng này. Nói lời thành thật, số đại chúng này chính là nhờ tiếp nhận lời giáo huấn của Bồ-tát Địa Tạng mà được giác ngộ. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói là phàm phu tâm lượng lớn. Ngày nay phân thân của Địa Tạng thảy đều tập trung về cung trời Đao Lợi. Những phàm phu tâm lượng lớn này thoát thân từ trong địa ngục, cũng theo cùng Bồ-tát Địa Tạng về cung trời Đao Lợi để yết kiến đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngày đại hội hôm nay ở cung trời Đao Lợi vô cùng thù thắng. Tại sao vậy? Tất cả chư Phật Như-lai đều đến nơi này, lần cúng dường Phật này thật sự là rất viên mãn. Những đại chúng ở thế giới Cực lạc vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc còn phải phân thân đến khắp các cõi nước chư Phật trong hư không pháp giới để cúng dường Phật nghe pháp. Hôm nay chư Phật Như-lai thảy đều tập trung về giảng đường này rồi, nên không cần phải phân thân đến các cõi nước khác. Những phàm phu tâm lượng lớn này đi theo cùng Bồ-tát Địa Tạng có phước báo lớn, chỉ cần ở tại nơi đây cùng lúc có thể cúng dường khắp tất cả chư Phật Như-lai. Bạn thấy việc này thù thắng biết bao, thù thắng hơn so với thế giới Cực lạc quá nhiều rồi. Từ chỗ này chúng ta mới thể hội được sự thù thắng của pháp môn Địa Tạng, tu học Địa Tạng thù thắng, chỗ nào cũng biểu hiện ra hạng nhất, hơn cả thế giới Cực lạc, đây là đại căn đại bổn (gốc rễ chính yếu) của tất cả pháp môn.
Họ đều đem hương hoa đến cúng dường Phật. Hương hoa là pháp tượng trưng. Hương tượng trưng cho niềm tin thanh tịnh. Hoa tượng trưng cho y giáo phụng hành, hoa biểu thị cho nhân, tu nhân chứng quả. Những gì ở đây biểu thị là như giáo tu hành cúng dường, đây mới là cúng dường chân chánh.
Mời xem Kinh văn: “Bỉ chư đồng lai đẳng bối, giai nhân Địa Tạng Bồ-tát giáo hóa, vĩnh bất thối chuyển ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề” (những chúng cùng đến với phân thân đó, thảy đều nhờ Địa Tạng Bồ-tát giáo hóa làm cho trụ nơi đạo vô thượng chánh-đẳng chánh-giác trọn không còn thối chuyển.)
Phật ở chỗ này dạy chúng ta, nói cho chúng ta biết, những đại chúng cùng đến với Bồ-tát Địa Tạng có thể tham dự pháp hội tại cung trời Đao Lợi lần này đều là những người tiếp nhận sự giáo hóa của Bồ-tát Địa Tạng mà được sanh tín căn, chúng ta gọi là ngũ căn, ngũ lực: Tín, tấn, niệm, định, tuệ. Họ có căn, điều này thật đáng quí. Có căn mới vĩnh viễn không thối chuyển nơi vô thượng Bồ đề. Những người này sau khi tín căn thành tựu, thì mỗi tâm niệm đều hướng về vô thượng Bồ đề. Tất cả pháp thế xuất thế gian đều không có lưu luyến, chỉ mong đạt được vô thượng Bồ đề.
“Thị chư chúng đẳng, cửu viễn kiếp lai, lưu lãng sanh tử, lục đạo thọ khổ, tạm vô hưu tức.” (Những chúng đó từ kiếp lâu xa đến nay trôi lăn trong vòng sanh tử ở trong sáu đường, chịu những điều khổ sở không lúc nào tạm ngừng dứt.)
Đây là nói những phàm phu này, những phàm phu tâm lượng lớn này, trước tiên kể lại chuyện quá khứ họ ở trong sáu nẻo luân hồi, nói thực ra chính là nhóm người chúng ta đây, sanh tử mệt mỏi chưa từng được nghỉ ngơi bao giờ.
