KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 76
Xem tiếp đoạn này dưới đây:
“Phục thứ Ðịa Tạng! Vị lai thế trung nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, ngộ Ðại Thừa kinh điển, hoặc thính văn nhất kệ nhất cú phát ân trọng tâm, tán thán cung kính, bố thí cúng dường, thị nhân hoạch đại quả báo vô lượng vô biên.”
(Lại vầy nữa, này Địa-Tạng Bồ Tát! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào gặp kinh điển đại thừa hoặc nghe thấy một bài kệ, một câu kinh, rồi phát tâm ân cần trân trọng cung kính ngợi khen, bố thí cúng dường, người ấy được quả báo lớn vô lượng vô biên.)
Đoạn phía trước này là nói về người hay bố thí. “Thiện nam tử, thiện nữ nhân” là người hay bố thí, người hay tu phước. Đoạn phía sau này là nói họ tu phước được phước. Đây là người gặp được kinh điển Đại Thừa, hoặc giả là “Nghe được một bài kệ hay một câu kinh”. Người nghe được pháp Đại Thừa rất ít. Nhưng sau khi họ nghe rồi, họ liền có thể phát tâm, phát tâm chân thành. Chữ “Ân trọng” chính là chân thành. Vui vẻ khen ngợi, cung kính, bố thí cúng dường, đây là những gì họ tu. Ở chỗ này quý vị nhất định phải chú ý đến, thứ nhất họ là kẻ thiện nam, người thiện nữ, là người có đầy đủ thiện căn phước đức, không phải người bình thường. Tức là như vừa mới nói tịnh nghiệp tam phước trong “Quán Kinh” dạy họ thảy đều làm được, họ là người như vậy. Gặp kinh Đại Thừa mặc dù chỉ là một bài kệ, một câu kinh, họ hiểu sâu nghĩa kinh. Đức Phật trong “Kinh Kim Cang” dạy người ta “Hiểu sâu nghĩa thú”. Tuy một bài kệ một câu kinh là rất ít, nhưng hiểu sâu nghĩa thú vậy là không ít rồi. Hay nói cách khác, họ thật sự nghe hiểu rồi, sáng tỏ rồi. Vào đời nhà Đường, đại sư Huệ Năng của Thiền Tông, đó là người lao động cực khổ, Ngài bán củi để kiếm sống. Hiện nay xã hội này không nhìn thấy nữa, trước thời kỳ kháng chiến và thời kỳ đầu kháng chiến, đại khái khoảng sáu mươi năm về trước. Tôi sống ở Phúc Kiến, đời sống vào lúc đó vẫn còn rất nhiều người lao động vất vả, bán củi, bán nước, chưa có nước máy, phải gánh nước, họ đi ra bờ sông hoặc giếng nước gánh nước đi bán. Vào thời đó một gánh nước là ba đồng bản, tương đương với một xu tiền, tiền thời đó dùng đồng bản. Bán củi, đốn củi ở trên núi sau đó gánh ra thành thị bán, rất vất vả. Ngài Huệ Năng là người bán củi. Bán củi xong, cầm tiền đem về, vào lúc này nghe thấy có người đang tụng “Kinh Kim Cang”, tụng kinh ở trong nhà. Ngài đi ngang qua cửa sổ của nhà đó nghe thấy. Cửa sổ thời trước đây không có kính, nếu như có kính ngăn cách thì không thể nghe thấy, cửa sổ trước đây là dùng giấy dán hồ, mùa đông cũng là giấy dán hồ. Thông thường vào mùa đông dán hai lớp hồ, cửa sổ bằng giấy dán hồ. Cho nên nói chuyện ở bên trong, thì bên ngoài có thể nghe được. Ngài là tình cờ nghe được vài câu, nghe thấy trong “Kinh Kim Cang” nói: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (Nên không có chỗ trụ mà sinh tâm) Ngài liền ngộ nhập ngay. Bạn muốn hỏi, tại sao Ngài có thể ngộ nhập? Vì Ngài là thiện nam tử. Người tụng kinh tụng mỗi ngày mà không ngộ nhập, vì họ không phải là thiện nam tử. Không phải thiện nam tử tụng kinh khiến cho thiện nam tử nghe, thiện nam tử khai ngộ rồi. Quý vị thử nghĩ xem, trong “Quán Kinh” nói Tịnh Nghiệp Tam Phước, bạn xem cho thật kỹ Ngài Huệ Năng có làm được hay không. Làm được rồi! Ngài thật sự là hiếu dưỡng cha mẹ, Ngài bán củi mua gạo về cúng dường cho mẹ. Tuy Ngài chưa từng đi học, chúng ta không biết Ngài phụng sự thầy tổ, nhưng sau này Ngài đến tham vấn tại Hoàng Mai, chúng ta đã nhìn thấy rồi. Thật sự là hiếu dưỡng cha mẹ, tôn trọng thầy tổ, từ tâm không giết hại, tu thập thiện nghiệp, vô cùng rõ ràng. Không có học, nhưng người ta thảy đều làm được. Đây là thiện căn phước đức trong đời quá khứ, cho nên ngẫu nhiên nghe người ta tụng kinh, là cơ duyên, đây là duyên phận. Nhờ duyên phận này làm cho Ngài trở thành một vị tổ sư. Lúc đó Ngài bán củi, nếu như không có nghe thấy người ta tụng kinh thì mãi mãi bán củi rồi, đâu có thể nghe Phật Pháp được? Đây vừa nghe, nghe một bài kệ, một câu kinh, Ngài thật sự nghe hiểu rồi, sáng tỏ rồi, cho nên Ngài bèn phát tâm ân trọng, Ngài liền khen ngợi, cung kính, Ngài thật sự muốn học, thật sự muốn hỏi thăm. Sách mà ông tụng đó là sách gì vậy? Người đó là tụng kinh. Kinh này có từ đâu? Là có từ chỗ Hoàng Mai. Ngài bèn có ý đến bên đó để học. Việc cúng dường ở đây, bốn chữ “Bố thí cúng dường” này là cúng dường pháp. Trong cúng dường pháp quan trọng nhất là cúng dường tu hành theo giáo lý. Bố thí phải giảng như thế nào? Bố thí là xả bỏ hết tất cả mọi sai lầm trước đây chính là bố thí. Tu học theo Phật Pháp chính là cúng dường. Bố thí ở đây không có đề cập đến tiền tài. Cúng dường ở đây cũng không có đề cập đến phẩm vật, không có. Bỏ hư vọng, học chân thật. Bỏ hư vọng chính là bố thí, học chân thật chính là cúng dường. Người này: “Hoạch đại quả báo, vô lượng vô biên.” (Được quả báo lớn vô lượng vô biên.)
