KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 22
“Quang Mục văn dĩ tức xả sở ái, tầm họa Phật tượng nhi cúng dường chi. Phục cung kính tâm bi khấp chiêm lễ” (Quang Mục nghe xong, liền xuất tiền của, họa tượng Phật mà thờ cúng. Nàng lại đem lòng cung kính, khóc than chiêm ngưỡng đảnh lễ tượng Phật)
Cô Quang Mục y giáo phụng hành, “Xả sở ái”. Sở ái là tài vật. Phải đem tiền của của chính cô dùng để tạo tượng. Hiện nay tạo tượng thuận tiện hơn trước đây nhiều, trước đây tạo tượng quý vị biết, hoàn toàn là sản phẩm thủ công mỹ nghệ, tốc độ vô cùng chậm chạp, điêu khắc phải tốn thời gian rất dài, mới có thể hoàn thành một bức tượng hoàn hảo. Ngay cả vẽ tranh cũng không phải là việc dễ dàng, vẽ một bức ảnh Phật cũng phải rất nhiều ngày,đây là điều chúng ta biết. Hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển, tạo tượng Phật, đắp nặn một bức tượng Phật có thể trước tiên phải đắp mô hình. Hiện nay người ta gọi là sản xuất hàng loạt, có thể cung cấp phổ biến cho rất nhiều đại chúng để cúng dường, thế thì phước này sẽ càng lớn hơn nữa. Tranh vẽ hiện nay có thể in ấn,có thể vẽ một bức hình Phật Bồ-tát thật trang nghiêm, sau đó in một cái là có cả vạn đến hàng trăm ngàn, mấy triệu, thậm chí là mấy chục triệu bức,cung cấp phổ biến cho tất cả đại chúng cúng dường. Cho nên người hiện nay tu phước thuận tiện hơn người thời xưa quá nhiều, và người hiện nay tạo nghiệp cũng thuận tiện hơn người thời xưa. Nhưng tu phước cũng thuận tiện, đây là trong “Kinh Địa Tạng” nói. Tuy chúng sanh cõi Diêm Phù Đề rất dễ tạo tội nghiệp, nhưng họ cũng rất dễ quay đầu. Thật sự có người khuyên bảo chỉ dẫn, giải thích rõ cho họ, thì họ quay đầu cũng rất nhanh. Ở trong tất cả chúng Bồ-tát, thù thắng nhất không có vị nào bằng Bồ-tát Địa Tạng. Bồ-tát Địa Tạng ứng hóa tại núi Cửu Hoa của thế gian chúng ta, Bồ-tát Quan Thế Âm ứng hóa ở núi Phổ Đà, đặc biệt có duyên với người Trung Quốc. “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện”, vàonăm Khang Hy, “Khoa Chú” của pháp sư Thanh Lương, chú hay vô cùng. Tuy văn tự sâu một chút, nhưng đối với người hiện đại mà nói, nói thực ra cũng đúng là rất tiện lợi cho chúng ta học quốc văn. Chúng ta hãy xem bản chú giải “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” như là sách học quốc văn. Vậy không phải rất tốt sao? Bản chú giải nàynếu như sau này chúng ta có duyên, sắp xếp được thời gian sẽ giảng tỉ mỉ lại một lần, là giống như giảng quốc văn vậy. Khiến cho chúng ta có thể nâng cao cảnh giới hơn nữa đối với văn tự, văn học Trung Quốc, và đối với nội dung của bản kinh sẽ có nhận thức sâu sắc hơn, thấu triệt hơn, và chắc chắn có lợi ích to lớn đối với đời sống, làm việc, đối nhân xử thế củachúng ta. Giống như trong kinh nói là lợi ích công đức không thể nghĩ bàn. Thời hiện nay, trong thời đại lớn này, hầu hết đại chúng trong xã hội đều xem nền giáo dục Phật giáo thành tôn giáo, khiến cho các đồng tu học Phật chúng ta mê mất phương hướng, đây là điều vô cùng bất hạnh. Có cơ duyên tiếp xúc được chánh pháp, thì phải có trách nhiệm đem bản chất thật của Phật pháp giải thích cho đại chúng xã hội, để cho mọi người thật sự hiểu rõ, Phật pháp không phải tôn giáo, cũng không phải triết học. Là gì vậy? Là giáo dục sống. Giáo dục phá mê khai ngộ, hướng dẫn lìa khổ được vui. Chúng ta nhận thức hoàn toàn đúng về nó, thì mới có thể đạt được lợi ích chân thật. Đoạn này là kể lại việc cô Quang Mục tiếp nhận sự chỉ dạy của La Hán, trở về y giáo phụng hành. Xả sở ái là đoạn tham. Tham là phiền nãocăn bản. Toàn bộ tất cả phiền não đều là từ nó mà sinh ra. Cho nên cái này chính là đoạn tất cả ác. Đắp vẽ hình ảnh Phật Bồ-tát để cúng dường, chiêm lễ là tu tất cả thiện. Chiêm lễ, cúng dường, xưng danh, nhất định là phải y giáo tu hành. Tu hànhlà điều chỉnh tất cả hành vi sai lầm trong việc sống, làm việc, đối nhân xử thế của chúng ta, đây gọi là tu hành. Cô làm như vậy, quả nhiên có cảm ứng.
“Hốt ư dạ hậu mộng kiến Phật thân kim sắc hoảng diệu như Tu Di sơn phóng đại quang minh.” (Đêm đó, nàng chiêm bao thấy thân của đức Phật sắc vàng sáng chói như hòn núi Tu-Di. Đức Phật phóng ánh sáng)
Cảm ứng của cô là có được ở trong mộng. Nhìn từ trên kinh văn, cô là vẽ hình Phật, cúng dường hình Phật do vẽ mà có. Bức hình Phật này, chính là hình Thanh Tịnh Liên Hoa Như-Lai.Cung kính cúng dường, cô liền cảm được Phật xuất hiện ở trong mộng. Tâm hiếu khẩn thiết cảm động Phật gia trì.