“Dĩ Địa Tạng Bồ-tát quảng đại từ bi, thâm thệ nguyện cố, các hoạch quả chứng.” (Nhờ lòng từ bi lớn và thệ nguyện sâu dày của Ngài Địa Tạng Bồ-tát, nên tất cả đều chứng được đạo quả.)
Câu này là nói nhân duyên được độ. Nhờ lòng từ bi chỉ dạy của Bồ-tát Địa Tạng và đủ thứ phương tiện của Ngài, cho thấy câu mà trong Phật pháp thường nói: “Từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”. Bồ-tát Địa Tạng có tâm đại từ bi. Đủ thứ phương tiện là nói sự khéo léo tinh tế của Ngài, vì tất cả chúng sanh mà tạo ra đủ dạng thị hiện. Hay nói cách khác, vì tất cả chúng sanh mà làm ra đủ dạng hình ảnh khác nhau, khiến tất cả chúng sanh thấy sắc, nghe tiếng, tiếp xúc những hình ảnh này mà được cảm ngộ, biết quay đầu, đây chính là phương tiện thiện xảo của Bồ-tát. Cho nên Bồ-tát làm tấm gương, mẫu mực, mực thước, mô phạm cho chúng sanh. Những người này sau khi tiếp xúc đều được cảm ngộ mà quay đầu tu hành chứng quả. Tuy quả vị này không phải giống như những quả vị thường nói là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, mà Họ là chứng được quả vị đại tâm phàm phu (phàm phu tâm lượng lớn). Điều này là vô cùng hiếm có. Tâm Bồ đề sinh khởi rồi, phiền não chưa đoạn, tâm Bồ đề sinh rồi, đây gọi là đại tâm phàm phu (phàm phu tâm lượng lớn).
“Ký chí Đao Lợi, tâm hoài dũng dược, chiêm ngưỡng Như-lai mục bất tạm xả.” (Đại chúng đó khi đã đến cung trời Đao Lợi, lòng họ vui mừng hớn hở, chiêm ngưỡng đức Như-lai mắt nhìn mãi không rời.)
Đây là miêu tả nhóm người này, khi đã về đến cung trời Đao Lợi, cái niềm vui đó, vui mừng hớn hở, hoàn toàn biểu hiện ra ngoài, tỏ lộ ra lòng cảm ơn, cảm kích ơn chỉ dạy của Bồ-tát Địa Tạng, ơn của chư Phật nhiếp thọ, hoàn toàn biểu lộ không che giấu.
Xem tiếp Kinh văn dưới đây: “Nhĩ thời Thế Tôn thư kim sắc tý, ma bách thiên vạn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết vô lượng a-tăng-kỳ thế giới chư phân thân Địa Tạng Bồ-tát ma-ha-tát đảnh.” ( Bấy giờ, Thế Tôn giơ tay sắc vàng xoa đảnh của hóa thân Địa Tạng đại Bồ-tát trong trăm nghìn muôn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết, vô lượng vô số thế giới, .)
Ý nghĩa này, nói ra nhiều con số như vậy là có ý nghĩa sâu vô cùng. Chứng tỏ chúng sanh tạo tác ác nghiệp trong mười phương thế giới là vô lượng vô biên. Ý nghĩa đích thực của nó là ở chỗ này, cho nên Bồ-tát Địa Tạng mới phân ra nhiều thân như vậy để giúp những chúng sanh khổ nạn này. Nếu Bồ-tát Địa Tạng phân thân càng nhiều thì chúng ta biết địa ngục càng nhiều. Biết địa ngục càng nhiều thì nên hiểu rằng số người tạo tác tội nghiệp địa ngục và thọ khổ báo trong địa ngục sẽ càng nhiều. Ở cung trời Đao Lợi, Thế Tôn an ủi Bồ-tát Địa Tạng, sau khi xoa đảnh xong.
“Nhi tác thị ngôn:” (Mà dạy rằng:)
Xoa đảnh là an ủi. Phật bèn nói rằng:
“Ngô ư ngũ trược ác thế giáo hóa như thị cương cường chúng sanh, lệnh tâm điều phục, xả tà quy chánh. Thập hữu nhất nhị, thượng ác tập tại.” ( Ta ở trong đời ác ngũ trược giáo hóa những chúng sanh cang cường như thế, làm cho lòng chúng nó điều phục bỏ tà về chánh; nhưng trong mười phần vẫn còn một hai phần chúng sanh quen theo tánh ác.)