Trong chú giải nói rõ cho chúng ta biết, Ngài trích dẫn lời trong “Khởi Tín Luận” nói, giải thích Đại Thừa. Kinh Đại Thừa thể lớn, tướng lớn, dụng lớn, cho nên công đức là vô lượng vô biên.
Chúng ta mở bản kinh ra, xem trang hai mươi hai. Đoạn sau cùng của chú giải trang hai mươi hai này rất quan trọng. Chúng ta bắt đầu xem từ hàng thứ nhất, hãy đọc qua nó một lần. “Kim ký văn thị chương cú tín tâm thanh tịnh, tắc sanh thực tướng pháp nhãn.” (Nay đã nghe được câu kinh này, mà sinh lên niềm tin thanh tịnh, thì sẽ sinh thực tướng pháp nhãn) Đây là nói căn cứ lý luận khi nghe một bài kệ, một câu kinh được vô lượng phước. Sao có thể được vậy? Đạo lý là ở chỗ này. Đúng như lời trong “Kinh Kim Cang” nói. “Tín tâm thanh tịnh, tắc sanh thực tướng” (Niềm tin thanh tịnh ắt sinh thực tướng). Sinh thực tướng là gì vậy? Minh tâm kiến tánh. Lợi ích của phước đó ai có thể sánh với họ được? Phước báo họ được là minh tâm kiến tánh. “Ký sử nhất kệ, nhất cú, diệc phục tăng tiến Bồ-Đề.” (Dù chỉ một bài kệ, một câu kinh cũng tăng tiến Bồ-Đề.) Đây là điều chúng ta thấy được vô cùng rõ ràng từ trong sự tích của Lục Tổ Huệ Năng, có thể chứng thực lời đức Phật nói trong kinh là chân thật, không hư dối. Ở thời đại này hiện nay của chúng ta, tu bố thí pháp thuận tiện hơn quá nhiều so với trước đây. Nhưng chúng ta được phước không bằng người xưa, là do dùng tâm không bằng người xưa. Người xưa chân thành, cung kính. Hiện nay chúng ta khởi tâm động niệm vẫn có ý riêng tư, vẫn chưa có xả hết bản thân mình, đây chính là lý do bố thí được phước không giống như trong kinh nói, đạo lý là ở chỗ này. Chúng ta hiện nay điều quan trọng nhất là phải đem tất cả những thứ hư vọng không thực xả bỏ hết. Đại sư Thiện Đạo dạy chúng ta: “Nhất thiết yếu tùng chân thực tâm trung tác.” (Hết thảy phải làm từ trong tâm chân thật) Câu nói này quan trọng. Tất cả đều phải dùng tâm chân thật làm cơ sở, xuất phát từ trong tâm chân thật là đúng rồi, không có một mảy may hư vọng, không dối mình, không dối người, niệm niệm chân thật. Bất kể là tu pháp môn nào, bất kể tu bố thí như thế nào cũng được phước là không thể nghĩ bàn. Đoạn sau cùng này trích dẫn một đoạn của đức Phật nói, chứng minh sự thật khi nghe thấy một bài kệ một câu kinh sẽ được vô lượng phước. Chúng ta xem hàng thứ hai của tiểu chú, hàng thứ hai trang hai mươi hai, bắt đầu xem từ câu sau cùng. “Phật cáo A Nan: Nhược hữu tùng tha văn nhất tứ cú kệ.” (Đức Phật bảo với ngài A Nan: Nếu có người nghe được bốn câu kệ từ người khác.) Đây là giả thiết, nếu như nói là có cái duyên phận này, nghe người khác đọc kinh hoặc là giảng kinh, thời gian của bạn rất ngắn, chỉ nghe họ nói một bài kệ. Một bài kệ là có bốn câu. “Hoặc thư chi trúc bạch” (Hoặc viết nó lên tre hoặc vải lụa) Thời trước đây không có giấy. Thời xưa ở Trung Quốc dùng thẻ tre, đem những chữ này viết lên thẻ tre. Nếu như quý vị có đến tham quan viện bảo tàng Cố Cung, bạn sẽ thấy những sách vở trước triều Hán vẫn đều viết ở trên thẻ tre cả. Bạch là vải lụa, sản phẩm dệt bằng tơ. Vào thời đó không có giấy, cũng có cái viết trên những sản phẩm bằng vải lụa này, cũng có viết chữ ở trên đây. Hiện nay thì có sách, thư tịch.