“Nhi cáo quang mục nhữ mẫu bất cửu đương sanh nhữ gia, tài giác cơ hàn, tức đương ngôn thuyết.” (Mà bảo Quang Mục rằng: “Chẳng bao lâu đây thân mẫu ngươi sẽ thác sanh vào trong nhà của ngươi, khi vừa biết đói lạnh thời liền biết nói.”)
Đây là nói cho cô biết, mẹ của ngươi không lâu nữa, bà sẽ lại đến nhân gian, đây là nói cho cô biết, đã thoát khỏi ác đạo. Bởi vì cô xả bỏ tiền của tạo tượng cúng dường, nhờ công đức cung kính, nên mẹ của cô thoát khỏi địa ngục. Trọng tội đã tiêu hết rồi, bà vẫn còn tội dư lại, cho nên không bao lâu nữa sẽ sanh vào nhà của cô. Đứa bé này chào đời liền biết nói ngay, rất đặc biệt. Vừa chào đời liền biết nói, ở trong thế gian này của chúng ta cũng có, vừa sinh ra đã biết nói chuyện. Họ nhớ được chuyện đời trước của họ. Loại tình trạng này ở trong Phật pháp gọi là đoạt thai,chuyện này nói ra thì dài dòng lắm. Khi người mẹ mang thai, mang thai một người khác. Người này có duyên rất mỏng với mẹ của họ, đến để làm gì? Đòi nợ. Là quỷ đòi nợ, [do] thiếu [nợ] không nhiều nên [nó] khiến cho người mẹ đó khó chịu trong vòng mười tháng, bị cực khổ, đứa bé này vừa chào đời liền chết ngay. Và mẹ của cô Quang Mục bèn mượn thân đó của họ để sống dậy, nên gọi là đoạt thai. Thần hồn của họ lìa khỏi, thì thần hồn của mẹ cô Quang Mục bèn nhập vào, sự việc nó là như vậy, là đoạt thai. Bà không có trải qua nỗi khổ 10 tháng trongthai. Cho nên bà sẽ nhớ được rất rõ ràng, rất minh bạchchuyện của mình,đạo lý nó là như vậy. Người thông thường là phải ở trongthaimười tháng gọi là nỗi khổ của thai ngục. Trong mười tháng là giống như ở trong địa ngục vậy, thọ khổ vô cùng, nên quên hết sạch sẽ chuyện đời trước. Chúng ta có thể hiểu được loại sự việc này.Chúng tôi đã từng nhìn thấy có một số trẻ em, lúc nhỏ hai ba tuổi, được xem là vô cùng thông minh lanh lợi, đến khoảng bốn năm tuổi thì bị một trận bệnh nặng, sau khi bị trận bệnh nặng sốt cao, thì nó trở thành khờ khạo, trở thành đần độn, không còn nhớ chuyện gì cả. Quý vị thử nghĩ, một lần bị bệnh nặng nghiêm trọng, là có thể làm mất hết trí nhớ của bạn, huống chi là mười tháng thai ngục? Đây là điều chúng ta có thể hiểu được, là quên hết sạch sẽ chuyện của đời trước. Chỉ có người đến bằng đoạt thai, vì họ không có thọ qua cái khổ này, nên họ biết rất rõ ràng, rất minh bạch. Trong nhà cô quả nhiên có xảy ra sự việc này.
“Kỳ hậu gia nội tỳ sanh nhất tử, vị mãn tam nhật nhi nãi ngôn thuyết, khể thủ bi khấp, cáo ư Quang Mục.” (Sau đó, đứa tớ gái trong nhà sanh một đứa con trai, chưa đầy ba ngày đã biết nói. Trẻ đó buồn khóc mà nói với Quang Mục rằng)
Người đầy tớ trong nhà cô đã sanh được một bé trai. Đứa bé này chính là mẹ của Quang Mục đến đầu thai. Là hoàn toàn tương ưng với những gì Phật đã nói với cô trong mộng. Đứa bé này sanh ra đến ngày thứ ba, nhìn thấy Quang Mục bèn khể thủ.Khể thủ chính là gật đầu. Trẻ con mới ba ngày, chúng ta biết động tác còn chưa linh hoạt. Nhưng nó biết gật đầu, biết lễ kính, biểu cảm rất đau buồn. Nói với Quang Mục rằng:
“Sanh tử nghiệp duyên, quả báo tự thọ. Ngô thị nhữ mẫu cửu xứ ám minh. Tự biệt nhữ lai lũy đọa đại địa ngục.” (Nghiệp duyên trong vòng sanh tử phải tự lãnh lấy quả báo. Tôi là mẹ của người, lâu nay ở chốn tối tăm. Từ khi vĩnh biệt người, tôi phải đọa vào đại địa ngục.)
Đây là kể về bà, tuy bà đã chết chưa có bao lâu, nhưng ở trong địa ngục phải thọ những tội, thọ những nỗi khổ này, chúng ta thường nói là sống một ngày bằng một năm. Điều này cũng chứng tỏ thời gian không phải chân thật, không phải pháp thật. Thời gian là khái niệm trừu tượng của chúng ta. Giống như trong tiểu thuyết bút kýthời cổ Trung Quốc, tiểu thuyết bút ký đời Đường có viết chuyện “Mộng Hoàng Lương”. Thời gian trong mộng rất ngắn ngủi. Hoàng Lương là gạo kê.Nấu cháo hạt kê, hạt kê rất dễ chín, nhanh chín hơn nhiều so với gạo thường. Cháo vẫn chưa có nấu chín, ông ở bên cạnh ngủ gục, đã nằm thấy mộng. Tỉnh mộng rồi, nồi cháo vẫn chưa chín. Bạn nói thời gian này ngắn cỡ nào? Chưa được mấy phút. Nhưng ông ở trong mộng, đã trải qua mấy chục năm rồi, chứng tỏ độ chênh lệch thời gian đó là rất lớn. Nhân gian chúng ta dường như chẳng bao lâu, thời gian không lâu. Nhưng bà ở trong địa ngục dường như đã trải qua mấy đại kiếp rồi. Cảm thọ đó của bà là chân thật, thật sự là khoảng thời gian rất dài rất dài.
