KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 93
Xin mời mở bản kinh ra, phần khoa chú quyển hạ, trang 69.
“Phục thứ Quán Thế Âm! Nhược vị lai thế hữu thiện nam tử thiện nữ nhân, dục cầu hiện tại vị lai bách thiên vạn ức đẳng nguyện, bách thiên vạn ức đẳng sự, đản đương quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán Ðịa Tạng Bồ Tát hình tượng, như thị sở nguyện, sở cầu tất giai thành tựu.”
(Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ Tát! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào, muốn cầu trăm nghìn muôn ức điều nguyện, trăm nghìn muôn ức sự về hiện tại cùng vị lai, thời chỉ nên quy y chiêm ngưỡng đảnh lễ, cúng dường, ngợi khen hình tượng của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát. Được như thế thời nguyện những chi và cầu những chi thảy đều thành tựu cả.)
Đây là đoạn thứ năm. Dùng cách nói hiện nay để nói là có cầu ắt ứng, có nguyện ắt thành. Đây là điều mà người thế gian bất kể là trước đây hay là hiện nay, bất kể là ở trong nước hay ở nước ngoài, có thể nói là không có chúng sanh nào mà không có mong cầu như vậy. Người nào cũng có nguyện cầu, nhưng được mấy người trong đời có thể thỏa mãn tâm nguyện của mình? Chung quy là người cầu nguyện thì rất nhiều, mà người thật sự mãn nguyện thì vô cùng vô cùng ít. Người thế gian có mong cầu, nguyện này thành hiện thực, tuyệt đại đa số vẫn là do trong số mạng họ có. Họ cầu tài, trong số mạng của họ thật sự có tài, thời tiết nhân duyên chín muồi thì họ phát tài. Trong số mạng có địa vị, đến lúc nhân duyên chín muồi, thì họ cũng đạt được chức quan cao. Có thể thấy đều là do trong số mạng có cả. Mong cầu mà ở đây nói là trong số mạng của bạn không có. Trong số mạng không có, bạn cầu được, đó mới gọi là có cầu ắt ứng. Trong số mạng có thì không tính, là trong số mạng không có. Không có, muốn cầu được là rất khó, không dễ dàng. Đây là nhờ oai thần của chư Phật Bồ Tát gia trì. Gia trì nói thực ra vẫn là thuộc về tăng thượng duyên. Nguyên nhân chủ yếu đích thực vẫn là mình. Mình dựa theo lời giáo huấn của đức Phật, chăm chỉ nỗ lực tu học, tu bây giờ thì được cảm ứng bây giờ. Cái này không phải do đời trước, đời trước trong số mạng bạn không có, là do bây giờ tạo. Quan hệ nhân quả ở trong đây chúng ta phải hiểu cho rõ ràng, sáng tỏ, thì bạn sẽ không còn hoài nghi, và cũng sẽ không trách Bồ Tát, tại sao phù hộ người đó mà không phù hộ tôi? Họ làm theo, còn ta không có làm theo. Hiểu rõ đạo lý này là được, thật sự là có cầu ắt ứng. Phần trước nói người mong cầu, việc mong cầu. Trong kinh nói rất rõ ràng, đặc biệt nói: “Nhược vị lai thế.” (Nếu trong đời sau). Trong đoạn này mỗi một tiết đều là nói đời vị lai. Thời đại này hiện nay của chúng ta là bao gồm ở trong đời vị lai. Điều kiện, người này, điều kiện của người cầu nguyện, nhất định là “Kẻ hiện nam, người thiện nữ.” Chữ “thiện” là chữ mấu chốt. Nếu như không phải kẻ thiện nam, người thiện nữ, bạn dựa theo phương pháp này cầu, thì chưa chắc được cảm ứng. Cho nên chữ này là chữ mấu chốt. Trước đây tôi giảng “Kinh Địa Tạng”, có thính chúng đã từng hỏi tôi rằng, tại sao họ dựa theo kinh điển này tu học, cũng rất khẩn thiết, cũng rất thành tâm, mà không đạt được những gì đã cầu? Cho nên họ hoài nghi trong kinh nói chưa