“Sở hữu danh tự ư nhược can kiếp thủ bỉ hòa thượng, A Xà Lê đẳng, hà đảm kiên thượng, hoặc bối phủ đảnh đới. Thường tương nhất thiết âm nhạc chi cụ, cúng dường thị sư, thượng bất năng cụ báo sư ân.”
(Hết thảy danh tự trong bao nhiêu đó kiếp, đem hòa thượng, A Xà Lê cõng trên vai, hoặc đội trên đỉnh đầu. Thường dùng những nhạc cụ cúng dường thầy, cũng chẳng thể báo đền hết được ơn của thầy.)
Ý của câu nói này là biết ơn báo ơn. Làm sao bạn có thể khai ngộ được? Là bởi nhờ người khác truyền thụ cho bạn một bài kệ, một câu kinh, cho bạn cơ hội này. Bạn có thiện căn, sau khi nghe xong có thể hiểu sâu nghĩa thú, bạn khai ngộ rồi, bạn thành Phật rồi. Người truyền thụ cho bạn một bài kệ, một câu kinh, đây là thầy của bạn, là ân sư của bạn. Ơn đức bao lớn vậy? Ở chỗ này đức Phật đã nêu ra một ví dụ. Chúng ta xem thấy ví dụ này, không thể báo đáp hết được. Trong ví dụ nói, bạn khiên thầy trên vai, hoặc là cõng trên lưng, hoặc là đội lên đầu, sau đó lại dùng hết thảy các thứ âm nhạc để cúng dường, cũng không thể báo đáp hết được. Đây là người biết ơn báo ơn đích thực. Dưới đây nói: “Nhược ư hòa thượng sở, khởi bất kính tâm, hằng thuyết ư quá, ngã thuyết ngu si, cực thọ đa khổ, ư đương lai thế, tất đọa ác đạo.” (Nếu đối với hòa thượng, khởi tâm bất kính, luôn kể lỗi thầy, ta nói kẻ ấy ngu si, sẽ chịu nhiều sự khổ cùng cực. Trong đời tương lai, ắt đọa ác đạo) Vị thầy này có ơn đối với bạn, bạn không có tâm cung kính đối với thầy, và thường hay nói lỗi lầm của thầy. Thầy có lỗi lầm không vậy? Rất khó nói. Tại sao rất khó nói vậy? Có lỗi lầm hay không là ở chỗ khởi tâm động niệm của bạn. Bạn dùng tâm phiền não nhìn thầy, thì lỗi lầm của thầy là vô lượng vô biên. Bạn dùng tâm thanh tịnh nhìn thầy, thì thật sự thầy không có lỗi lầm. Cho nên Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay: “Cảnh duyên không có tốt ác, không có tốt xấu”. Cảnh là gì vậy? Là hoàn cảnh vật chất. Duyên là hoàn cảnh nhân sự. Mọi người, mọi vật xin thưa với quý vị không có thiện, cũng không có ác, không có tốt, cũng không có xấu. Thiện ác tốt xấu sinh ra từ trong tâm của bạn. Tâm bạn là thiện, nhìn mọi người đều là người thiện, nhìn tất cả pháp đều là pháp thiện. Tâm bạn là ác, nhìn mọi người đều là người ác, nhìn tất cả pháp đều là pháp ác. Ngẫu Ích đại sư nói lời này rất đúng, cũng đúng như lời trong “Đàn Kinh” nói: Phướn động, gió động. Đại sư Huệ Năng nhìn thấy không phải là gió động, cũng không phải là phướn động, do tâm bạn đang động. Chỉ một câu đã nói ra chân tướng sự thật rồi. Chúng ta xem thấy trong “Kinh Hoa Nghiêm”, chư Phật Bồ Tát thị hiện biểu diễn. Biểu diễn ở trong năm mươi ba lần tham vấn Tích Tượng có thiện có ác, trong đó vẫn có sát, đạo, dâm, nhưng Thiện Tài Đồng Tử vẫn đến tham vấn. Trong Phật Pháp gọi sát, đạo, dâm là tam độc phiền não. Bồ Tát thị hiện, Thiện Tài tham học được vô lượng công đức. Làm sao Thiện Tài đạt được? Nếu như để chúng ta đi tiếp xúc những thứ này, thì chắc chắn sẽ đọa địa ngục A Tỳ. Tại sao người ta tiếp xúc thì thành vô thượng đạo? Do dùng tâm khác nhau. Chúng ta là dùng tâm gì? Bồ Tát là dùng tâm gì vậy? Cho nên đoạn này rất quan trọng. Sau đó lại nói tiếp: “Thị cố ngã giáo nhữ đẳng thường hành cung kính tôn trọng chi tâm, ái trọng Tam Bảo thậm thâm chi pháp, tất hoạch vô lượng vô biên chi đại quả hĩ” (Do đó Ta dạy các ông thường giữ tâm cung kính tôn trọng, trân trọng yêu quý pháp thậm thâm của Tam Bảo, ắt sẽ gặt được quả báo lớn vô lượng vô biên vậy) Chỗ này trích dẫn lời đức Phật nói. Câu sau cùng này:
“Nhược năng hồi hướng pháp giới, kỳ phước bất khả tư nghị”
(Nếu có thể đem phước đức hồi hướng cho chúng sanh khắp pháp giới thời phước lợi này không thể ví dụ thế nào cho được.)