“Cửu xứ ám minh” (Lâu nay ở chốn tối tăm) Đây chính là điều chúng ta vừa mới nói, là cảm nhận về thời gian và không gian không giống nhau. Cảm nhận thời gian ở trong địa ngục là cực dài cực dài, cũng giống như thiên nhân nhìn chúng ta vậy. Nếu như nhìn chúng ta từ trời Đâu Suất, nhân gian chúng ta 100 năm, sống 100 tuổi là rất dài rất dài, ở trời Đâu Suất chỉ mấy tiếng đồng hồ. Nếu như dùng 24 tiếng đồng hồ để tính, thì ¼ ngày là 6 giờ đồng hồ. 100 năm nhân gia là 6 giờ đồng hồ ở trời Đâu Suất. Thiên nhân Đâu Suất cảm thấy rất nhanh, sao mới có một lát mà ở cõi người đã 100 năm rồi. Cho nên mấy chục ngày ở nhân gian chúng ta, thì trong địa ngục đã là mấy đại kiếp rồi. Nơi bà đọa là địa ngục lớn, không phải địa ngục thông thường, vì tạo tội nghiệp quá sâu, quá nặng. Lúc còn trẻ khi tôi chưa có học Phật, cũng là thích ăn thịt. Tôi tạo nghiệp nặng hơn người bình thường. Thời gian kháng chiến tôi thường hay đi săn bắn. Sau khi đọc “Kinh Địa Tạng” thấy sợ hãi, thật sự sợ hãi, bèn ăn chay trường, không dám ăn thịt nữa. Biết mình tạo tác tội nghiệp rất nặng. Lúc nhỏ không biết, cha tôi thích săn bắn, cho nên chúng tôi thường hay đi theo người lớn lên núi săn bắn, mỗi ngày đều có động vật hoang dã đem về. Tôi đi săn hết ba năm, 17 tuổi, 17, 18, 19. 16 tuổi, 16 tuổi đã bắt đầu đi săn. Cho nên khả năng bắn súng của tôi gần như là bách phát bách trúng, không cần phải ngắm, tôi có khả năng này. Mỗi ngày chí ít cũng bắn 20 phát đạn, không đi săn cũng luyện tập. Cha tôi là một quân nhân. Thời gian đó là chiến tranh với người Nhật Bản, ông quản lý vũ khí quân dụng, quản lý những thứ vũ khí này,cho nên trong nhà chúng tôi súng ống rất nhiều, là cơ hội tạo nghiệp,hằng ngày cho bạn luyện tập. Trẻ con có đứa nào mà không thích chơi súng chứ? Chúng tôi chơi súng thật. Khả năng bắn rất giỏi, là do mỗi ngày luyện mà nên. Bạn không luyện làm sao được như vậy, phải luyện. Việc gì cũng phải thâm nhập một môn, huân tu trường kỳ, cho nên khả năng bắn súng của tôi là rất chính xác, nhưng tạo nghiệp là rất nặng, do lúc đó không biết. Sau này học Phật, đọc “Kinh Địa Tạng”, đọc xong là thấy sởn tóc gáy. Nhìn thấy tình trạng cha tôi chết là hoàn toàn giống như những gì trong kinh nói. Lúc cha tôi chết là phát bệnh điên cuồng, nhìn thấy núi bèn chạy lên núi, nhìn thấy sông bèn chui xuống sông, là hoàn toàn giống như trong kinh nói vậy, là chính mắt tôi nhìn thấy. Chúng tôi lên núi là bắn những con thú hoang này, ở dưới nước thì chúng tôi dùng thuốc nổ TNT để đánh cá. Sau khi vứt thuốc nổ xuống, thật sự là có cả mấy ngàn đến mấy vạn con cá chết nổi lên. Bạn nói tội nghiệp này nặng cỡ nào? Săn bắn bắn được thì tương đối ít, chứ đánh cá dưới sông thì khủng khiếp, chúng tôi thường làm việc này.Bây giờ hiểu được, biết được tội nghiệp này là nặng vô cùng. Sát sanh thì quả báo đoản mạng, cha tôi 45 tuổi là qua đời rồi. Sau này tôi học Phật, người ta chấm tử vi cho tôi, họ nói tuổi thọ của ông không thể vượt qua 45 tuổi, tôi tin điều này. Cho nên tôi học Phật rất tinh tấn, bởi vì thời gian chỉ cho phép đến 45 tuổi. Cái năm 45 tuổi đó [tôi] bị một trận bệnh, bị bệnh một tháng. Tôi cũng không có tìm thầy thuốc, cũng không có uống thuốc. Bởi vì trong lòng nghĩ mạng sắp hết rồi, thầy thuốc là chữa bệnh chứ không thể chữa mạng được, cho nên trong một tháng chỉ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, niệm một tháng như vậy thì bệnh tự nhiên khỏi rồi. Sau này có một năm ở trong pháp hội Nhân Vương tại Đài Loan, gặp được Phật sống Cam Châu, vị này cũng là bạn cũ của tôi. Sau khi sư gặp tôi thì vô cùng hoan hỷ, nói với tôi rằng:Mấy năm nay thầy giảng kinh hoằng pháp nhiều như vậy, công đức rất lớn. Sư nói, thầy vốn dĩ không có phước báo vả lại đoản mạng,bây giờ thầy không những có phước báo mà còn trường thọ nữa. Đây cũng là nhờ phước báo hoằng pháp lợi sinh trong đời này hiện tiền, tôi không có mong cầu trường thọ. Chỉ là sau khi giác ngộ sáng tỏ rồi thì không còn vì mình nữa, tất cả vì Phật pháp, vì chúng sanh, cho nên được cảm ứng. Đối với bản thân tôi mà nói, tôi lúc nào cũng muốn ra đi, tôi đối với thế gian này không có một mảy may lưu luyến. Thân thể lưu lại ở thế gian này, là phước của chúng sanh. Chúng sanh cần, Phật pháp cần thì lưu lại thêm mấy ngày. Chúng sanh không cần nữa, Phật pháp cũng không cần nữa thì lập tức đi ngay, không hề lưu luyến, đây là tâm thái hiện nay của bản thân tôi. Tôi rất hoan hỷ về thế giới Cực lạc cho thật sớm để gần gũi Phật A-Di-Đà. Đây là kể lại chuyện tạo nghiệp thọ báo. Nếu tôi không học Phật thì chắc chắn cũng phải thọ báo trong địa ngục, không còn lời nào để nói,nghiệp duyên của bạn ở nơi này. Sanh tử nghiệp duyên quả báo tự thọ. Chuyện này đâu thể trốn thoát được? Mẹ của cô Quang Mục chỉ là thích ăn. Chúng ta không những thích ăn, mà còn tạo nghiệp, sát sanh, giết hại quá nhiều, quá nhiều rồi. Dưới đây nói, phía dưới đây là mẹ cô cảm ơn cô.