chắc là đáng tin, đến hỏi tôi. Tôi bèn chỉ vào chữ này. Tôi hỏi, anh có làm được chữ này chưa? Họ vừa nghĩ liền hiểu rõ ngay. Bởi vì kinh này là Kinh Đại Thừa, bạn dựa theo phương pháp này tu hành, nguyện bạn cầu là nguyện nhỏ, bạn có thiện nhỏ là được. Nếu như bạn có nguyện lớn thì nhất định bạn phải có thiện lớn. Tiêu chuẩn của thiện ở trong Tam Phước. Bạn muốn cầu việc thù thắng, quả báo thù thắng cõi trời người, quả báo thù thắng trong cõi trời người, thì thiện cõi trời người bạn phải thực hiện là: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ, từ tâm không giết hại, tu thập thiện nghiệp.” Bạn làm được chưa? Nếu như bạn thật sự làm được thì bạn là kẻ thiện nam, người thiện nữ trong thế gian. Cầu phước báo thù thắng cõi thế gian, bạn có thể cầu được. Bạn cầu quả báo thù thắng xuất thế gian, thì chưa chắc có thể cầu được. Tại sao vậy? Cái thiện đó còn phải tăng thêm nữa. Cho nên bạn muốn mong cầu quả báo Nhị Thừa thì nhất định phải: “Thọ trì tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi.” Ba câu này mới nghe dường như không khó hiểu, thực ra không dễ dàng, rất khó hiểu. Sao gọi là Tam Quy? Hiện nay rất nhiều người coi thường, xem quá đơn giản, quá dễ dàng về điều này. Họ tìm vị pháp sư, đứng trước tượng Phật, đọc mấy câu kệ bèn cho là quy y rồi. Đâu có chuyện dễ dàng như vậy? Quy là thật sự quay đầu. Y là nương tựa đích thực. Quy y Phật là từ mê hoặc điên đảo quay đầu, thật sự nương vào tự tánh giác. Quy y Pháp là từ tà tri tà kiến (Thấy biết sai lệch), tức là tư tưởng sai lầm, kiến giải sai lầm quay đầu, nương vào chánh tri chánh kiến (Thấy biết như thực). Quy y Tăng là từ tất cả ô nhiễm quay đầu, nương vào tâm thanh tịnh. Việc này nói nghe dễ làm sao? Đây là thiện pháp xuất thế gian. Điều thứ nhất của Tam Phước là thiện pháp thế gian, điều thứ hai là thiện pháp xuất thế gian. Từ đó cho thấy ngày nay chúng ta thọ Tam Quy và thọ giới, người xưa nói không sai là “Hữu danh vô thực”, mình nhất định phải biết rõ. Hiện nay người xuất gia thọ giới tỳ-kheo, rồi tự cho mình là tỳ-kheo. Ngẫu Ích đại sư nói đây là vọng ngữ. Bạn chưa có đắc giới tỳ-kheo, mà tự cho mình là tỳ-kheo, cái lỗi lầm này rất nặng. Ngẫu Ích đại sư nói cho chúng ta biết, ở Trung Quốc từ thời Nam Tống trở về sau là không có tỳ-kheo, ít nhất phải có năm vị tỳ-kheo truyền giới, đương nhiên tốt nhất là phải có mười vị. Không tìm được mười vị, thì năm vị cũng được. Năm vị tỳ-kheo đích thực mới có thể truyền giới tỳ-kheo. Từ Nam Tống trở về sau ở Trung Quốc không có tỳ-kheo, nhưng vẫn cứ truyền giới. Trong tâm chúng ta nhất định phải biết rõ, đây là truyền thọ giới trên danh tự, chứ không có thực chất. Tại sao phải làm hình thức này? Chúng ta đọc tụng Giới Kinh, để tránh người ta phỉ báng. Trong Giới Kinh nói, người chưa có thọ giới không được phép xem. Chúng ta thọ giới hình thức để đọc Giới Kinh. Trước đây Đại Sư Chương Gia nói với tôi, thật sự có thể làm được một điều, hiểu rõ một điều làm được một điều, là bạn đã thọ giới điều này rồi, chứ không phải ở trên hình thức. Dù bạn đã thọ giới ở giới đàn, mà bạn chưa có làm được, vậy là bạn chưa có thọ giới. Cho nên bản thân chúng ta nhất định biết thân phận của mình. Ngẫu Ích đại sư sau khi đã thọ giới, sau khi thọ giới tỳ-kheo, bèn xả