Trong tiểu chú nói, chú giải là trích dẫn “Kinh Phó Pháp Tạng”. Lời đức Phật nói: “Pháp thị chúng sanh chân thiện tri thức, tác đại lợi ích, tế chư khổ não.” (Pháp là thiện tri thức chân thật của chúng sanh, làm lợi ích lớn lao, cứu vớt các khổ não) Có thể giúp tất cả chúng sanh vượt qua hết thảy khổ nạn, nhất định phải dựa vào Phật Pháp. Cho nên Phật Pháp mới là thiện tri thức chân thật của chúng sanh. Trong Phật Pháp đặc biệt là pháp Đại Thừa. Pháp mà chúng ta hiện nay tu học là bộ phận thù thắng nhất, tinh hoa nhất trong Đại Thừa, bao gồm cả “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện”. Bản thân chúng ta đạt được điều hay, đạt được lợi ích, chúng ta tuân thủ lời giáo giới của đức Phật, cần phải đem lợi ích này, đem điều hay này giới thiệu rộng rãi cho tất cả chúng sanh, đề xuất cho tất cả chúng sanh. Đây là gì? “Hồi hướng pháp giới”, không phải hưởng cho riêng mình, cần phải lợi ích tất cả chúng sanh. Nhất định không sợ vất vả, cố gắng nỗ lực mà làm, còn sống một ngày thì phải làm một ngày, trọn đời làm tốt công việc này, đây gọi là công đức viên mãn, đừng sợ vất vả, không được ham muốn hưởng thụ ngũ dục lục trần thế gian, lãng phí mạng sống quý báu của mình. Nếu như nói Bồ Tát ham muốn hưởng thụ, ở trong đây có thể được lợi mình chứ không thể lợi người. Chỗ đáng quý của Phật Pháp là ở lợi người, muốn lợi người thì cần phải xả bỏ sự an lạc của mình. Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam năm xưa nói với tôi, có ai mà không thích ở núi, ở am tranh đâu? Đó là hưởng thụ cá nhân, hưởng thụ niềm vui với thiên nhiên, tiêu dao giữa nơi sơn thủy, là niềm vui nhất của đời người, nhưng không thể lợi ích chúng sanh, chỉ có thể lợi mình mà không thể lợi người. Phật, Bồ Tát và những người đạt đạo, người minh tâm kiến tánh, họ quả thật có thể hưởng thụ, họ được đại tự tại rồi. Nhưng họ xả bỏ sự hưởng thụ của mình, không từ gian khổ hằng ngày khuyến hóa tất cả chúng sanh, đi vào trong thành thị và các thôn trang, chỉ cần có người chịu nghe, chịu tiếp nhận, thật sự là: “Ở trong cửa Phật không từ bỏ một ai” Họ đều rất vui vẻ, rất sẵn lòng, giải thích cho người ta rất tường tận. Cả đời Phật Thích Ca Mâu Ni giảng kinh thuyết pháp bốn mươi chín năm không có gián đoạn, hằng ngày phục vụ cho mọi người, giảng giải cho mọi người, mãi cho đến khi già chết cũng chưa hề từ bỏ công việc giảng kinh thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, điều này đáng để cho người đời sau chúng ta tôn kính và noi theo. Có khi nào chúng ta nghe nói hoặc xem ở trong kinh thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni đi nghỉ mát ở đâu không? Không hề thấy. Hiện nay công việc rất vất vả, mỗi ngay đang làm việc vẫn muốn tìm thời gian để đi nghỉ phép. Chúng ta chưa hề nghe nói Phật Thích Ca Mâu Ni đi nghỉ phép, cũng chưa hề nghe nói một nghìn hai trăm năm mươi người đi nghỉ lễ, chưa hề nghe nói. Nơi đây chúng ta sắp lập viện Phật học, nghe nói còn có nghỉ đông, nghỉ hè, còn có nghỉ lễ. Cho nên những điểm này chúng ta đều phải suy nghĩ nhiều hơn. Tương lai lập viện Phật học chắc chắn phải nghỉ lễ, là thuận theo thế gian. Trường học thế gian đều nghỉ lễ, nhưng chúng ta nghỉ lễ rồi phải làm sao? Làm cái gì? Hy vọng mọi người học theo đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nghỉ lễ thì ra ngoài giảng kinh thuyết pháp, bạn đem những gì đã học trong học kỳ này, tìm nơi để giảng kinh trong kỳ nghỉ này, thì kỳ nghỉ này của bạn mới không có uổng phí, lợi dụng khoảng thời gian này kết rộng pháp duyên với tất cả chúng sanh. Các bạn có cái ý này thì tôi có thể sắp xếp cho các bạn, xin các nơi ở nước ngoài phát giấy mời đến mời các bạn. Nghỉ lễ một tháng thì