Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 9

Tập 9

Xin mời mở bản Kinh ra. Lần trước giảng đến cõi trời Dục Giới: “Sở vị Tứ Thiên Vương thiên, Đao Lợi thiên, Tu Diệm Ma thiên, Đâu Suất thiên, Hóa Lạc thiên, Tha hóa Tự Tại thiên”, đã giảng đến đoạn này.

Đoạn này chúng ta đã giảng cõi trời Tứ Vương rồi, quan trọng là phải hiểu được pháp biểu trưng của Tứ Vương Thiên thì chúng ta mới có thể được lợi ích đích thực.

Nói một cách đơn giản, Đông Phương Trì Quốc Thiên Vương, chúng ta xem tên là biết ý nghĩa. Vị thiên vương này dạy cho chúng ta làm thế nào bảo vệ quốc gia của bạn mãi mãi được hưng thịnh, không bị suy thoái. Từ ý nghĩa này suy rộng ra, làm thế nào có thể bảo vệ được gia đình mình, làm thế nào có thể bảo vệ thân thể mình. Chúng ta tạo dựng sự nghiệp trong đời này nổi danh bốn bể, để đức cho hậu thế, đây là thành tựu đích thực của chúng ta trong đời này, cho nên ý nghĩa này rất sâu rất rộng.

Nam Phương Thiên Vương là dạy chúng ta phải mong cầu tiến bộ. Thời đại vĩnh viễn đang tiến bộ, chúng ta thường hay nói những người nào đó không theo kịp thời đại, ý nghĩa là ở chỗ này. Thời đại đang biến đổi mỗi ngày, đang tiến bộ mỗi ngày. Tiến có tiến về hướng thiện, và cũng có tiến về hướng ác, đây là điểm mà chúng ta không thể không biện biệt. Nếu như tinh tấn theo hướng thiện pháp thì là tích cực, quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa. Nếu như tinh tấn theo hướng ác, đây là nói tinh tấn theo tham, sân, si, mạn thì nhất định sẽ đem lại loạn động cho xã hội, thiên tai nhân họa, như vậy thì mọi người phải bị khổ rồi, đây là điều nhất định phải biện biệt rõ ràng.

Phần trước đã từng giảng qua rồi, chư Phật tán thán Thế Tôn biết pháp khổ lạc. Câu nói này rất tuyệt vời! Niềm vui đích thực, không những vui trong đời này, vui trong đời sau, mà kiếp sau vĩnh viễn hưởng vui thì đây mới là niềm vui đích thực. Nếu như nói là trong đời này chúng ta hưởng lạc, đời sau thọ khổ thì là sai rồi, quá đỗi sai lầm! Những người trong đời này được vui, nhưng đời sau chịu khổ báo không biết là nhiều bao nhiêu. Đây là điều chúng ta không thể không cảnh giác. Trong khi hưởng lạc thì thường tạo nghiệp, phước báo hưởng hết rồi, nghiệp ác hiện tiền, bạn sẽ đến tam đồ để thọ báo. Đây là sai lầm quá lớn. Nam Phương Thiên Vương đại biểu cho tinh tấn có trí tuệ, tinh tấn có lý tính, không phải si mê, không phải tình cảm.

Tây Phương Thiên Vương là Quảng Mục Thiên Vương, dạy chúng ta xem nhiều, cũng chính là học tập nhiều. Bắc Phương Thiên Vương là Đa Văn Thiên Vương. Xem nhiều, nghe nhiều, vĩnh viễn ở vị trí học trò, cũng chính là ta vĩnh viễn là một người học trò. Chỉ có chứng được Phật quả cứu cánh viên mãn thì mới ở vị trí làm thầy, là thầy hướng dẫn đích thực. Bồ-tát Đẳng Giác vẫn là học trò, huống chi những cấp bậc khác. Mình vĩnh viễn phải ở địa vị học trò. Cổ nhân Trung Quốc nói: “Sống đến già, học đến già, học không dứt” cũng là ý nghĩa này. Suốt đời đến già vẫn còn ham học. Trong Phật pháp gọi là học nhân. Học nhân chính là làm học trò, học tập làm người, vĩnh viễn đều đang học tập làm người. Người nào có thể làm người tốt, làm được viên mãn không có một mảy may khiếm khuyết vậy? Người đã thành Phật. Chỉ có Phật mới là người hoàn hảo. Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này, cần chăm chỉ học tập.

Vật trên tay Tứ Thiên Vương cầm, chúng ta dùng cách hiện nay để nói mọi người dễ hiểu, đó là “đạo cụ”. Đạo là pháp biểu trưng, khiến cho bạn nhìn thấy, tiếp xúc đến liền biết được đạo lý lớn của vũ trụ nhân sinh, liền biết phải nên nắm nguyên tắc này mà học tập.