“Mông nhữ phước lực phương đắc thọ sanh vi hạ tiện nhân, hựu phục đoản mạng, thọ niên thập tam cánh lạc ác đạo, nhữ hữu hà kế lệnh ngô thoát miễn” (Nhờ phước lực của người, nên nay được thọ sanh làm kẻ hạ tiện, lại thêm số mạng ngắn ngủi, năm mười ba tuổi đây sẽ bị đọa vào địa ngục nữa. Người có phương thế gì làm cho tôi được thoát khỏi nỗi khổ sở?”)
Đây là bà nói với con gái mình, ta nhờ cô tạo tượng cúng dường tu phước, có thể thoát khỏi địa ngục, vậy mới được thân người. Được thân người là thân người hạ tiện, là con của người đầy tớ trong nhà cô, hơn nữa lại đoản mạng, chỉ có mười ba tuổi. Sau mười ba tuổi còn phải bị đọa ác đạo, đem chuyện này nói cho cô biết. Cô có biện pháp gì để cứu tôi không?
“Quang Mục văn thuyết, tri mẫu vô nghi, ngạnh yết bi đề nhi bạch tỳ tử: Ký thị ngã mẫu, hợp tri bổn tội tác hà hành nghiệp đọa ư ác đạo?”(Nghe đứa trẻ nói, Quang Mục biết chắc là mẹ mình. Nàng nghẹn ngào khóc lóc mà nói với đứa trẻ rằng: “Đã là mẹ của tôi, thời phải biết tội của mình, đã gây tạo hạnh nghiệp chi mà bị đọa vào địa ngục như thế?”)
Cô Quang Mục nghe thấy chuyện này, trong giấc mộng Phật đã nói cho cô biết trước, chuyện này hoàn toàn trở thành hiện thực. Biết đích thực là mẹ của cô, đến nhân gian để đầu thai. Nghe thấy bà kể về những sự việc này, tuổi thọ chỉ có mười ba tuổi, cho nên càng cảm thấy bà thật sự đáng thương. Vậy mới hỏi bà: Bà đã là mẹ của tôi tái lai, mẹ nên biết mình đã tạo tội gì mà bị đọa vào trong ác đạo?
“Tỳ tử đáp ngôn: Dĩ sát hại hủy mạ nhị nghiệp thọ báo. Nhược phi mông phước cứu bạt ngô nạn, dĩ thị nghiệp cố vị hiệp giải thoát.” (Đứa trẻ đáp rằng: “Do hai nghiệp: giết hại sinh vật và chê bai mắng nhiếc, mà thọ báo khổ. Nếu không nhờ phước đức của người cứu nạn tôi, thời cứ theo tội nghiệp đó vẫn còn chưa được thoát khổ.)
Vậy là kể rõ ràng với cô rồi, do đời trước sát sanh hại mạng, thích ăn thịt, đặc biệt ưa thích hải sản, là phía trước đã nói rồi, sát sanh hại mạng quá nhiều, quá nhiều. Sự báo đền cho những oan nghiệp này, ở đây vẫn chưa có. Đọa địa ngục là tánh tội. Ở trong Ngũ Giới mà Phật chế định thì sát sanh, trộm cắp, dâm dục, vọng ngữ là tánh tội, không thọ giới mà tạo vẫn có tội, không thể nói là không có tội, đây là bốn trọng tội. Bất kể bạn có Phật pháp hay không, có học Phật hay không, bạn tạo rồi đều là tội nghiệp cực nặng. Lúc tạo, xem tâm bạn là dùng tâm gì, xem nghiệp bạn tạo sâu rộng cỡ nào mà quy kết tội khác nhau. Nghiệp bà tạo là cố ý, mặc sức tạo tội nên tội này là nặng rồi, sát sanh hại mạng.Hủy mạ, phần lớn là nói, đối với người thiện, việc thiện, Phật pháp, họ không tin. Người khác khuyên, họ không những không tiếp nhận, mà còn phỉ báng, mắng chửi người ta. Nếu như chúng ta đem chuyện trong “Kinh Địa Tạng” kể cho họ nghe, họ lắc đầu, không tin, cho là lừa gạt người. Đây chính là phỉ báng Phật, phỉ báng pháp, tội này là càng nặng hơn nữa,là do hai loại tội nghiệp này mà thọ quả báo địa ngục. 1-
“Nhược phi mông phước cứu bạt ngô nạn.” (Nếu không nhờ phước của người cứu nạn tôi)
Nếu không nhờ con gái tu phước cho bà, thì bà không có cách gì giải thoát được, bà phải tiếp tục thọ khổ báo địa ngục. Sau khi tội báo trong địa ngục thọ mãn rồi, còn phải đọa vào ngạ quỷ, súc sanh để trả nợ. Nợ mạng này vô cùng khủng khiếp, những chúng sanh mà bạn giết hại đều phải đền trả cho họ, thiếu tiền thì phải trả tiền, thiếu mạng thì phải đền mạng. Trước đây đại sư An Thế Cao, đã hai lần đền nợ mạng tại Trung Quốc, trong truyện ký có ghi chép. Hai lần nợ mạng này là do trước đây ông ngộ sát, không phải cố ý sát hại, là ngộ sát, vẫn phải trả nợ, hai lần này cũng là bị người khác ngộ sát. Nhân duyên quả báo không mảy may sai chạy, chúng ta phải giác ngộ. Nếu như không thể vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, không thể thoát khỏi lục đạo luân hồi. Hay nói cách khác, những oan nghiệp mà chúng ta đã kết với chúng sanh trước đây và đời này, nên biết rằng thảy đều phải đền trả, vậy thì khủng khiếp biết bao! Đến đời nào mới có thể trả xong? Chúng ta không thể không giác ngộ. Bất kể bạn có học Phật hay không,đây là sự thật, ai cũng không thể tránh khỏi được, ai cũng vô phương trốn thoát. Chúng ta hiểu rõ những chân tướng sự thật này, cách duy nhất có thể cứu mình, có thể độ chúng sanh, có thể hóa giải những oan nghiệp từ vô lượng kiếp này, chỉ có một phương pháp là cầu sanh Tịnh Độ. Sau khi sanh về Tịnh Độ rồi, chúng ta sẽ có năng lực, mỗi ngày trên thì cúng dường chư Phật, dưới thì hóa độ chúng sanh, đem tất cả công đức tích lũy được này hồi hướng cho oan gia trái chủ từ vô thủy kiếp đến nay, giúp họ phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, thì mới có thể xóa bỏ, hóa giải hết oan nghiệp từ vô thủy kiếp. Ngoài phương pháp này ra nhất định không thể tìm được phương pháp thứ hai nào khác. Cho nên chư Phật Như-lai khuyên dạy chúng ta, phải phát tâm Bồ đề, nhất hướng chuyên niệm Phật A-Di-Đà, cầu sanh Tịnh Độ chính là đạo lý này. Xem tiếp kinh văn dưới đây:
“Quang Mục vấn ngôn: Địa ngục tội báo kỳ sự vân hà?” (Quang Mục hỏi rằng: “Những việc tội báo trong địa ngục ra làm sao?)