Đây là Phật Thích Ca Mâu Ni dặn dò Bồ-tát Địa Tạng tại cung trời. Trách nhiệm của Bồ-tát Địa Tạng nặng hơn ai hết. Khi Phật không còn tại thế, thì sứ mệnh giáo hóa chúng sanh được ủy thác cho Bồ-tát Địa Tạng. Quí vị nên biết, đạo lý này ở chỗ nào vậy? Tại sao Phật Thích Ca Mâu Ni không đem việc độ hóa chúng sanh ủy thác cho Bồ-tát Quan Âm? Tại sao không giao phó cho Bồ-tát Phổ Hiền hay Bồ-tát Văn Thù vậy? Các Ngài đều là đại Bồ-tát tại sao không giao phó, mà phải giao phó cho Bồ-tát Địa Tạng vậy? Nói lời thành thật, những vị Bồ-tát đó không thể độ nổi, không có cách gì độ được, chỉ có Bồ-tát Địa Tạng mới có thể độ được. Mọi người có hiểu ý nghĩa này hay không? Bồ-tát Địa Tạng dạy điều gì vậy? Hiếu thân tôn sư. Nếu như người này không hiếu thảo cha mẹ, không tôn trọng thầy tổ, thì Phật Bồ-tát nào đến cũng không thể độ được. Bồ-tát Địa Tạng dạy học là đặt nền móng, dạy lớp một tiểu học, Bồ-tát Quan Âm dạy lớp hai, Bồ-tát Văn Thù dạy lớp ba, Bồ-tát Phổ Hiền dạy lớp bốn. Lớp một còn chưa có dạy tốt, vậy thì những lớp sau đó không thể dạy nổi. Cho nên quí vị phải biết, thành Phật bắt đầu từ đâu vậy? Hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy tổ. Môn học Bồ-tát Địa Tạng mở ra dạy chính là hiếu thân tôn sư, không học tốt môn học này thì đừng bàn đến những môn khác. Làm tốt hiếu thân tôn sư rồi thì Bồ-tát Quan Âm mới có thể dạy tiếp được, mới dạy bạn đại từ đại bi, đem hiếu thân tôn sư mở rộng, đó là việc của Bồ-tát Quan Âm dạy. Đạo lý là như vậy. Cho nên khi Phật không còn tại thế, thì nhất định phải để cho Bồ-tát Địa Tạng đại biểu cho Phật. Mặc dù không thể nâng cao cảnh giới này, nhưng bạn thật sự có thể làm được hiếu thân tôn sư thì không bị đọa ba đường ác, dù không thể ra khỏi tam giới, nhưng không bị đọa ba đường ác. Cho nên đây là pháp căn bản của Phật pháp. Nếu chúng ta không xây dựng được trên pháp căn bản, nói lời thành thật, học Phật chỉ là gieo một chút nhân xa mà thôi. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói mười loại căn cơ, thì đây là căn cơ xa, nghĩa là đời này không đạt được lợi ích, bạn chỉ huân tập được một chút hạt giống trong Phật pháp lưu vào trong a-lại-da thức, phải đợi đến đời sau, đời sau nữa, nhiều đời nhiều kiếp khi duyên chín mùi mới làm tiếp tục, gieo nhân xa cho chúng sanh, trong đời này chắc chắn không thu được hiệu quả.