Trên tay Đông Phương Thiên Vương cầm là đàn Tỳ-bà, là loại nhạc cụ. Không phải là Ngài thích ca hát, thích khiêu vũ, cách nghĩ này của bạn là sai rồi. Ngài dùng cái này để đại biểu bạn làm thế nào để hộ trì quốc gia của mình. Bảo vệ nước quan trọng nhất là phải hành trung đạo. Nho gia nói trung dung, là đạo trung dung, Phật pháp nói trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Ngài dùng nhạc cụ dây này để làm pháp biểu trưng. Sợi dây đàn này nếu chỉnh quá căng nó sẽ bị đứt, chỉnh quá chùng thì âm thanh của nó không vang, nhất định phải chỉnh sao cho vừa đúng, biểu thị ý nghĩa này. Vừa đúng, không căng cũng không chùng gọi là trung đạo. là biểu thị ý nghĩa này. Chỗ cao siêu của thánh nhân là biết dùng tâm bình thường, không lệch hai bên. Đây là đạo cụ.

Trên tay Nam Phương Thiên Vương cầm là kiếm. Kiếm tượng trưng cho trí tuệ, kiếm tuệ, tượng trưng cho ý nghĩa này. Trên tay Bắc Phương Thiên Vương cầm là rồng hoặc là rắn. Ở Ấn Độ và Trung Quốc đều cho rằng rồng, rắn biết biến hóa. Đại biểu cho mọi người, mọi sự, mọi vật trong xã hội này đều thiên biến vạn hóa, bạn phải thấy cho rõ ràng. Tay phải Ngài cầm hạt châu. Hạt châu biểu thị cho bất biến. Ở trong mọi biến đổi, bạn cần nắm vững được nguyên tắc bất biến. Bất biến chính là định, tuệ, chính là thành kính. Nắm vững nguyên tắc này để đối nhân xử thế. Bất kể xã hội biến đổi như thế nào, bạn chỉ cần nắm vững nguyên tắc thì đều có thể ứng phó ung dung, đều có thể giáo hóa tự tại.

Đạo cụ mà Bắc Phương Thiên Vương cầm là chiếc lọng, lọng che. Lọng là đại biểu cho phòng ngừa ô nhiễm. Khi không có ô nhiễm thì xếp lọng lại, khi có ô nhiễm thì mở lọng ra. Xã hội hiện nay của chúng ta, mỗi người đều nhận thấy ô nhiễm nghiêm trọng: Ô nhiễm trong tâm, ô nhiễm tinh thần, ô nhiễm tư tưởng kiến giải, ô nhiễm sinh lý, bên ngoài là ô nhiễm môi trường. Hiện nay khi chúng ta tạo tượng Tứ Thiên Vương, cái lọng đó của Bắc Phương Thiên Vương cần mở ra, không được xếp lại. Chúng ta phải hiểu đạo lý này, cái lọng che đó phải mở ra, cho nên ý nghĩa giáo dục này vô cùng vô cùng sâu. Chúng ta không nên xem họ như là thần linh, thế là sai rồi, đó chính là mê tín.

Cõi trời Đao Lợi, người Trung Quốc gọi vị chúa cõi trời này là Ngọc Hoàng Đại Đế. Có lẽ trong rất nhiều tôn giáo nước ngoài xưng là thượng đế, chúa trời chính là Ngài. Có rất nhiều cõi trời, mỗi tầng trời đều có chúa trời, đều có một nhân vật lãnh đạo, tại sao chúng ta khẳng định nói là chúa trời Đao Lợi mà không phải chúa trời khác vậy? Nhìn thấy Kinh điển của họ, lý luận , phương pháp tu hành mà họ nói ra vô cùng giống với cõi trời Đao Lợi. Tu thập thiện nghiệp là có thể vãng sanh về Cõi trời Đao Lợi. Chúng ta thử xem Kinh điển của Cơ Đốc Giáo, Moses có 10 điều răn, 10 điều răn đó của họ vô cùng giống với thập thiện nghiệp đạo. Chúng ta nhất định phải hiểu, chẳng phải tin thượng đế rồi thì có thể được cứu, không có sự việc này, mà phải tu pháp mà thượng đế chỉ dạy. Trong Kinh điển thượng đế dạy các bạn làm như thế nào thì bạn phải làm như thế ấy mới được. Bạn không làm được thì không thể sanh lên cõi trời. Ngài có điều kiện. như vậy mới gọi là hợp tình, hợp lý, hợp pháp.

Chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ cũng có điều kiện, không phải nói tôi tin rồi thì có thể vãng sanh. Không được. Hiện nay có một số người đề xướng bổn nguyện niệm Phật, tôi phát nguyện cầu sanh thì nhất định được sanh, đâu có chuyện đơn giản như vậy. Trong nguyện có hạnh thì nguyện này mới gọi là nguyện chân thật. Điều này không biết Phật đã nói trong Kinh bao nhiêu lần rồi. Nếu nguyện không có hạnh thì gọi là nguyện suông, nguyện đó là giả dối, không thể thành hiện thực. Bạn phải hiểu được đạo lý này. Phật không lừa dối người, tự mình lừa dối chính mình thì bị thiệt thòi to rồi. Dùng hạnh thực tiễn nguyện, thực tiễn nguyện vọng của bạn. Tại sao chúng ta coi trọng tam phước, lục hòa?Vì đây  là pháp cơ bản mà Phật ở trong “Kinh Quán Vô Lượng Thọ” nói với chúng ta, ba đời chư Phật đều là tu ba điều này làm chánh nhân cho tịnh nghiệp. Chúng ta tu tịnh nghiệp để vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, chúng ta tin Phật A-Di-Đà, tin có Tây Phương Tịnh Độ, nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ, ở mức thấp nhất là phải làm được tam phước. Không làm được tam phước thì không thể vãng sanh. Ta mỗi ngày dù có niệm 10 vạn câu Phật hiệu, người xưa nói: “Gào rát cổ họng cũng uổng công”. Lời nói này là thật chứ không phải giả.

Trong tam phước, ở mức thấp nhất phải làm được một điều, bạn mới có thể vãng sanh. Bạn có thể làm được điều thứ nhất: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ, tâm nhân từ không sát hại, tu thập thiện nghiệp” và phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ thì có thể vãng sanh hạ bối. Bạn làm được điều thứ hai, điều thứ hai đương nhiên bao gồm cả điều thứ nhất và cộng thêm: “Thọ trì tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi”, thì bạn vãng sanh trung bối. Đây là tam bối trong “Kinh Vô Lượng Thọ”. Nâng cao thêm nữa, bạn có thể: “Phát tâm Bồ đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”, thì vãng sanh thượng bối. Đây là pháp cơ bản, chứ đâu có nói là chỉ phát nguyện thì có thể không cần tu hành là có thể vãng sanh, Phật không có nói như vậy. Dứt khoát không được hiểu lầm, không được bỏ lỡ nhân duyên quá tốt ngay trước mặt trong đời này.

“Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” là pháp căn bản. Nội dung toàn Kinh nói là gì vậy? Chính là nói phước đầu tiên: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ, tâm nhân từ không sát hại, tu thập thiện nghiệp”. Trong bộ Kinh này là nói điều này. Bạn muốn hỏi cách giảng bốn câu của phước thứ nhất này như thế nào? Bộ “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” này chính là chú giải cho 4 câu này. Tu học như lý như pháp, Đại sư Thiện Đạo nói vạn người tu vạn người vãng sanh, không để sót một người nào cả. Bạn làm không đúng như pháp, thì bạn không thể đi được. Phật không có nói sai, do bạn tự mình hiểu sai ý nghĩa. Phật ở trong “Kinh Vô Lượng Thọ” cũng dạy chúng ta “Đương hiếu ư Phật” (tạm dịch Hạnh hiếu là hạnh Phật), dạy chúng ta tôn sư trọng đạo, đây chính là giáo nghĩa của “Kinh Địa Tạng”, nhất định phải hiểu rõ những đạo lý này.

“Tu Diệm Ma Thiên” cũng gọi là trời Dạ Ma. Tên gọi của khu vực này đúng ra phải là Tu Diệm Ma Thiên. Gọi là trời Dạ Ma vì chúa cõi trời Tu Diệm Ma tên là Dạ Ma. Tu Diệm Ma dịch thành ý nghĩa tiếng Trung Quốc là Diệu Thiện. Hiện nay pháp danh của lão hòa thượng ở Phổ Đà Sơn chúng ta giống với Ngài. Cõi trời này rất sung sướng, rất vui vẻ. Ngoài tu thập thiện nghiệp đạo ra, còn có tu định, phải cộng thêm định công mới có thể được sanh về đó. Chỉ tu thập thiện nghiệp đạo thôi thì không được, họ không thể vãng sanh, chỉ có thể sanh về cõi trời Đao Lợi, muốn lên trên nữa phải thêm định công. Nói thực ra vẫn phải tu từ, bi, hỷ, xả. Từ, bi, hỷ, xả là khoa mục tu chủ yếu của cõi trời Sắc Giới. Họ cũng tu, nhưng công phu đương nhiên không thể sâu bằng người cõi trời Sắc Giới, nhưng mà họ có tu, không phải không có. Lên trên nữa mỗi tầng định công, thiện lợi chúng ta nói là tích lũy công đức phải tăng thêm gấp bội, dần dần lên trên nữa, thật không đơn giản. Mọi người thử nghĩ xem, sanh về cõi trời đã là không dễ, huống chi là về thế giới Tây Phương Cực Lạc để làm Phật? Việc này chúng ta không thể coi thường được, không được xem là quá dễ dàng, cũng không được xem là quá khó. Xem quá khó thì bạn sẽ không dám tu, xem quá dễ thì sẽ lơ là cẩu thả, chắc chắn làm hỏng việc.