giảng kinh một tháng, nghỉ lễ hai tháng thì giảng kinh hai tháng, không có uổng phí. Không nên nghỉ lễ bèn đi ngao du sơn thủy, thế thì hỏng hết! Vừa nghỉ kỳ lễ này xong liền quên hết những gì bạn học trong học kỳ này, không còn gì cả, thì làm sao bạn có thể tiến bộ được? Tiến bộ chính là niệm niệm miệt mài không nghỉ, phải hiểu rõ đạo lý này. Xem tiếp đoạn kinh văn dưới đây, đây là phước báo khi bố thí, tu bổ kinh điển, chùa tháp. Phần tiểu chú phía trước của Ngài phía sau còn có một đoạn, trang hai mươi lăm, hàng thứ năm của chú giải, đoạn sau cùng hàng thứ năm này. Chúng ta hãy đọc qua một lượt, rất quan trọng: “Thị cố trí giả, dục đắc vô thượng an ổn khoái lạc, ưng đương chí tâm cần thính kinh pháp” (Do đó những người có trí huệ muốn được niềm vui sướng yên ổn vô thượng thì phải nên chí tâm, siêng năng nghe kinh pháp.) Mấy câu nói này là tổng kết phần phía trước, là đoạn ở trong “Phật Thuyết Kiên Ý Kinh”. Đoạn kinh này, chúng ta phải đặc biệt đưa ra để lưu thông, đem nó in ra. Đoạn kinh này ở hàng thứ ba trang 23, mọi người nhớ kỹ. “Phật Thuyết Kiên Ý Kinh”, đoạn kinh văn này là:
“Phật cáo A Nan: Kỳ hữu hảo tâm thiện ý chi nhân, văn Phật minh pháp, nhất tâm nhi thính, năng nhất nhật khả, bất năng nhất nhật bán nhật khả, bất năng bán nhật, nhất thời khả”
(Ðức Phật bảo Ngài A Nan nếu có người hảo tâm có thiện ý nghe Phật rõ pháp, hết lòng mà nghe, có thể nghe được một ngày, nếu không thể nghe được một ngày thì nghe nửa ngày, không thể nghe nửa ngày thì nghe một thời cũng được)
Nhất thời ở chỗ này là tính theo Ấn Độ xưa, tức là bốn giờ hiện nay. Họ là ngày đêm sáu thời. Một thời là tương đương với bốn giờ hiện nay. “Bất năng nhất thời, bán thời khả” (Không thể nghe được một thời thì nửa thời cũng được.) Bán thời là hai giờ đồng hồ hiện nay. “Bất năng bán thời, tu du khả” (Không thể nghe được nửa thời, thì trong chốc lát cũng được.) Bạn không có thời gian nghe hai giờ đồng hồ, thì nghe vài phút bất cứ lúc nào cũng được. “Kỳ phước bất khả lượng” (Phước ấy không thể đo lường được) Dưới đây chúng ta đổi một chữ: “Kỳ phước bất khả lượng” (Phước ấy không thể đo lường) thành “bất khả hạn dã.” (Không thể giới hạn được.) Dùng từ “Bất khả hạn” mọi người dễ hiểu. Đây là kinh văn. Phía trên Ngài viết chữ “Văn”, đoạn kinh văn này, tiếp theo đoạn kinh văn này nói: “Thị cố trí giả dục đắc vô thượng an ổn khoái lạc, ưng đương chí tâm cần thính kinh pháp” (Do đó những người có trí huệ muốn được niềm vui sướng yên ổn vô thượng thì phải nên chí tâm, siêng năng nghe kinh pháp). Chúng ta dùng đoạn này để thường xuyên khuyên người ta nghe kinh, cho nên đoạn kinh văn này rất quan trọng. Các bạn xem sau đó đánh máy đoạn kinh văn này ra thành một bài văn ngắn, có thể khuyên người ta nghe kinh. Tiếp theo hãy xem đoạn kinh văn dưới đây:
“Phục thứ Ðịa Tạng! Nhược vị lai thế trung.”
(Lại vầy nữa, này Địa-Tạng Bồ Tát! Trong đời sau.)
Trong kinh văn nói: “Vị lai thế trung”, chính là chỉ thời đại này của chúng ta hiện nay.
“Hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân”
(Như có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào)
Người nào có đầy đủ điều kiện của chữ “thiện” này là vô cùng hi hữu, vô cùng hiếm có.
“Ngộ Phật tháp tự Ðại Thừa kinh điển, tân giả bố thí cúng dường, chiêm lễ tán thán, cung kính hiệp chưởng. Nhược ngộ cố giả, hoặc hủy hoại giả, tu bổ doanh lý, hoặc độc phát tâm, hoặc khuyến đa nhân đồng cộng phát tâm.”
(Gặp chùa tháp và kinh điển đại thừa, nếu là kinh tháp mới thời bố thí cúng dường, chiêm ngưỡng lễ lạy ngợi khen chắp tay cung kính. Nếu gặp kinh tháp cũ, hoặc hư rách thời sửa sang tu bổ, hoặc riêng mình phát tâm làm, hoặc khuyến người khác cùng đồng phát tâm.)