Quang Mục cũng muốn hỏi thăm xem, rốt cuộc tình trạng trong địa ngục là như thế nào?
“Tỳ tử đáp ngôn: Tội khổ chi sự bất nhẫn xưng thuyết, bách thiên tuế trung tốt bạch nan cánh.” (Đứa trẻ đáp rằng: “Những việc tội khổ nói ra càng bất nhẫn, dẫu đến trăm nghìn năm cũng không thuật hết được.”)
Đương nhiên bà cũng kể cho cô nghe một số chuyện, có thể kể hết không? Không thể kể hết. Quá khổ rồi! Khổ đến mức không nhẫn tâm nói ra. Một trăm năm, một nghìn năm cũng nói không hết được. Đây là đích thân mẹ cô bị đọa vào địa ngục cảm nhận.
“Quang Mục văn dĩ, đề lệ hào khấp nhi bạch không giới.” (Quang Mục nghe xong, than khóc rơi lệ mà bạch cùng giữa hư không rằng:)
Ngước mặt lên trời phát nguyện.
“Nguyện ngã chi mẫu vĩnh thoát địa ngục tất thập tam tuế cánh vô trọng tội cập lịch ác đạo” (Nguyện cho thân mẫu tôi khỏi hẳn địa ngục khi mãn mười ba tuổi không còn có trọng tội cùng không còn đọa vào ác đạo nữa.)
Đây là Quang Mục vì mẹ phát thệ nguyện rộng lớn. Trước tiên mong cầu cho mẹ vĩnh viễn thoát khỏi ác đạo. Vốn dĩ mẹ cô sau mười ba tuổi, vẫn phải bị đọa ác đạo, vẫn còn tiếp tục thọ khổ. Cô ngước mặt lên trời cầu nguyện:
“Thập phương chư Phật từ ai mẫn ngã, thính ngã vị mẫu sở phát quảng đại thệ nguyện: Nhược đắc ngã mẫu vĩnh ly tam đồ cập tư hạ tiện nãi chí nữ nhân chi thân vĩnh kiếp bất thọ giả. Nguyện ngã tự kim nhật hậu, đối Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như-Lai tượng tiền, khước hậu bách thiên vạn ức kiếp trung, ứng hữu thế giới sở hữu địa ngục, cập tam ác đạo chư tội khổ chúng sanh, thệ nguyện cứu bạt lệnh ly địa ngục ác thú, súc sanh, ngạ quỷ đẳng, như thị tội báo đẳng nhân tận thành Phật cánh, ngã nhiên hậu phương thành Chánh Giác.” (Xin chư Phật trong mười phương thương xót chứng minh cho tôi, vì mẹ mà tôi phát nguyện rộng lớn như vầy: Như thân mẫu tôi khỏi hẳn chốn tam đồ và hạng hạ tiện cùng thân gái, cùng kiếp không còn thọ những quả báo xấu đó nữa, tôi đối trước tượng của đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như-Lai mà phát lời nguyện rằng: Từ ngay nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục súc sanh, và ngạ quỉ, vv… Những kẻ mắc tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh Giác.”)