giới ngay trước Phật Bồ Tát. Ngài trì giới sa-di. Bởi vì giới sa-di, dù không có tỳ-kheo, mình ở trước Phật Bồ Tát có thể phát thệ để cầu thọ giới được. Giới Bồ Tát cũng như vậy. Cho nên giới Bồ Tát với giới sa-di, thì cư sĩ tại gia là có thể thọ được, bởi vì nó không cần tỳ-kheo đích thực. Giới tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni phải có tỳ-kheo đích thực. Không có tỳ-kheo đích thực thì chắc chắn không đắc giới luật. Cho nên cả đời Ngẫu Ích đại sư, Ngài tự xưng là sa-di giới Bồ Tát, đây là tổ sư đại đức đã làm tấm gương cho chúng ta thấy. Ngài tự xưng là sa-di, nên đồ đệ của Ngài là pháp sư Thành Thời không dám xưng là sa-di. Trước tác của Ngẫu Ích đại sư, được pháp sư Thành Thời chỉnh lý lại, khắc bản in lưu truyền lại, công đức này rất lớn. Nếu không có Thành Thời thì trước tác của Ngẫu Ích đại sư sẽ không có ai truyền lại được. Đệ tử của Ngài tự xưng là ưu-bà-tắc xuất gia giới Bồ Tát. Ưu-bà-tắc ngày nay chúng ta xưng là cư sĩ. Bạn thấy pháp sư Thành Thời khiêm tốn biết bao. Tôi là cư sĩ xuất gia. Các bạn là cư sĩ tại gia, tôi là cư sĩ xuất gia. Đây là thân phận danh phù hợp với thực, đây là đường lối chính xác. Gần đây pháp sư Hoằng Nhất là người nghiên cứu giới luật rất thông thạo, Ngài cũng tự xưng mình là ưu-bà-tắc xuất gia. Đây là điều chúng ta nhất định phải hiểu, phải biết thân phận của mình, để không đến nỗi làm sai việc. Nhưng ưu-bà-tắc xuất gia có thể học Bồ Tát hay không? Có thể. Ưu-bà-tắc xuất gia Bồ Tát. Đương nhiên có thể học Bồ Tát. Thiện của Bồ Tát nhất định phải phát tâm Bồ-đề. Phát tâm Bồ-đề chính là thật sự phát tứ hoằng thệ nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Bạn vẫn còn làm tổn hại chúng sanh sao? Bạn giúp đỡ họ còn không kịp, làm sao có thể làm tổn hại họ chứ? Nếu như chúng ta thấy bất kỳ chúng sanh nào cũng không vừa lòng, ghét bỏ họ, dùng tâm sân hận đối xử họ, là bạn không có tâm Bồ-đề rồi. Nếu như đối với chúng sanh, bạn yêu thương họ, có tình cảm ở trong đó, thì bạn cũng không có tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề là đại từ đại bi, thanh tịnh, bình đẳng, giác. Từ trong thanh tịnh, bình đẳng, giác sinh tâm đại từ bi, đây là tâm Bồ-đề, bạn mới có thể giúp đỡ tất cả chúng sanh. Muốn giúp đỡ tất cả chúng sanh, thì trước tiên phải thành tựu đức hạnh, trí tuệ của mình. Cho nên tiếp theo đó phải tu đoạn phiền não, đoạn tập khí: “Phiền não vô tận thệ nguyện độ”. Thành tựu học vấn, trí tuệ của mình là “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Sau cùng là “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Ba nguyện phía sau là để hoàn thành nguyện thứ nhất. Bạn thành Phật để làm gì? Bạn đoạn phiền não vì cái gì? Bạn học pháp môn vì cái gì? Thành Phật đạo vì cái gì? Vì độ tất cả chúng sanh, không phải vì mình. Nếu như nói đoạn phiền não là vì mình, học pháp môn cũng vì mình, đó là Tiểu Thừa, Bồ Tát Quyền Giáo, chấp ngã và chấp pháp vẫn chưa có đoạn hết. Đương nhiên là nhạt mỏng hơn phàm phu chúng ta quá nhiều, những vẫn chưa sạch sẽ. Đạo lý này chúng ta nhất định phải hiểu. Cho nên chữ thiện ở chỗ này là chữ mấu chốt. Chúng ta có làm thiện được hay không? Chúng ta có phải là kẻ thiện nam, người thiện nữ mà trong kinh điển nói không? Trước tiên nói ra người mong cầu, sau