Đây là nói tu phước. Tháp của Phật, tự của Phật. Ý nghĩa của chữ Tự phần trước đã nói qua rồi. Ý nghĩa của chữ tự này, nếu dùng cách nói hiện nay để nói, nó là cơ quan vĩnh cửu, vậy mới gọi nó là tự. Nó không phải là cơ quan tạm thời, là vĩnh cửu. Trước đây hoàng đế, cơ quan làm việc của họ gọi là “Tự”. Cơ quan làm việc từ Tể Tướng trở xuống gọi là “Bộ”, có thể thường xuyên sửa đổi, có thể hủy bỏ, có thể điều chỉnh sửa đổi xây mới lại. Còn cơ quan làm việc của hoàng đế thì vĩnh viễn không thay đổi. Ở Trung Quốc từ triều Hán đến triều Thanh, có thể nói đều không có thay đổi. Cho nên Tự là cơ quan làm việc vĩnh cửu. Chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của chữ này. Nhưng hiện nay mọi người nhìn thấy Tự, ngay cả cách nghĩ cũng không đúng. Nhìn thấy Tự là nghĩ mê tín, là đại biểu cho mê tín, đại biểu cho quỷ thần. Khi nghe đến chữ Tự và miếu liền nghĩ đến chùa miếu, trong đây là thờ cúng quỷ thần, làm chuyện mê tín, đây là sai lầm rất lớn. Trước đây Phật Tự, là cơ quan giáo dục của Phật giáo. Nền giáo dục Phật giáo phải được duy trì vĩnh viễn, không được hủy bỏ, không được tạm ngưng, cho nên dùng Tự. Nhưng hiện nay rất nhiều người đã hiểu sai ý nghĩa của chữ này rồi. Cho nên chúng ta cần phải đổi một tên gọi mới. Đích thân lão cư sĩ Hạ Liên Cư đề xướng không nên dùng tự viện, am đường, mà dùng “Học Hội”. Từ Học Hội là do cụ Hạ đề xướng. Chúng ta ngày nay là “Tịnh Tông Học Hội”, chứ chúng ta không gọi là Tịnh Độ Tự, không gọi là Di Đà Tự, mà gọi là Tịnh Tông Học Hội, để cho người ta nhìn thấy cái tên gọi này thấy hoàn toàn mới mẻ, không đến nỗi sinh ra hiểu lầm. Ý kiến này hay vô cùng. Chúng tôi đọc sách của ông Cụ, bèn tuân thủ theo ý của ông cụ. Chúng tôi thành lập cơ quan bèn gọi là Tịnh Tông Học Hội. Khi gặp những Phật tự. Tháp là nơi thờ cúng Xá Lợi Phật. Tự là nơi tuyên truyền nền giáo dục của đức Phật, hoằng dương nền giáo dục Phật Đà. “Đại Thừa Kinh Điển.” Đương nhiên trong nền giáo dục của Phật, quan trọng nhất là Pháp Bảo. Phía trước nói, đây là thiện tri thức chân thật của chúng sanh, là kinh điển Đại Thừa.
“Tân giả bố thí cúng dường, chiêm lễ tán thán, cung kính hiệp chưởng.”
(Nếu là kinh tháp mới thời bố thí cúng dường, chiêm ngưỡng lễ lạy ngợi khen chắp tay cung kính.)
Là gặp phải kinh tháp mới. Hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển, chúng ta dễ dàng làm mới những quyển kinh luận này. Nhưng nhất định phải làm cho thật tinh xảo đẹp đẽ, khiến cho người ta sau khi nhìn thấy liền sinh tâm hoan hỷ, sinh tâm cung kính khen ngợi. Cho nên kinh sách không được in một cách tùy tiện, in tùy tiện khi người ta nhìn thấy sách này họ không sinh tâm hoan hỷ, đó là lỗi lầm của chúng ta. Kinh sách nhất định phải in cho tốt, làm cho tốt hết sức mình. Lần này chúng ta in bộ kinh sách này, quý vị nhìn thấy đều sinh tâm hoan hỷ, bản sách này không dễ tìm. Chúng tôi ở Đài Loan bản sách này đã từng in lại bao nhiêu lần rồi, chữ nhìn không rõ nét. Tôi dùng bản này là bản cũ, nét chữ ở trong đây không rõ. Cho nên tôi liền nghĩ đến, làm sao tìm cho được bản gốc, nên lần trước tôi đến Hồng Kông, tôi rất lưu ý để đi tìm. Vẫn là do Phật Bồ Tát phù hộ, tôi đến “Thư Viện Phật Giáo Trung Hoa” tìm được một bản. Đây là bản in lần đầu tiên tại Hồng Kông, do pháp sư Tục Lãng in. Bản này rất cũ, giấy cũng chuyển màu vàng rồi. Lại có một lần tôi có đi thăm pháp sư Giác Quang, pháp sư Giác Quang gọi điện thoại cho tôi, chúng tôi đã gặp mặt nhau, tôi đến chỗ của thầy dùng cơm. Nhìn thấy trên giá sách ở chỗ của thầy có cuốn sách này, nó cùng bản in giống như cuốn sách này, nhưng được giữ gìn tốt hơn so với cuốn chỗ pháp sư Thường Hoài. Thầy để ở trong tủ sách rất sạch sẽ, chúng tôi đã mang cả hai cuốn này về. Hình phía trước bản gốc là màu