Quang Mục là tiền thân của Bồ-tát Địa Tạng. Mẹ của cô thật sự được vĩnh viễn thoát khỏi ác đạo. Tại sao vậy? Nếu như không cóviệc mẹ bị đọa địa ngục đau khổ này, thì sao cô có thể phát tâm được? Công đức của mẹ cô là từ đây mà có. Là bởi vì bà đọa vào địa ngục thọ khổ sở cùng cực như vậy, mới kích thích người con hiếu này phát tâm rộng lớn. Cô có thể phát nguyện rộng lớn như vậy, là do nhân duyên hiếm có từ mẹ cô bị đọa ác đạo mà ra. Nếu không có sự việc này, thì cô chắc chắn sẽ không phát tâm, cô cũng sẽ không sắm sửa đồ cúng dường, cũng sẽ không bỏ tiền của ra tạo tượng. Mẹ cô là tăng thượng duyên nghịch cho cô. Cho nên thật sự là người còn kẻ mất đều được phước lợi, được lợi ích lớn, lợi ích không thể nghĩ bàn. Khi nguyện này vừa phát ra, xin thưa quý vị, thì mẹ cô vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác. Đạo lý này chúng ta phải hiểu. Tâm nguyện của cô chúng ta phải nhớ kỹ, nếu như chúng ta cũng có thể dùng nguyện của Bồ-tát Địa Tạng đã phát làm bổn nguyện của mình, mình cũng phát nguyện giống y như vậy thì bạn chính là hóa thân của Bồ-tát Địa Tạng,công đức này là không thể nghĩ bàn. Không những cha mẹ quyến thuộc trong quá khứ của mình có thể vĩnh viễn thoát khỏi ác đạo. Nhà Phật thường nói: “Một người con thành Phật thì tổ tiên ông bà chín đời được sanh thiên” là tổ tiên chín đời về trước đều có thể lìa khỏi nỗi khổ ác đạo, sanh thiên hưởng thiên phước. Lời nói này là thật, không phải giả. Chúng ta từ trong đoạn kinh văn này, có thể thể hội một cách sâu sắc. Cô phát nguyện ở trước tượng Phật, trong trăm nghìn vạn ức kiếp từ nay về sau, sức mạnh nguyện lực của cô không phải nhất thời, không phải trong thời gian ngắn, cũng không phải vì một nơi. Mà là chỉ cần thế giới nào có địa ngục và ba ác đạo. Bạn thấy nguyện hạnh này lớn cỡ nào? Không gian bao lớn? Thời gian vô hạn. Về mặt không gian là tận hư không khắp pháp giới, chỉ cần nơi nào có địa ngục và ba ác đạo, tất cả chúng sanh bị khổ nạn ở trong đây, cô phát thệ nguyện rộng lớn đi cứu vớt họ, muốn giúp những người này vĩnh viễn lìa khỏi địa ngục ác thú, súc sanh, ngạ quỉ. Nguyện cho những người thọ tội này, người gặp phải khổ nạn giống như mẹ của cô, họ đều đã hoàn toàn thành Phật rồi, sau cùng mình mới thành Phật. Đây chính là: “Địa ngục chưa trống không, thề không thành Phật.” Địa ngục trống không rồi, thì ngạ quỉ, súc sanh đương nhiên sẽ trống không, đây là đạo lý nhất định.
“Phát thệ nguyện dĩ, cụ văn Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như-Lai nhi cáo chi viết: Quang Mục nhữ đại từ bi thiện năng vị mẫu phát như thị đại nguyện.” (Quang Mục phát nguyện đó xong, liền nghe tiếng của Đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như-Lai dạy rằng: “Này Quang Mục! Nhà ngươi rất có lòng từ mẫn, vì mẹ mà phát ra lời thệ nguyện rộng lớn như thế thật là hay lắm!”)
Đây là tâm hiếu cảm đến chư Phật. Nguyện này vừa phát ra liền nghe thấy có âm thanh, chưa có nhìn thấy hình ảnh Phật, nghe thấy tiếng của Phật, cảm ứng vô cùng rõ rệt. Cảm rõ rệt, ứng rõ rệt. Cô phát nguyện ở trước tượng Phật đây là cảm, cảm rõ ràng. Lập tức được Phật ứng rõ ràng. Phật bèn nói với cô, cô nghe thấy tiếng của Phật nói với mình rằng: Nhà ngươi rất có lòng từ mẫn. Đây là tâm đại từ đại bi phổ độ tất cả chúng sanh đích thực của Như-lai. “Thiện năng vị mẫu” (Hay thay có thể vì mẹ) Tâm nguyện, tâm đại từ mẫn này của ngươi, là bởi do nhân duyên mẹ ngươi đọa ác đạo, nên ngươi mới phát.
“Ngô quán nhữ mẫu thập tam tuế tất, xả thử báo dĩ sanh vi Phạm Chí thọ niên bách tuế.” (Ta quan sát thấy mẹ nhà ngươi lúc mãn mười ba tuổi, khi bỏ báo thân này sẽ thác sanh làm người Phạm Chí sống lâu trăm tuổi.)
Phật nói với cô, nghiệp báo của mẹ ngươi đã chuyển đổi rồi, nguyện vừa phát liền chuyển ngay. Mẹ của ngươi sau khi 13 tuổi chết đi, bà vẫn được thân người, hơn nữa rất thù thắng, sanh làm người Phạm Chí, là người tu hành trong tôn giáo Bà La Môn, vả lại trường thọ, bà sống đến 100 tuổi.
“Quá thị báo hậu, đương sanh vô ưu quốc độ” (Sau đó vãng sanh về cõi Vô Ưu.)
“Vô Ưu quốc độ” chính là thế giới Tây Phương Cực Lạc. Bà ở trong tu đạo có nhân duyên thù thắng nghe được Phật pháp. Sau khi nghe được Phật pháp, bà phát tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc.
“Thọ mạng bất khả kế kiếp” (Sống lâu đến số không thể tính kể.)
Thọ mạng vô lượng giống như đức Phật A-Di-Đà.
“Hậu thành Phật quả” (Sau rốt sẽ thành Phật)
Ở thế giới Tây Phương Cực Lạc chắc chắn một đời thành Phật. Cho nên pháp môn này gọi là pháp môn thành tựu ngay trong đời này. Sau khi thành Phật:
“Quảng độ nhân thiên số như Hằng hà sa.” (Độ nhiều hạng người, trời, số đông như số cát sống Hằng)
Đây là Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như-Lai nói với Quang Mục, những quả báo thiện mà mẹ ngươi sau này có được. Đây là câu chuyện về cô Quang Mục, là Bồ-tát Địa Tạng phát nguyện lúc còn tu nhân. Sau khi Phật nói xong, nói với Định Tự Tại Vương. Mời xem kinh văn:
“Phật cáo Định Tự Tại Vương: “Nhĩ thời La Hán phước độ Quang Mục giả tức Vô Tận Ý Bồ-Tát thị.” (Đức Phật bảo Ngài Định Tự Tại Vương Bồ-tát rằng: “Vị La Hán phước lành độ Quang Mục thuở đó, chính là Vô Tận Ý Bồ-tát.)
Vị La Hán lúc đó, người dạy Quang Mục cứu độ mẹ này hiện nay chính là Bồ-tát Vô Tận Ý, đây là Bồ-tát Đẳng Giác, thuở đó là một vị La Hán. La Hán không nhất định là Tứ Quả. Quý vị phải biết, Sơ Quả cũng gọi là La Hán, Nhị Quả, Tam Quả cũng gọi là La Hán. Hiện nay là Bồ-tát Đẳng Giác.