đó nói việc mong cầu. Việc mong cầu rất rộng rất nhiều. Những việc bạn mong cầu không có gì không mãn nguyện. Trong chú giải chú cũng rất hay, chúng ta ở đây hãy đọc qua một lược. “Nguyện niệm tại nội” (Ý niệm nguyện vọng ở bên trong) . Bạn có nguyện, có ý nghĩ mong cầu ở bên trong. “Sự tướng cứ ngoại” (Sự tướng ở bên ngoài.) Việc mà bạn mong cầu ở bên ngoài. “Ước thế xuất thế gian tắc hữu bách thiên vạn ức.” (Ở trong thế gian và xuất thế gian thì có trăm nghìn vạn ức.) Những việc mà bạn mong cầu quá nhiều quá nhiều, nói mãi không hết. “Hoặc cầu hiện sanh quả toại” (Hoặc cầu quả báo hiện đời được toại nguyện) Hoặc giả là nguyện vọng mà bạn cầu trong đời này đều được vừa lòng như ý. Ý nghĩa của chữ toại chính là vừa lòng như ý. “Hoặc kỳ tha thế tùng tâm” (Hoặc cầu đời sau được thỏa lòng) Hoặc là hy vọng đời sau, những gì bạn mong cầu không phải đời này mà đời sau được quả báo thù thắng. Dưới đây pháp sư trích dẫn: “Thập Luân Kinh vân, Ðịa Tạng thập luân kinh “Thử thiện nam tử, tùy sở tại xứ, nhược chư hữu tình, hoặc vi đa văn” (Kinh Địa Tạng thập luân nói rằng: “Người trai lành ấy ở bất cứ nơi đâu, nếu các hữu tình vì muốn được đa văn) Đây là nêu ra mấy ví dụ, hy vọng trong đời này có duyên thật tốt nghe được Phật pháp. “Tịnh tín, tịnh giới, tịnh lự” (Niềm tin thanh tịnh, giới thanh tịnh, định thanh tịnh) Tịnh lự là thiền định, “Thần thông, Bát Nhã, giải thoát, diệu sắc, thanh, hương, vị xúc, lợi dưỡng danh văn, công đức, hoa quả, thọ lâm, sàng phu, xá trạch đẳng, thị dã.” (Đó là thần thông, bát nhã, giải thoát, diệu sắc thanh, hương, vị, xúc, lợi dưỡng, danh văn, công đức, hoa quả, rừng cây, giường chiếu, nhà cửa, v.v.) Đây là nêu ra mấy ví dụ. Hầu hết người thế gian và xuất thế gian muốn mong cầu, những việc mà bạn cầu nguyện quá nhiều, quá nhiều. Dưới đây là dạy chúng ta phương pháp cầu.
“Ðản đương quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán Ðịa Tạng Bồ Tát hình tượng, như thị sở nguyện sở cầu tất giai thành tựu.”
(Thời chỉ nên quy y chiêm ngưỡng đảnh lễ, cúng dường, ngợi khen hình tượng của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát. Được như thế thời nguyện những chi và cầu những chi thảy đều thành tựu cả.)
Đoạn này thực ra chính là “Như giáo tu hành cúng dường” (Cúng dường tu hành đúng như đã dạy) trong “Phẩm Hạnh Nguyện”. Câu đầu tiên trong cúng dường pháp, chỉ cần bạn thật sự có thể làm được cúng dường tu hành đúng như đã dạy, thì nguyện mà bạn mong cầu không có nguyện nào không mãn, bạn đều có thể đạt được. Cho nên ý nghĩa của câu này bạn nhất định phải hiểu cho thật rõ ràng, thật thấu triệt. Bốn chữ “Quy y cúng dường” này là quan trọng nhất. “Quy” là quay đầu, từ tất cả sai lầm, tất cả lỗi lầm của chúng ta thật sự quay đầu. Quay đầu chính là sám hối. Lúc tôi mới học Phật, đại sư Chương Gia dạy tôi, Ngài nói với tôi, Ngài nói: “Ở trong cửa Phật, có cầu ắt ứng” đây là thật chứ không phải giả. Khi bạn có cầu mà không ứng, không có cảm ứng. Vậy là do nguyên nhân gì? Là bản thân bạn có chướng ngại. Chỉ cần bạn sám trừ nghiệp chướng, thì cảm ứng liền hiện tiền ngay. Tôi bèn thỉnh giáo ông cụ, phải sám trừ như thế nào? Ngài đã dạy tôi bốn chữ. “Sau không tạo nữa”. Tôi hiểu rõ rồi. Thiện tri thức chân chánh không nói lời giả