Cõi trời Dục Giới tu thập thiện thượng phẩm, trong đó có kèm theo một chút vị đáo định. Họ tu định công, nhưng định công chưa có đạt đến trình độ nhất định. Đạt đến trình độ nhất định tức là hoàn toàn điều phục được dục. Chúng ta gọi là dục vọng. Phật quy nạp thành 5 loại: Tài, sắc, danh, thực, thùy gọi là ngũ dục. 5 loại dục này họ điều phục được, tuy chưa có dứt gốc, nhưng nhất định không khởi hiện hành, vậy mới có thể sanh về Sắc Giới. Họ có điều phục ngũ dục, nhưng chưa có dứt hẳn. Cũng chính là nói 6 tầng trời này càng lên cao, thì ý niệm dục của họ càng phai nhạt. Nếu ý niệm dục hoàn toàn điều phục được, dù hiện ngay trước mặt thật sự họ cũng không có động tâm, không khởi ý niệm, họ sẽ sanh về cõi Sắc Giới. Định công này được xem là thành tựu, họ có thể sanh về cõi trời sơ thiền Sắc Giới. Sắc giới có 18 tầng trời.

Chúng ta xem tiếp Kinh văn dưới đây: “Phạm Chúng thiên, Phạm Phụ thiên, Đại Phạm thiên”, đây là sơ thiền. Ba loại trời sơ thiền này, chúng ta nói ba tầng, trên thực tế nó chỉ có một tầng. Một tầng nhưng hưởng thụ phước báo khác nhau. “Phạm Chúng” là giống như nhân dân, người dân bình thường; “Phạm Phụ” là giống như đại thần, đây là người làm quan cao, làm quan lớn, thì hưởng thụ đương nhiên sẽ cao hơn rất nhiều so với bình dân; “Đại Phạm Thiên” là giống như chúa trời vậy, thì phước báo càng lớn hơn nữa. Cùng một tầng trời nhưng có ba cách hưởng thụ khác nhau. Sơ thiền Sắc Giới, tuy họ có hưởng thụ, quý vị nên biết họ không có ý niệm, tâm địa thanh tịnh. Phạm là tiếng Ấn Độ xưa, dịch thành ý nghĩa tiếng Trung Quốc chính là thanh tịnh. Sơ thiền tâm địa đã thanh tịnh, lên cao hơn thì không cần nói nữa, càng lên trên càng thanh tịnh.

Nhị thiền gọi là quang thiên: “Thiểu Quang thiên, Vô Lượng Quang thiên, Quang Âm thiên” (Trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Quang Âm). Cổ đức nói, đại khái Sơ Thiền dường như có cách tổ chức xã hội giống như nhân gian chúng ta vậy, có nhân dân, có quan lại, có quốc vương. Nhị Thiền trở lên thì không còn nữa, là thế giới bình đẳng, là cộng hòa đích thực, không có quốc vương đại thần gì cả, mọi người thảy đều bình đẳng. Trong bình đẳng đó phước báo vẫn có sự khác biệt. Tại sao có khác biệt vậy? Công phu tu hành của mỗi người khác nhau. Ví dụ chúng ta đi học ở trường, học cùng một lớp, vậy là rất bằng nhau, nhưng thi vẫn có đứng nhất, đứng nhì, vẫn còn xếp hạng, thế thì khác nhau rồi. Trong giống nhau có chỗ khác nhau. Trước khi thành Phật đều có tồn tại hiện tượng này. Cùng là Bồ-tát Đẳng Giác như nhau, Bồ-tát Đẳng Giác nếu cùng nhau đi thi thì vẫn có đứng nhất, đứng nhì, đứng ba. Chỉ có đến quả địa Như-lai thì hoàn toàn bình đẳng, một mảy may khác biệt cũng không còn nữa. Những sự và lý này đều không khó hiểu.