đen trắng, không phải hình màu. Chúng tôi đến Đài Loan, lại đặc biệt tìm được hình gốc, là hình màu. Bản mà chúng ta in hiện nay tốt hơn quá nhiều so với bản đó, thù thắng hơn nhiều so với bản gốc. Chúng tôi đã tặng mười cuốn cho pháp sư Thường Hoài, và cũng đã tặng mười cuốn cho pháp sư Giác Quang. Chúng tôi xin họ một cuốn, sau đó tặng lại họ mười cuốn. Bản tặng cho họ đẹp hơn nhiều so với bản họ tặng cho tôi. Chúng ta làm như vậy, sau này nhìn thấy chỗ họ có sách hay muốn xin về, họ mới chịu cho chúng ta, biết cho chúng ta không phải là uổng phí, sẽ có báo đáp. Sau khi chúng tôi đem về đã in hai chục nghìn bản. Nghe nói hiện nay ở Đài Loan có rất nhiều người nhìn thấy bản này đẹp như vậy, họ cũng đều muốn in. Họ phát tâm, tốt! Hãy in với số lượng lớn. Bản của chúng tôi để tại xưởng in ấn Thế Hoa Đài Bắc, bản gốc để ở bên đó, không cần thiết dùng chế bản sẽ lãng phí, người nào thích in thì đều có thể lấy bản đó để in, giá thành sẽ thấp hơn. Bản mới chúng ta nhất định phải làm cho tốt, cho trang nghiêm, để cho người ta sau khi nhìn thấy sinh tâm hoan hỷ. “Bố thí cúng dường, chiêm lễ tán thán, cung kính hiệp chưởng.” (Bố thí cúng dường, chiêm ngưỡng lễ lạy, chắp tay cung kính) Cho nên nếu kinh sách làm không được tinh xảo đẹp đẽ, thì sẽ không được phước. Đây là điều mà đức Phật ở chỗ này dạy cho chúng ta, phải làm cho tốt hết khả năng của mình.
“Nhược ngộ cố giả, hoặc hủy hoại giả.”
(Nếu gặp kinh tháp cũ, hoặc hư rách.)
“Cố” là sách cũ. Giá trị của sách cũ rất cao. Cao ở chỗ nào vậy? Thứ nhất là nó lưu truyền rất lâu rồi, đã từng có rất nhiều người đọc qua, trải qua nhiều đời như vậy chứng minh kinh này là chân kinh. Nếu như là đồ giả, ngụy tạo thì đã bị đào thải từ lâu rồi, cho nên nó có giá trị lịch sử. Lại được biết bao nhiêu cao tăng đại đức đọc qua. Nếu dùng cách nói hiện nay thì từ trường của nó khác nhau. Sách mới như thế nào đi nữa cũng không thể sánh bằng sách cũ được, quý vị phải hiểu, nó có giá trị kỷ niệm, nó có sức hấp dẫn rất mạnh mẽ. Nhưng sách cũ lưu truyền đã lâu rồi thì sẽ bị hư rách. Hiện nay trên tay tôi đại khái có đến ba bốn chục bản là sách thời triều Minh. Tính sơ sơ đã gần sáu trăm năm rồi. Giấy rất mỏng manh, khi lật ra sợ nó bị hư rách. Cho nên số sách này hiện nay của tôi, làm sao đọc nó đây? Photocopy lại. Tôi đọc bản photocopy, còn sách gốc thì cất giữ, không nên lật dỡ nó thường xuyên. Ở đây thì không thuận tiện, ở Đài Loan tương đối thuận tiện. Ở Đài Loan tôi sẽ đem đi bồi gáy lại, là giống như bồi tranh vậy. Bên trong bồi thêm một lớp giấy bông, sau khi bồi lớp giấy bông này rồi thì sách này chí ít cũng có thể bảo tồn được một nghìn năm nữa. Bởi vì số sách này hiện nay của tôi, phần lớn là in bằng giấy Mao Biên, không phải loại giấy rất tốt, là loại giấy Mao Biên phổ thông. Giấy Mao Biên có thể bảo tồn được năm trăm năm. Cho nên hiện nay nhất định phải tu bổ. Tu bổ thì phải bồi gáy lại. Sau khi bồi gáy lại rồi thì đóng bìa trang trí lại. Như vậy lại có thể kéo dài được tuổi thọ một nghìn năm. Sách này thuộc về đồ cổ. Chúng ta phải hiểu được đạo lý này. Không nên cho rằng đây là đồ rách cũ, đồ rách cũ thì cần phải vứt bỏ. Rách cũ mới có giá trị. Người thật sự trong nghề, biết giá trị món hàng, chúng ta ở viện bảo tàng Cố Cung Đài Loan, người ngoài nghề họ thích xem cái gì? Xem những đồ bằng ngọc thời Minh Thanh, đó là đồ vô cùng tinh xảo đẹp đẽ. Người trong nghề xem cái gì? Xem đồ đồng của ba đời Hạ, Thương, Chu, là đồ đồng, sắt nát. Đồ vật đều không còn hoàn chỉnh, rất rách nát. Có cái chỉ là một miếng vụn, nhưng là báu vật vô giá. Đâu phải những đồ bằng vàng, bạc, ngọc thời Minh Thanh mà có thể sánh với nó được? Không thể sánh bằng. Nó có giá trị lịch sử của nó. Cho nên phải hiểu được đạo lý này. Kinh sách cũ chúng