dối, cũng không nói vòng vo dài dòng, mà đơn giản vắn tắt. Trong cửa Phật chúng ta có rất nhiều nghi thức sám hối, không cần thiết. Bạn biết bạn sai, về sau không tái phạm sai lầm giống như vậy, là chân sám hối. Tôi theo học với Ngài ba năm, cách Ngài hướng dẫn tôi khác với những pháp sư đại đức thông thường. Khiến chúng ta sau khi nghe xong thấy hợp tình, hợp lý, hợp pháp, không thể không khâm phục. Từ đó tôi mới hiểu, tôi biết mình phạm sai lầm, đó chính là giác ngộ. Biết chính là giác. Bạn giác ngộ rồi. Có thể sửa chữa sai lầm trở lại, đây là tu hành, là sám hối. Cho nên nhà Phật nói tu hành, thì hai chữ sám hối thảy đều bao gồm cả, tức là không tái phạm sai lầm như vậy nữa. Nhà Nho nói không lỗi hai lần, là không có khác gì so với nhà Phật nói. Sai lầm chỉ có thể phạm một lần, không được phạm lần thứ hai. Lần thứ nhất là bạn không biết, lần thứ hai biết rồi, giác ngộ rồi, nên không được phép tái phạm lần thứ hai. Đây là quay đầu, thật sự quay đầu rồi. Sau khi quay đầu, thì đời sống của chúng ta, hành vi của chúng ta, đối nhân xử thế phải nương vào cái gì? Nương vào lời giáo huấn của “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện”. Đây gọi là quy y. Bạn quy y Bồ Tát Địa Tạng. Nếu như chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói việc làm trái ngược lại với lời giáo huấn trong kinh này, vậy là bạn không phải quy y, bạn chưa có nương tựa, không có nương tựa lời giáo huấn của Bồ Tát Địa Tạng để làm. Kiểu quy y đó của bạn là giả, hữu danh vô thực. Quy y hữu danh vô thực, xin thưa với quý vị, không những không có lợi ích, mà còn sai lầm. Khi bạn chưa có quy y bạn phạm tội, khi kết tội chỉ bị một lớp tội. Sau khi quy y, biết rõ mà cố phạm, bạn bị hai lớp tội. Đạo lý này hoàn toàn không khó hiểu, tôi tin người căn tánh bậc trung cũng có thể biết rõ ràng, minh bạch. Cho nên người thiện là người thật sự quy y. “Chiêm lễ” là thời khóa công phu. Chúng ta ngày nay nói thời khóa sáng tối. Cũng chính là nói từng giây từng phút nhắc nhở mình. Thời khóa sáng tối bạn phải chiêm ngưỡng hình tượng Bồ Tát Địa Tạng, lễ bái hình tượng Bồ Tát Địa Tạng. Lễ bái là cung kính, là biểu đạt tâm thành kính của mình, y giáo phụng hành. Chúng ta nương vào kinh luận nào để tu hành vậy? Chúng ta không có năng lực đọc thuộc toàn bộ kinh luận, nhưng nhất định phải trích lục những chỗ quan trọng trong kinh luận ra, phải nhớ kỹ nó, phải đọc mỗi ngày. Đương nhiên bạn có thời gian, thì mỗi ngày đem “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” ra đọc một lần là rất tốt. Nói thực ra đọc một lần không được. Tại sao vậy? Không thể nhớ được. Vẫn là phải trích lục từng điều từng điều trong đó ra. Giống như chúng ta soạn ra cuốn “Quy tắc tu học Tịnh Tông” vậy. Chúng ta trích lục từ trong “Kinh Vô Lượng Thọ” ra sáu mươi điều, dễ nhớ. Sáu mươi điều này, mỗi điều đều phải làm được. Chúng ta lại trích lục ra từ trong “Kinh Bảo Tích”, “Kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo” sáu mươi điều. Bộ kinh này là đức Thế Tôn chuyên nói về thời mạt pháp, chính là thời đại này hiện nay của chúng ta, những lỗi lầm mà người xuất gia thường hay phạm, bản thân chúng ta không biết. Mình không biết mình làm sai, cho rằng mình làm rất đúng. Khi đức Phật nói như vậy, chúng ta mới