“Quang Mục mẫu giả tức Giải Thoát Bồ-tát thị” (Thân mẫu của Quang Mục là Ngài Giải Thoát Bồ-tát)
Hiện nay cũng là Bồ-tát Đẳng Giác.
“Quang Mục nữ giả tức Địa Tạng Bồ-tát thị” (Còn Quang Mục thời là Ngài Địa Tạng Bồ-tát đây vậy.)
Đem nhân duyên kiếp đó của cô thảy đều nói ra hết, đây là điều chúng ta cần phải học tập. Mời xem kinh văn dưới đây.
“Quá khứ cửu viễn kiếp trung, như thị từ mẫn phát Hằng hà sa nguyện, quảng độ chúng sanh.” (Trong nhiều kiếp lâu xa về trước Ngài có lòng từ mẫn, phát ra hằng hà sa số lời thệ nguyện độ khắp chúng sanh như thế.)
Phật ở chỗ này khuyến khích chúng ta một lần nữa, phải hiểu rõ chân tướng sự thật này. Trong nhiều kiếp lâu xa về trước, Bồ-tát Địa Tạng đời đời kiếp kiếp gặp phải những duyên khổ này, nó kích thích bi nguyện của Ngài, đời đời kiếp kiếp phát nguyện.
“Phát Hằng hà sa nguyện” (Phát ra hằng hà sa số lời thệ nguyện)
Số lần phát nguyện nhiều như vậy, nên tâm nguyện của Ngài mạnh mẽ, nguyện lực rộng lớn như vậy. Đối tượng đều là chúng sanh khổ nạn trong tận hư không khắp pháp giới. Mời xem đoạn kinh văn dưới đây.
“Vị Lai thế trung” (Trong đời sau)
“Vị Lai thế” này chính là chỉ chúng ta hiện nay. Theo như cách nói của người Phương Tây chúng ta hiện nay cách thời đức Phật còn tại thế cũng đã hơn 2500 năm rồi. Theo cách ghi chép của lịch sử Trung Quốc thì hơn 3000 năm rồi. Cho nên chữ “vị lai thế trung” chính là chỉ chúng ta hiện nay.
“Nhược hữu nam tử nữ nhân” (Nếu có người nam, người nữ)
Nam tử, nữ nhân không có cộng thêm chữ thiện. Hay nói cách khác, người nam người nữ tạo nghiệp.
“Bất hành thiện giả hành ác giả. Nãi chí bất tín nhân quả giả, tà dâm vọng ngữ giả, lưỡng thiệt ác khẩu giả, hủy báng Đại Thừa giả như thị chư nghiệp chúng sanh tất đọa ác thú.” (Không làm lành, mà làm ác, nhẫn đến kẻ chẳng tin luật nhân quả, kẻ tà dâm, vọng ngữ, kẻ lưỡng thiệt, ác khẩu, kẻ hủy báng Đại Thừa. Những chúng sanh có tội nghiệp như thế chắc phải đọa vào ác đạo)
Đây là nói đời hiện nay, người tạo những nghiệp này trong xã hội ngày nay là quá phổ biến, bất cứ lúc nào ở đâu chúng ta cũng có thể nhìn thấy. Nếu như họ cứ tiếp tục tạo nữa, không biết quay đầu thì chắc chắn sẽ bị đọa ác thú. Ác thú là ba ác đạo. Vả lại con người ở đời là vô cùng ngắn ngủi. Trong thời gian ngắn ngủi rất dễ tạo tác ác nghiệp, tạo tác ác nghiệp cực nặng, trong chớp mắt là thấy họ phải thọ khổ báo.
“Nhược ngộ thiện tri thức khuyến lệnh nhất đàn chỉ gian, quy y Địa Tạng Bồ-tát, thị chư chúng sanh tức đắc giải thoát tam ác đạo báo.” (Nếu gặp được hàng thiện tri thức khuyên bảo quy y với Ngài Địa Tạng Bồ-tát chừng trong khoảng khảy móng tay, những chúng sanh đó liền đặng thoát khỏi báo khổ nơi ác đạo.)
Có bao nhiêu người gặp được thiện tri thức chân chánh? Có thể vâng theo lời giáo huấn của thiện tri thức? Thiện tri thức chân chánh, hiểu rõ đạo lý nhân duyên quả báo và chân tướng sự thật của nhân duyên quả báo. Lời khuyên nhủ của họ là chân thành, là từ bi, là thân thiết,sau khi chúng ta nghe xong sẽ thấy cảm động. “Nhất đàn chỉ gian” là chỉ thời gian ngắn ngủi, thời gian rất ngắn ngủi. Bạn có thể “Quy y Địa Tạng Bồ-tát”. Quy là trở về. Trước đây tạo tác tất cả tội nghiệp, hiện nay quay đầukhông tạo nữa. Y là nương tựa. Nương theo lời chỉ dạy của Bồ-tát Địa Tạng mà tu hành. Lời chỉ dạy của Bồ-tát Địa Tạng ở đâu vậy? Chính là bộ kinh này. Bộ kinh này không quá dài, không khó thọ trì. Chúng ta mỗi ngày có thể đọc tụng, có thể hiểu nghĩa, có thể y giáo phụng hành đây gọi là quy y Bồ-tát Địa Tạng. Quý vị nhất định phải hiểu rõ đạo lý này. Phật ở trong kinh thường hay dạy chúng ta, thọ trì, đọc tụng, vì người diễn thuyết, đây gọi là quy y. Chứ không phải mỗi ngày đọc kinh này một lầnlà xong rồi, như vậy không được. Tụng một lần là trong a-lại-da thức của bạn được tăng trưởng hạt giống thiện nghiệp. Hạnh nghiệp của bạn nếu không sửa đổi, không thể sửa chữa sai lầm, không thể quay đầu, thì vẫn phải thọ ác báo. Nhưng ác báo này sẽ nhẹ hơn một chút, thời gian thoát khỏi ác đạo sẽ nhanh hơn một chút, đây là điều chắc chắn. Nhưng nếu muốn không đọa ác đạo, đó là việc không thể. Nếu vậy thì lý luận về nhân duyên quả báo sẽ bị lật đổ rồi. Bởi vì thường xuyên đọc tụng, bạn không có làm, thì ở trong tâm, ở trong a-lại-da thức, hạt giống “Kinh Địa Tạng” sẽ nhiều, nên dễ khởi hiện