ta phải tu bổ, chùa tháp cũ cũng phải tu bổ nó lại. Liên quan đến phương diện này, thì chúng ta đứng sau người Nhật Bản rất xa. Tôi đến Nhật Bản để tham quan, tham học. Tôi thật sự khâm phục sát đất đối với cách người Nhật Bản bảo vệ chùa tháp, tu bổ những đồ cổ. Những thứ này của họ là học được từ Trung Quốc về. Sau khi học được rồi họ bảo tồn mãi cho đến hiện nay. Có thể bảo tồn lâu như vậy sao? Là mỗi năm họ đều tu bổ. Cây trụ này bị mối mọt hết rồi, vẫn dùng loại gỗ giống nhau, vật liệu giống nhau, hình thức giống nhau để thay thế nó. Cho nên bạn đến Nhật Bản mà xem, chùa miếu trang nghiêm, cách thức thời triều Hán. Học sinh người Nhật Bản du học đến Trung Quốc thời nhà Đường là nhiều nhất. Họ học được đều là kiến trúc cổ đại. Trung Quốc có rất nhiều kiểu nhà mái cong. Nhà mái cong là kiểu thời triều Minh. Thời triều Hán vẫn chưa có mái cong. Cho nên bạn đến Nhật Bản, có thể nhìn thấy kiến trúc thời đại nhà Hán, nhà Đường, là hoàn toàn tương ưng với những gì trong sách cổ Trung Quốc ghi chép. Chúng ta hiện nay đọc “Lễ Ký”, nhìn thấy cách thức sống của người thời đó có rất nhiều chỗ mình không hiểu, đến Nhật Bản liền hiểu ngay. Những gì trong đó nói chính là cách thức sống của Nhật Bản. Mặc y phục, người Nhật mặc Hòa Phục. Trang phục của người Nhật là Hòa Phục cũng gọi là Ngô Phục. Nói Ngô Phục bạn sẽ có ấn tượng ngay. Ngô là Giang Tô. Là trang phục của thời đại Ngô Việt đó, được truyền qua người Nhật đến hiện nay họ vẫn mặc, vẫn là kiểu dáng đó. Nhật Bản đã bảo tồn văn hóa cổ đại của Trung Quốc. Những cách tu bổ chùa tháp này của họ đáng để chúng ta học tập. Nhất định phải dùng vật liệu gốc, dùng kiểu dáng nguyên bản, thảy đều thay mới hết nhưng hoàn toàn giống như trước đây vậy. Họ bảo tồn vô cùng hoàn chỉnh. Đây là điểm mà chúng ta không thể không khâm phục khi đến nơi đó tham quan. Người Nhật bạn thấy họ có thể hấp thu văn hóa khoa học kỹ thuật tân tiến nhất của người phương Tây, và đối với những thứ vốn có của mình, họ có thể giữ gìn, họ không có vứt bỏ nó, đây là chỗ họ sáng suốt hơn người Trung Quốc. Thậm chí là một con đường cổ của người Nhật, con đường cũng không chịu phá bỏ. Mở ra con đường mới, là mở bên cạnh con đường cổ, là mở chỗ khác, còn đường cổ thì giữ lại. Đường cổ là lát bằng đá, dùng xe ngựa cho khách tham quan. Khách tham quan ngồi xe ngựa đi trên con đường cổ đó, là rất thú vị. Tôi lúc đó, tôi đến Nhật Bản để tham quan, đại khái là hơn hai mươi năm trước, ấn tượng của tôi rất sâu sắc. Nói thực ra ở Trung Quốc có thể khôi phục mấy cái thành cổ. Hôm kia nhân dịp tết Trung Thu quý vị đến thành nhà Đường để tụ hội, ở Hồng Kông có thành nhà Tống. Nói thực ra, nếu như ở Trung Quốc có thể khôi phục phủ Khai Phong lại như cảnh quan của thời triều Tống, khôi phục lại Tây An giống như kiểu thời triều Đường, một cái thành nhà Đường, một cái thành nhà Tống, làm cho lớn. Người trong đó có thể không cần làm việc gì cả, chỉ cần bán một chút đồ ăn vặt cho khách tham quan du lịch là có thể kiếm tiền. Người trên toàn thế giới đều sẽ đến nơi đó để tham quan. Có người nào không muốn đến nơi đó để xem thử? Thử xem cách sinh hoạt của người triều Đường, cách sinh hoạt của người triều Tống. Trang phục ở nơi đó hoàn toàn khôi phục giống như thời đại đó, dụng cụ cũng là của thời đại đó. Khách đến nơi đây để tham quan du lịch, chúng tôi tiếp đãi bạn. Sẽ hấp dẫn khách tham quan trên toàn thế giới, là việc tốt. Nhưng ý tưởng này, được nảy sinh khi tôi đi tham quan Nhật Bản. Đừng nên cho rằng không có thu nhập, thu nhập rất đáng kể, rất lớn. Bạn bán đồ lưu niệm, nhân cơ hội này để tuyên dương văn hóa Trung Quốc, lợi ích vô lượng vô biên. Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến đây.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.