chợt vỡ lẽ ra, mỗi ngày đang tạo tội nghiệp, mà vẫn cho rằng mình tu rất tốt. Tương lai rơi vào Tam Đồ vẫn không biết tại sao bị đọa lạc. Bạn nói đáng thương biết bao, đáng sợ biết bao? Cho nên bộ kinh này rất quan trọng, Thế Tôn khai thị cho người xuất gia thời mạt pháp, chỉ trích những lỗi lầm của chúng ta, cần phải điều chỉnh như thế nào, không chỉ ở bộ kinh này mà thôi. Nhưng chúng ta trích ra mấy điều này, trước hết phải điều chỉnh lại những lỗi lầm lớn, sau đó điều chỉnh lại lỗi lầm nhỏ. Không điều chỉnh được lỗi lầm lớn, thì lỗi lầm nhỏ cũng không dễ gì điều chỉnh lại được, không thu được hiệu quả. Cho nên thật sự phải nương vào “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” tu hành. Lời giáo huấn trong kinh điển cũng phải trích ra mấy chục điều, để ở trước mặt mình, mỗi ngày phải làm theo, đây gọi là cúng dường. Cúng dường tu hành đúng như lời chỉ dạy, đây là bạn tự tu. Không những bản thân bạn phải y giáo phụng hành, bạn còn phải giáo hóa chúng sanh. Nó là pháp Đại Thừa. Thiện của Bồ Tát Đại Thừa là: “Phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả.” Cho nên chỉ có tự mình làm thì vẫn chưa được, còn phải khuyến hóa người khác. “Tán thán Địa Tạng Bồ Tát hình tượng” (Khen ngợi hình tượng Bồ Tát Địa Tạng). “Hình tượng” này, xin thưa với quý vị là không phải đúc khắc thêu vẽ hình ảnh. Quý vị thử nghĩ đây là hình tượng gì? Là hình tượng Bồ Tát Địa Tạng thị hiện ở nhân gian. Ngài dùng tâm gì để đối nhân xử thế, Ngài dùng thái độ như thế nào để tiếp xúc với mọi người, mọi việc, mọi vật, đây gọi là hình tượng. Khen ngợi ở đây là giảng giải công đức của Bồ Tát Địa Tạng. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng giải cho chúng ta “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện”, “Kinh Địa Tạng Thập Luân”, “Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo”, đây là những kinh chuyên khen ngợi hình tượng Bồ Tát Địa Tạng. Cho nên mọi người đừng nên hiểu lầm, tạo một bức tượng Bồ Tát Địa Tạng, đây chính là khen ngợi, là bạn đã sai toàn bộ rồi. Khen ngợi ở đây, một mặt là phải vì người diễn thuyết, và còn phải làm tấm gương tốt cho người ta thấy. Bạn tu pháp môn Địa Tạng, vậy bạn có giống Bồ Tát Địa Tạng không? Hình ảnh của bạn có phải là hình ảnh Bồ Tát Địa Tạng không? Đây là thật sự khen ngợi. Bạn có thể làm như vậy, bạn là Bồ Tát Địa Tạng đại biểu cho Thế Tôn hoằng pháp lợi sinh, tiếp dẫn đại chúng ở thời kỳ mạt pháp, thì những gì bạn nguyện cầu đâu có lý nào không thành tựu chứ? Quý vị thử nghĩ xem những gì bạn nguyện cầu, là do công đức tự tánh của bạn hiện tiền hay là do Phật Bồ Tát gia trì cho bạn? Cả hai đều có cả. Công đức tự tánh là nhân, Phật Bồ Tát gia trì là duyên. Nếu như mình không có thật sự tu, thì duyên của Phật Bồ Tát không thể tiếp đến được, muốn làm tăng thượng duyên cho bạn cũng vô phương, không thể làm được. Mình cần phải có nhân, bạn có nhân thật, Phật Bồ Tát làm trợ duyên cho bạn, thì quả sẽ rất thuận lợi. Xem tiếp kinh văn dưới đây:
“Phục nguyện Địa Tạng Bồ Tát cụ đại từ bi, vĩnh ủng hộ ngã, thị nhân ư thùy mộng trung tức đắc Bồ Tát ma đảnh thọ ký.”
(Lại cầu mong Địa-Tạng Bồ Tát, vận đức từ bi rộng lớn ủng hộ mãi cho, người đó trong giấc chiêm bao liền đặng Ngài Địa-Tạng Bồ Tát xoa đảnh thọ ký.)