Trời Thiểu Quang có hào quang nhưng tương đối ít một chút, ít hơn một chút so với người khác. Trời Vô lượng Quang thì hào quang lớn một chút. Hào quang từ đâu có vậy? Xin thưa với quý vị, tâm thanh tịnh liền tỏa hào quang. Tâm địa thanh tịnh cho nên họ tỏa hào quang. Thực ra toàn bộ tất cả vạn vật đều có hào quang. Hôm kia sư Ngộ Toàn đem hình đưa cho tôi xem, sư nói bên ngoài có một loại máy có thể chụp hào quang của con người, sư đã có chụp thử, đã đưa hình cho tôi xem. Tôi nói dứt khoát đừng bị mắc lừa, bị người ta gạt. Quả thật con người có hào quang, vật cũng có hào quang, ngay cả cỏ cây cũng có hào quang, đây là sự thật. Màu sắc hào quang của mỗi người thì khác nhau, lớn nhỏ khác nhau. Thông thường người luyện khí công có thể nhìn thấy, người có sức định thì càng không cần phải nói nữa. Nhìn thấy trên người bạn tỏa ra hào quang, người luyện khí công gọi là khí, họ nói đây là khí, người tu Thiền Định nói đây là hào quang. Từ màu sắc hào quang lớn hay nhỏ có thể nhận biết tâm hạnh con người bạn là thiện hay ác. Người tâm địa lương thiện, từ bi, tâm thiện, hạnh thiện thì tỏa ra hào quang là màu vàng kim trong sáng, đây là màu thù thắng nhất, tốt nhất, kế đến là màu vàng, màu sắc kém một chút. Cho nên quỷ thần nhìn thấy người tu hành tại sao tôn kính vậy? Họ nhìn thấy hào quang. Năng lực này của họ là do báo mà có. Quỷ thần có được quả báo ngũ thông. Họ nhìn thấy người thiện, không phải người tu hành, người hành thiện, người tâm địa lương thiện từ bi hành thiện, hào quang đó đều tốt, quỷ thần nhìn thấy tôn kính, không dám làm tổn hại.

Cõi trời Quang Âm có thể dùng ánh sáng để biểu đạt âm thanh. Cho nên Nhị Thiền, con người giao tiếp với nhau không cần nói chuyện. Nói chuyện rất mệt. Nói nhiều sẽ hao hơi, tổn hại cơ thể. Họ giao tiếp bằng cách phóng quang, họ đang đang phóng quang. Người khác nhìn thấy ánh sáng đó thì thảy đều biết rõ là ý gì rồi. Ngôn ngữ rất hữu hạn, ngôn ngữ rất vụng về. Trời Nhị Thiền trở lên đều không cần dùng ngôn ngữ, mà dùng phóng quang để thay thế.

Trời Tam Thiền còn cao hơn nữa, tâm địa thanh tịnh hơn. Tam Thiền gọi là Tịnh Thiên.

“Thiểu Tịnh thiên, Vô Lượng Tịnh thiên, Biến Tịnh thiên” (Trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh) cũng là nói từ trên sự khác biệt của tâm thanh tịnh. Đây là ba tầng trời của Tam Thiền. Ba loại Quang, ba loại Tịnh đều là nói về công hạnh tốt hay xấu. Tứ Thiền thì rất đặc biệt. Tứ Thiền tổng cộng có 9 loại khác nhau, có 9 tầng trời.

“Phước Sanh thiên, Phước Ái thiên, Quảng Quả thiên”. Đây là tầng trời thông thường của cõi trời Tứ Thiền, giống như cõi trời Tam Thiền phía trước vậy. Phước Sanh, Phước Ái, Quảng Quả, Tứ Thiền gọi là Phước thiên, là phước báo lớn nhất, tam tai không đến được, nơi đó không có tam tai. Trong Kinh nói tam tai gồm có: nạn lửa, nạn nước, nạn gió. Nạn lửa có thể thiêu đốt đến Sơ Thiền. Tầng trời Sơ Thiền cũng có tam tai, không thể tránh khỏi tam tai. Tầng trời Nhị Thiền là nạn nước, nước có thể nhấn chìm đến tầng trời Nhị Thiền. Cũng chính là tầng trời Nhị Thiền không có nạn lửa, nhưng có nạn nước và nạn gió. Cõi trời Tam Thiền tâm địa thanh tịnh, không có hai loại nạn nước, lửa, nhưng có nạn gió. Đến tầng trời Tứ Thiền thì có phước báo lớn, nên ba loại tai nạn nước, lửa, gió này đều không có.