hành, dễ giác ngộ, là được cái lợi ích như vậy. Đến khi nào ở trong ác đạo giác ngộ trở lại, bạn liền lập tức lìa khỏi ác đạo. Nếu trong a-lại-da thức không có ấn tượng sâu sắc, khi gặp những khổ báo này, họ không giác ngộ, họ không quay đầu, thì nỗi khổ này họ đành phải thọ vậy. Nếu như bạn đọc tụng, lại có thể hiểu nghĩa, vậy thì cần phải có thiện tri thức. Duyên của [bạn với] thiện tri thức, có sâu cạn khác nhau. Duyên cạn, họ khuyên bạn quy y chừng trong khoảng khảy móng tay. Duyên sâu, thì họ giảng giải sự thật rõ ràng, minh bạch cho bạn, sau đó khuyên nhủ bạn phải tu hành như thế nào, thì duyên của [bạn với] vị thiện tri thức này là sâu rồi. Bạn đều hiểu rõ ràng, minh bạch, thật sự quay đầu rồi. Quay đầu cứu mình, không phải cứu người khác. Nếu như không quay đầu, nếu như không cứu mình, thì nhất định đọa ác đạo. Là giống như lời mẹ Quang Mục nói, tình trạng khổ trong địa ngục không thể nói hết,không nhẫn tâm nói. Thật sự quay đầu, y giáo phụng hành, tuân theo lời giáo huấn của Phật Đà, mỗi ngày thọ trì, đọc tụng, vì người diễn thuyết, thì người này là “Tức đắc giải thoát tam ác đạo báo” (Liền đặng thoát khỏi khổ báo nơi ác đạo) nhất định sẽ không tạo nghiệp ba ác đạo, cũng không còn thọ quả báo ba ác đạo. Đây là do nguyên nhân gì? Duyên chuyển rồi. Quý vị nên biết, Phật pháp là nói lý. Những hạt giống tập nghiệp mà bạn tạo tác trước đây vĩnh viễn tồn tại. Không thể nói bạn hôm nay tu thiện, thì cái thiện này có thể bù trừ tội lỗi, không thể bù trừ nhau được. Thiện có quả thiện, ác có ác báo, vĩnh viễn không thể bù trừ cho nhau được. Nhưng tội nghiệp sâu nặng, thì tội báo này nhất định là có. Ta hiện nay tạm thời không muốn thọ các ác báo này, ta muốn đem quả thiện này hiện ra trước, vậy thì được, điều này có thể làm được. Đạo lý ở chỗ nào vậy? Duyên. Ta từ nay trở đi đoạn tất cả ác, ta đoạn hết duyên ác đi. Hạt giống ác nghiệp tuy còn đó, nhưng không có duyên nên nó không thể khởi hiện hành. Cái thiện này của ta tuy nhỏ, ta tăng cường thêm duyên thiện, khiến cho thiện nở hoa trước, kết quả trước, điều này có thể làm được, vậy là hợp lý. Thật sự là hợp tình, hợp pháp, hợp lý. Cho nên chúng ta bắt đầu từ hôm nay trở đi, nhất định phải đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện. Đoạn tất cả ác tức là dừng ác duyên lại. Tuy trước đây tạo nhân ác cực nặng, mà không có duyên ác nên nhân ác không thể kết quả. Tuy thiện rất yếu ớt, làm việc thiện ít. Đây là một chút xíu thiện nhỏ cũng được, từ nay về sau ta tăng cường nó, khiến cho duyên thiện tăng trưởng, quả thiện hiện tiền trước, vậy là tốt rồi. Dưới đây Phật dạy chúng ta, dạy chúng ta làm thế nào chuyển đổi cái quả báo này, đoạn khai thị này rất quan trọng.
“Nhược năng chí tâm quy kính.” (Nếu người nào có thể chí tâm quy kính)
Đây là câu thứ nhất, đây là căn bản. “Quy” là quy y. Quy y, quý vị phải nhớ kỹ, nhất định phải y giáo phụng hành mới gọi là quy y. Nếu như không thể làm được y giáo phụng hành thì không gọi là quy y. Bạn chưa quay đầu. Quy là trở về. Thật sự quay đầu thì chắc chắn có kính, thành kính. Ấn Quang Đại Sư nói: “Một phần thành kính thì được một phần lợi ích, mười phần thành kính thì được mười phần lợi ích.” Đây là có người thỉnh giáo với Ấn Tổ: Tu học Phật pháp, có bí quyết gì để vào cửa Phật không? Đại sư trả lời có, là thành kính, đây là bí quyết vào cửa Phật. Cho nên nói một phần thành kính thì được một phần lợi ích, mười phần thành kính thì được mười phần lợi ích. Thành kính có thể cảm động chư Phật gia trì. Chúng ta thấy cô Bà La Môn, cô Quang Mục, thấy những câu chuyện này. Tại sao họ có thể được sự gia trì rõ ràng như vậy? Là do thành kính. Đây là nói tổng quát, bên dưới là nói chi tiết. Thành kính biểu hiện ở chỗ nào vậy?
“Chiêm lễ tán thán” (Chiêm ngưỡng đảnh lễ ngợi khen)
“Tán thán” chính là vì người thuyết pháp, vì người diễn thuyết. Phật Thích Ca Mâu Ni giảng bộ kinh nàychính là tán thán Bồ-tát Địa Tạng. Phật Thích Ca Mâu Ni giảng “Kinh Vô Lượng Thọ” là tán thán Phật A-Di-Đà, là chỉ cho việc giảng kinh thuyết pháp. Phía dưới đây là những việc vụn vặt như: Hương hoa y phục, các thứ quý báu, ẩm thực, đây là cúng dường, đều là biểu hiện cho người khác thấy.
Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến chỗ này.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.