Chú giải chú rất hay, bạn xem: “Quy cúng hiệp pháp” (Quy y cúng dường đúng pháp) Câu này quan trọng biết bao. Quy y cúng dường hợp pháp. “Cầu khẩn như tâm, cố cảm đại sĩ, mộng trung thọ ký” (Cầu khẩn đúng như tâm nên cảm được Đại Sĩ trong mộng thọ ký.) Đây là Bồ Tát làm tăng thượng duyên cho bạn. Việc quy y cúng dường của bạn không đúng như pháp, bạn mong cầu như thế nào đi nữa cũng không được cảm ứng. Cho nên nói mong cầu đúng như lý như pháp, thì nhất định được thành tựu. Vả lại cho dù vì mình, cũng là vì chúng sanh. Giống như lời trong tứ hoằng thệ nguyện nói, nguyện đoạn phiền não, nguyện học pháp môn, nguyện thành Phật đạo. Tại sao vậy? Để độ chúng sanh. Nếu như nói là chỉ để thành tựu cho mình, mà không phải hết lòng hết sức ủng hộ chúng sanh, thì nguyện này rất khó thành tựu. Vì chúng sanh và cũng vì mình là không sai, nhưng vẫn có chướng ngại như thường, vậy là có chướng duyên. Vì chúng sanh không vì mình thì nguyện này rất thuận lợi, rất dễ thành tựu. Nguyện vì chúng sanh, không vì mình cũng không thể thành tựu, đó là do nguyên nhân gì? Nghiệp chướng của chúng sanh rất nặng. Không phải Bồ Tát không giúp đỡ, do nghiệp chướng của chúng sanh quá nặng, không chịu nghe dạy bảo, họ nhất định phải nhận quả báo. Từ trong quả báo tỉnh ngộ trở lại, lúc đó Phật Bồ Tát sẽ đến dạy họ. Từ đó cho thấy, Phật Bồ Tát có hiện thân hay không, Phật Bồ Tát có thuyết pháp hay không, Phật Bồ Tát có dạy chúng sanh hay không đều là một lòng từ bi. Các Ngài không hiện thân, không thuyết pháp, không dạy chúng sanh là do duyên không chín muồi. Cái duyên này là phụ thuộc bên phía bản thân chúng sanh, chứ không phải bên phía Phật Bồ Tát. Mình nhất định phải giữ tâm thiện, phải làm việc thiện, phải phát nguyện thiện, như vậy mới có thể cảm được Phật Bồ Tát hiện thân thuyết pháp, đến giúp đỡ chúng ta. Nếu như tâm của chúng ta bất thiện, hạnh bất thiện, thì Phật Bồ Tát chắc chắn sẽ không đến. Chúng ta hiểu rõ những đạo lý này mới hiểu được tại sao có người cầu thì Phật Bồ Tát liền hiện thân? Có người cầu mỗi ngày, cầu bao nhiêu năm mà không thấy hình bóng Phật Bồ Tát đâu cả, đạo lý là ở chỗ này. Nói thực ra tất cả kinh pháp mà chư Phật Bồ Tát nói, chẳng qua là nói rõ chân tương của vũ trụ nhân sinh, và những lý sự nhân quả chuyển biến tương tục này. Chân tướng sự thật, đạo lý chuyển biến, những sự thật chuyển biến, đều ở ngay trước mắt chúng ta. Sáu căn của chúng ta hằng ngày tiếp xúc với những cảnh giới này, đó là giống như lời trong kinh nói, chúng ta tiếp xúc là mê chứ không giác. Bày ngay trước mắt mà chúng ta không thấy ra, không nghe hiểu. Chư Phật Bồ Tát thương xót chúng ta, nương ngay sự tướng trước mắt giúp chúng ta thức tỉnh. Quý vị hãy quan sát thật kỹ, tư duy thật kỹ, bạn thấy “Hoa Nghiêm” và tất cả kinh luận Đại Tiểu Thừa có phải như vậy hay không? Chúng ta thật sự hiểu rõ, vậy thì giống như lời trong Đại Kinh nói, chư Phật Như Lai giảng kinh thuyết pháp cho tất cả chúng sanh: “Nói tế, nói thô, nói không gián đoạn” đây đều là sự thật. Chúng ta hãy nhìn cụ trưởng hội Trần Quang Biệt hiện nay cũng đang bị bệnh, mỗi ngày nghe kinh, xem băng ghi hình, mỗi ngày xem tám giờ đồng hồ, ở trong phòng nghỉ có đặt ti vi, đầu đĩa. Hiện tại đang nghe, xem giảng ký về “Kinh Kim Cang”, buông xả vạn duyên nhất tâm niệm Phật. Gần đây còn có mấy vị cư sĩ, đều là bị bệnh rất nghiêm