Nước, lửa, gió là ba tai nạn lớn, trong Kinh Phật nói đại tam tai. Tiểu tam tai là: Kiếp đao binh, ôn dịch, đói khát, tức là mất mùa đói khát, đây là tiểu tam tai. Phật nói đại tam tai, tiểu tam tai, ý nghĩa này chúng ta cũng rất khó hiểu. Trước đây đọc Kinh cũng đọc qua một cách rất qua loa, giảng Kinh dựa theo chú giải của người xưa, cũng giảng một cách mập mờ qua loa. Trước đây, tôi có đến Nhật Bản để viếng thăm, đến Hiroshima và Nagasaki – hiện trường sau khi bị ném bom nguyên tử để tham quan, mới chợt hiểu ra tiểu tam tai mà Phật nói chính là chiến tranh hạt nhân. Nơi mà bom hạt nhân nổ đó chính là kiếp đao binh. Tám năm chiến tranh giữa chúng ta với người Nhật Bản không được xem là tiểu tam tai, chiến tranh hạt nhân là tiểu tam tai. Phật nói trong Kinh, kiếp đao binh thời gian bao lâu vậy? 7 ngày 7 đêm. Chiến tranh 7 ngày 7 đêm là kiếp đao binh, tám năm đánh nhau giữa chúng ta với người Nhật Bản không được tính là kiếp đao binh. Đại thế chiến lần thứ nhất, đại thế chiến lần thứ hai đều không được xem là kiếp đao binh. Chiến tranh hạt nhân, sau khi bom hạt nhân nổ, chúng tôi mới chợt hiểu ra chính là Phật nói sự việc này. Sau khi nổ xong, chất phóng xạ tồn tại 7 tháng 7 ngày. 7 tháng 7 ngày bạn vẫn không chết, mạng sống này của bạn có thể giữ được. Có một số người không phải bị chết ngay lúc nổ đó, nhưng bị nhiễm phóng xạ, sau 7 tháng họ có thể sống được thì mới có thể xác định là sống. Phật nói đây là ôn dịch. Hóa ra ôn dịch là sự việc như vậy, là tai nạn sau khi bị nhiễm phóng xạ. Nơi bị nổ bom, người Nhật Bản nói với chúng tôi, đến năm thứ 8 thì mặt đất mới mọc cỏ. Chúng tôi mới hiểu được lời Phật nói, đói khát là 7 năm 7 tháng 7 ngày mặt đất mới mọc cỏ cây được. Đất mà cây cỏ không mọc thì con người đương nhiên phải bị đói khát. Chúng ta thử nghĩ, sức mạnh của chiến tranh hạt nhân hiện nay so với Hiroshima và Nagasaki đó không biết là lớn gấp bao nhiêu lần. Bụi phóng xạ nghiêm trọng, nơi bị nổ bom Hiroshima và Nagasaki đó 8 năm đất mới mọc cỏ. Cho nên đại thế chiến lần thứ ba chính là tiểu tam tai mà Phật nói đến rồi.

Đại tam tai là hủy diệt tinh cầu. Chúng ta hiện nay nhìn thấy nạn lửa, những thiên thể phát sáng, đó chính là lửa, toàn bộ là một biển lửa, mặt trời chính là biển lửa. Tình trạng của đại tam tai chúng ta rất khó hiểu. Hiện nay tình tình của tiểu tam tai cơ bản chúng ta có thể hiểu được đôi chút, vô cùng đáng sợ!

Cõi trời Tứ Thiền mới là nơi có phước, tam tai không thể đến được. Trong “Đại Trí Độ Luận” Phật nói với chúng ta thiên nhân cõi Sắc Giới chủ yếu là tu thiền định. Nếu như chỉ tu thiền định mà không tu phước, thì làm gì có phước báo lớn như vậy được. Họ phải tu tứ vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ, xả. Đây là chủ tâm của thiên nhân cõi Sắc Giới, họ tu bố thí, trì giới. Tu bố thí thì tâm được vui, bố thí nhiều thì vui nhiều. Họ xả được, họ chịu bố thí, như vậy mới có thể dùng sức định của họ sanh về trời Tứ Thiền. Sự khác nhau của trời Tứ Thiền cũng là do sức định sâu hay cạn, tu phước nhiều hay ít mà sinh ra tướng khác biệt. Trong Tứ Thiền còn có một tầng trời đặc biệt nữa là “Vô Tưởng thiên” (trời Vô Tưởng), trong Kinh Phật nói cho chúng ta biết đây là tầng trời ngoại đạo, phần lớn đều là người học Phật nhưng hiểu sai ý Phật. Họ tu định, ở trong định không có ý nghĩ gì cả, một niệm không sinh. Vô tưởng tu thành công thì vãng sanh về nơi này. Có định không có tuệ là sai lầm.

Ý nghĩa của thiền định là trong định có tuệ. Thiền Na là tiếng Phạn, dịch thành ý nghĩa tiếng Trung Quốc là tịnh lự. Tịnh là định. Lự là có công phu quán chiếu ở trong đó. Cũng chính là nói họ biết rõ, chứ không phải định chết cứng. Một niệm không sinh nhưng biết rõ mọi thứ, sáng tỏ mọi thứ, vậy mới gọi là thiền định. Nếu chỉ có một niệm không sinh mà bên ngoài không biết gì cả thì không được. Như vậy là có định không có tuệ, khi tu thành công thì tương lai bạn sẽ đi về cõi trời Vô Tưởng. Tu Phật pháp là định tuệ bằng nhau gọi là thiền định. Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na. Xa-ma-tha dịch nghĩa là chỉ tức. Tỳ-bà-xá-na dịch nghĩa là quán tưởng, hoặc giả là dịch thành quán kiến, quan sát, có những ý nghĩa như vậy. Chỉ tu một thứ sẽ lệch về một bên, đều không thể thành tựu được. Người chỉ tu định thì dễ hôn trầm, có tu thành cũng là tầng trời Vô Tưởng. Người chỉ tu tuệ không thể đắc định, tâm lúc nào cũng bay bổng, vọng tưởng rất nhiều. Nên tại sao chú trọng vào thiền định? Thiền là định tuệ ngang nhau, định tuệ giữ thăng bằng. Công phu như vậy là chính xác.