Nếu như đặt nền tảng trên pháp môn Địa Tạng này rồi, cũng chính là nói bạn làm được phước đầu tiên trong tam phước rồi. Quí vị phải biết, bộ “Kinh Địa Tạng” là nói cái gì vậy? Là hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp, là bốn câu này. Tôi năm xưa giảng đại ý của “Kinh Địa Tạng” tại các thành phố bờ đông nước Mỹ, có một số người cảm thấy kỳ lạ, nói rằng pháp sư Tịnh Không chuyên tu Tịnh Độ, chuyên hoằng Tịnh Độ, làm sao giảng “Kinh Địa Tạng” được? Có người đến hỏi tôi. Tôi nói, tôi không có giảng “Kinh Địa Tạng”. Họ nói sư giảng “Kinh Địa Tạng” khắp nơi dãy ven biển bờ đông. Tôi nói, quí vị không hiểu chứ, những gì tôi giảng là điều thứ nhất trong tịnh nghiệp tam phước. Tôi vẫn là chuyên tu chuyên hoằng, không có rời khỏi pháp môn Tịnh Tông. Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy phu nhân Vi Đề Hi, phu nhân Vi Đề Hi là cầu mong sanh về Tây Phương Tịnh Độ, nên thỉnh giáo Phật Thích Ca Mâu Ni dạy cho bà phương pháp vãng sanh. Trước khi Thế Tôn chưa có truyền dạy cho bà phương pháp niệm Phật, thì dạy bà tu tịnh nghiệp tam phước, nói cho bà biết đây là nền tảng. Ba đời chư Phật đều là nhờ vào nền tảng này mà thành tựu. Giống như xây nhà vậy, dạy bạn xây nhà như thế nào? Trước tiên dạy bạn đặt nền móng, làm tốt nền móng rồi mới dạy bạn xây tiếp như thế nào. Bạn nói xem, nền móng này quan trọng biết bao! Bộ “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” chính là phước đầu tiên ở trong Tam Phước, bạn nói nó quan trọng biết bao! Tại sao tôi trước tiên nhất định phải giảng “Kinh Địa Tạng” ở đạo tràng mới mà không giảng Kinh khác vậy? Không có tâm hiếu thảo cha mẹ, tôn sư trọng đạo thì đừng nên bàn chuyện gì nữa, bạn làm sao có thể xây dựng Phật pháp được? Phật pháp là dạy học, là giáo dục, là đạo làm thầy. Đạo làm thầy xây dựng ở trên nền tảng của đạo hiếu. Không có đạo hiếu thì không có đạo làm thầy, như thế còn bàn gì nữa? Cho nên điều này quan trọng.
Hơn hai mươi năm nay tôi niệm niệm đều không quên đề xướng xây Từ Đường. Ở Trung Quốc, từ xưa đến nay Từ Đường là trung tâm dạy về đạo hiếu. Hiện nay chính sách của chính phủ, Từ Đường của mỗi nhà không còn nữa, xóa bỏ rồi, âu cũng là việc tốt. Sau khi xóa bỏ phải xây dựng cái mới. Xây dựng cái mới phải làm như thế nào vậy? Phải xây Từ Đường kiểu cộng đồng, không phải từng nhà từng nhà. Mỗi huyện xây một cái Từ Đường, Từ Đường trăm họ. Trước đây là một nhà, nào là Từ Đường họ Trương, Từ Đường họ Lý. Hiện nay cái mới của chúng ta phù hợp với chính sách của quốc gia xã hội chủ nghĩa, xây Từ Đường cộng đồng, hay! người trong cả nước đoàn kết một lòng. Mỗi năm cúng tế tổ tiên Xuân, Thu do trưởng huyện làm chủ tế, cái này hay. Mỗi một huyện đề cử vài vị đại biểu đến hỗ trợ cúng tế, như vậy sẽ phát huy rạng rỡ hơn so với đạo hiếu trước đây. Quốc gia xây một cái Từ Đường chung, do chủ tịch nước đến cúng tế. Mỗi tỉnh có Từ Đường chung của tỉnh, mỗi huyện có Từ Đường chung của huyện, việc này hay, đề xướng đạo hiếu, không nên từng nhà từng nhà, khiến cho các dòng họ trong cả nước đều có thể đoàn kết thành một thể. Sau khi cái cũ bị phá đi, thì phải xây dựng cái mới viên mãn, tiến bộ hơn, thù thắng hơn cái trước, như vậy là chính xác. Tôi đề xướng xây dựng Từ Đường trăm họ, không những mỗi huyện thị của quốc gia mình phải xây dựng, mà ở hải ngoại nơi có Hoa Kiều thảy đều phải nên xây dựng.
Tốt rồi, hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến chỗ này.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.