trọng, khi vừa phát tâm như vậy bệnh liền khỏi ngay, khỏi hoàn toàn rồi, đi kiểm tra lại thấy đã rất bình thường, thật sự không thể nghĩ bàn. Cho nên cầu Bồ Tát Địa Tạng mãi mãi bảo vệ là thật sự có thể làm được. Chỉ cần thiện tâm của bạn không lui sụt, thì Bồ Tát sẽ bảo vệ bạn mãi mãi. Nếu như tâm của bạn lui sụt, thì Bồ Tát lìa khỏi ngay. Vĩnh viễn tâm không lui sụt, vĩnh viễn y giáo phụng hành, càng làm niềm tin càng kiên định. Niềm tin càng thanh tịnh, thì pháp hỷ tràn đầy, càng làm càng hoan hỷ, chư Phật Bồ Tát sao mà không hộ niệm chứ? Chư Phật Bồ Tát hộ niệm, thì thiên long thiện thần sẽ ủng hộ, đó là đạo lý nhất định. Cho nên những sự việc này bắt đầu từ chỗ mình thật tu. Sự cầu nguyện này là Bồ Tát Đại Thừa, cầu Bồ Tát Địa Tạng đại từ đại bi vĩnh viễn phù hộ. Bồ Tát nhận lời bạn, thì sẽ báo mộng cho bạn biết, trong mộng mơ thấy Bồ Tát xoa đảnh thọ ký. Trong chú giải nói, câu sau cùng: “Nhược phi tín lực kiên cố, an hữu như thị thoại tướng” (Nếu không có niềm tin vững chắc thì làm sao có tướng tốt lành như vậy) Tướng lành hiếm có đều dựa vào niềm tin thanh tịnh vững chắc của bạn. Chúng ta đọc xong cần phải nên học tập. Xem tiếp đoạn thứ sáu dưới đây: “Phát hiện sanh trí tuệ.” (Phát trí tuệ ngay trong đời này) Nói thực ra điều này có quan hệ quá lớn đối với chúng ta. Chúng ta nghiên cứu kinh điển học giáo lý mà trí tuệ không mở mang. Đây là dạy cho chúng ta phương pháp khai mở trí tuệ.
“Phục thứ Quán Thế Âm Bồ Tát! Nhược vị lai thế.”
(Lại vầy nữa này Quán Thế Âm Bồ Tát! Nếu như trong đời sau.)
Đều là nói chúng ta hiện nay. Hay nói cách khác đều là dạy bản thân chúng ta, chứ không phải dạy người khác.
“Thiện nam tử, thiện nữ nhân”
(Có người thiện nam, kẻ thiện nữ nào)
Nhớ chú ý chữ “Thiện” này. Tịnh nghiệp Tam Phước rất quan trọng, đó là chánh nhân tịnh nghiệp của ba đời chư Phật. Phật pháp bắt đầu học từ đâu? Tam Phước là cơ sở. Nếu như lơ là mặt này, không có nghiêm túc mong cầu, thì cả đời bạn cũng không có thành tựu. Giống như xây nhà vậy, trừ khi bạn cất am tranh thì được, chứ nếu bạn xây cao ốc thì chắc chắn không thể xây được. Tại sao vậy? Bạn không có làm nền móng. Tam Phước là nền móng, là cơ sở. Bạn xây nền móng càng vững chắc, thì bạn mới có thể xây lầu càng cao được. Hiện nay xây lầu xây mấy chục tầng, xây hơn một trăm tầng, thì nền móng đó phải xây vững chắc cỡ nào. Tam Phước là cơ sở, là cơ sở thành Phật. Chỉ có điều thứ nhất là cơ sở của phước báo trời người, chưa có thoát khỏi lục đạo. Phước báo, nhân thiện, quả thiện trong lục đạo, đó là điều bạn chắc chắn hưởng thụ. Bởi vì bạn có cái cơ sở này, có thể nói là bạn không bị đọa ba ác đạo, đời đời kiếp kiếp hưởng thụ phước báo trời người. Nếu như phước thứ hai trong Tam Phước bạn cũng tu rất nghiêm túc, rất vững chắc, thì quả báo của bạn ở pháp giới tứ thánh. Pháp giới tứ thánh trong thập pháp giới gồm Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật quả trong thập pháp giới, bạn được cái phước báo này. Bạn có đầy đủ phước Bồ Tát Đại Thừa nữa, thì bạn mới có thể thoát khỏi thập pháp giới, hưởng thụ phước báo nhất chân pháp giới. Cho nên cơ sở này nếu chúng ta không nghiêm túc tu học, thì công đức lợi ích thù thắng mà trong Phật pháp nói, chúng ta sẽ không thể đạt được. Đạo lý này nhất định phải hiểu, nhất định phải sáng tỏ.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.