5 loại sau cùng này là nơi thánh nhân tu hành: “Vô Phiền thiên, Vô Nhiệt thiên, Thiện Kiến thiên, Thiện Hiện thiên, Sắc Cứu Cánh thiên.” (Trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện, trời Sắc Cứu Cánh). Thông thường cũng gọi là Ngũ Bất Hoàn thiên. Ai ở đó vậy? Tam quả Tiểu Thừa, cũng gọi là Tịnh Cư Thiên. Tứ Thiền là phàm thánh đồng cư độ. Trong tầng trời phàm phu có Phước Sanh, Phước Ái, Quảng Quả và Vô Tưởng. Bốn loại thiên nhân này không thể nhìn thấy thiên nhân tầng Tịnh Cư, tuy biết họ tu hành ở nơi này nhưng không thể nhìn thấy. Giống như thế gian này của chúng ta, trái đất này của chúng ta cũng là phàm thánh đồng cư độ, có Phật, Bồ-tát, A-la-hán trụ ở nơi này, nhưng người chúng ta không thể nhìn thấy. Các bạn tụng “Từ Bi Tam Muội Thủy Sám”, trong đó nói đạo tràng của tôn giả Ca-Nặc-Ca ở Tứ Xuyên. Người thường đến đó không thấy gì cả, chỉ thấy vùng núi hoang vu. Khi quốc sư Ngộ Đạt đến nhìn thấy đạo tràng trang nghiêm. Có duyên mới có thể thấy được, không có duyên thì không thấy, phàm thánh đồng cư độ. Trong Kinh điển nói cho chúng ta biết, tôn giả Ca-Diếp vẫn chưa có nhập Niết bàn, Ngài đang ở núi Kê Túc. Ngài cũng thường hay xuất hiện, nhưng chúng ta cũng không nhận ra Ngài. Ngài biết biến hóa. Ngài phải đợi Phật Di Lặc ra đời, đem y bát của Phật Thích Ca Mâu Ni truyền cho Phật Di Lặc. Phật Di Lặc xuất thế, trong Kinh nói sau 560 ức vạn năm. Tôn giả Ca Diếp phải đợi thời gian dài như vậy. Tâm người được thanh tịnh thì tuổi thọ mới tự tại, muốn trụ bao lâu thì trụ bấy lâu, không ngăn ngại. Cho nên tôi khuyên mọi người nên phát nguyện. Nguyện lực phải mạnh hơn nghiệp lực của bạn, bạn liền chuyển ngay, liền được tự tại. Nếu bạn không chịu phát nguyện, thì cả đời bạn chắc chắn sẽ bị vận mạng chi phối, bạn không thể thoát khỏi vận mạng. Nhất định phải phát đại nguyện xả thân vì người, thì bạn mới có thể được tự tại, đời sống tự tại, tuổi thọ tự tại, trụ thế tự tại, giáo hóa tự tại, tất cả mọi sự nghiệp, không có gì không tự tại. Nguyện lực không thể nghĩ bàn. Tại sao không phát nguyện?

Đại sư Pháp Chiếu triều Đường là tổ sư đời thứ tư của tông Tịnh Độ chúng ta. Ngài nhìn thấy Đại Thánh Trúc Lâm Tự của Bồ-tát Văn Thù ở Ngũ Đài Sơn. Đây là người có duyên, Ngài nhìn thấy Văn Thù, Phổ Hiền, nhìn thấy pháp hội hơn một vạn người tụ hội, Bồ-tát Văn Thù giảng Kinh thuyết pháp, Ngài cũng có nghe một buổi. Ngài còn thỉnh giáo với Bồ-tát Văn Thù rằng: “Phật pháp đã bước vào thời mạt pháp, căn tánh của người thời kỳ mạt pháp tương đối chậm lụt, thưa Bồ-tát Văn Thù, tu pháp môn nào dễ dàng thành tựu?”. Bồ-tát Văn Thù dạy Ngài tu pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Ngài Pháp Chiếu vốn dĩ là tham Thiền, nghe Bồ-tát Văn Thù dạy xong liền phát nguyện chuyên tâm niệm Phật. Ngài lại thỉnh giáo tiếp, cách niệm Phật như thế nào? Bồ-tát Văn Thù truyền dạy cho Ngài phương pháp niệm Phật. Sau đó Ngài rời khỏi Ngũ Đài Sơn. Khi rời đi Ngài đánh dấu khắp nơi để lần sau trở lại, sợ quên đường. Cuối cùng đánh dấu mấy lần xong quay đầu lại thì chùa biến mất, chỉ thấy một vùng núi hoang vu, mới biết là không thể nghĩ bàn. Không thấy đạo tràng nữa, là phàm thánh đồng cư độ, phàm phu không thể nhìn thấy, không có duyên đó thì không thể nhìn thấy cảnh giới của thánh nhân. Thế giới Ta-bà này của chúng ta, trong Kinh nói có ba nơi phàm thánh đồng cư độ:

  • Một là thế gian này của chúng ta.
  • Thứ hai là tầng trời thứ tư của Dục Giới, trời Đâu Suất. Nội viện Đâu Suất là đạo tràng của Bồ-tát Di Lặc, thiên nhân Đâu Suất không thể nhìn thấy, chỉ nghe nói chứ không biết ở chỗ nào.
  • Thứ ba trời Tịnh Cư tầng Tứ Thiền, đây là Ngũ Bất Hoàn Thiên. Đây là ba nơi phàm thánh đồng cư độ, các ngài tu hành ở nơi này. Tuy đều là thánh nhân tam quả, tại sao gọi là Bất Hoàn vậy? Vì không còn trở lại Dục Giới nữa, họ sẽ thành tựu ở nơi này. Trong Kinh nói người lợi căn sẽ ở Ngũ Bất Hoàn Thiên, trực tiếp chứng quả A-la-hán thoát khỏi tam giới, thoát khỏi lục đạo luân hồi tại nơi này. A-la-hán lợi căn. Nếu là người căn tánh kém thì phải thông qua trời Tứ Không mới có thể ra khỏi tam giới được. Người lợi căn thì không cần thông qua trời Tứ Không, mà trực tiếp chứng A-la-hán, ra khỏi tam giới. Đây là thiên nhân Tịnh Cư. Chúng ta không cần giới thiệu về Ngũ Bất Hoàn Thiên thêm nữa.

Kiến tư phiền não trong tam giới gọi là tư hoặc. 81 phẩm trong tam giới, tam giới chia ra 9 địa, mỗi địa có 9 phẩm. 9 nhân 9 là 81 phẩm tư hoặc, về đến Ngũ Bất Hoàn Thiên mới có thể đoạn hết. Đoạn hết thì chứng quả A-la-hán.

Phật Thích Ca Mâu Ni năm xưa xuất hiện ở thế gian, thị hiện thành Phật dưới cội Bồ đề. Sau khi thành Phật là giáo hóa chúng sanh. Giáo hóa chúng sanh phải có người khải thỉnh. Không có người thỉnh thì Phật cũng đành bó tay. Người thế gian ai có thể biết được Phật Thích Ca Mâu Ni, ai có thể biết được đây là bậc đại trí tuệ, là bậc đạo sư cõi trời người, ai biết được? Người thế gian không có ai khải thỉnh. Trong tình hình như vậy, thì Phật phải nhập Niết bàn, phải thị hiện diệt độ. Thiên nhân Tịnh Cư nhìn thấy rồi, họ nhìn thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện, liền vội vàng xuống thỉnh cầu. Thiên nhân Tịnh Cư thỉnh cầu thay chúng ta, cho nên Phật mới trụ thế 80 năm, giảng Kinh thuyết pháp cho chúng ta hơn 300 hội, chúng ta phải cảm kích thiên nhân Tịnh Cư. Nếu họ không thỉnh pháp, thì thế gian chúng ta làm gì có Phật pháp để nghe. Cho nên họ cũng rất từ bi, thương xót tất cả chúng sanh khổ nạn, khuyến thỉnh Như-lai thuyết pháp.

Tầng cuối cùng: “Ma Hê Thủ La thiên” (Trời Ma Hê Thủ La) Có một số Kinh nói trời Ma Hê Thủ La chính là trời Sắc Cứu Cánh. Tại sao ở chỗ này phải liệt kê tên riêng của nó ra vậy? Trong Kinh cũng có nói Ma Hê Thủ La là thượng thủ của thiên nhân Tịnh Cư, ý nghĩa này nghe cũng hay. Tịnh Cư thiên chính là Ngũ Bất Hoàn thiên, trong đó vị đại đức được mọi người tôn kính nhất xưng là Ma Hê Thủ La. Đây là nhờ thiền định được đại tự tại, cho nên Ma Hê Thủ La cũng có thể xưng là Đại Tự Tại thiên. Đây là 18 tầng trời Sắc Giới, chỉ giới thiệu đơn giản đến chỗ này.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *