Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 74

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 74

 Mời xem kinh văn dưới đây:

  “Như thị phước lợi tối bất tư nghị, nhất bách kiếp trung thường vi Tịnh Cư thiên chủ, nhị bách kiếp trung thường vi Lục Dục thiên chủ, tất cánh thành Phật vĩnh bất đọa ác đạo, nãi chí bách thiên sanh trung nhĩ bất văn khổ thanh.”

  (Phước đức đó rất không thể nghĩ bàn đến được, trong một trăm kiếp thường làm Vua Trời Tịnh Cư, trong hai trăm kiếp thường làm Vua sáu từng trời cõi Dục, không bao giờ còn đọa vào ác đạo, cho đếntrong trăm nghìn đời, lỗ tai không hề nghe đến tiếng khổ, rốt ráo sẽ thành Phật đạo.)

 Đoạn kinh văn này là nói quả báo mà bạn bố thí có được. Bố thí là nhân của phước đức, ba nghiệp đều phải biết tu học. Trong tâm phải thường có ý niệm bố thí. Vừa mới nói rồi, chính là phục vụ chúng sanh, chúng ta nói như vậy để mọi người dễ hiểu. Niệm niệm phải có tâm nguyện phục vụ chúng sanh, đây là bạn bố thí tâm. Thường ngày dùng lời nói để khuyên người khác, phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân, đây là bạn bố thí miệng. Ở trong đời sống thường ngày, chúng ta thật sự làm được, là ngay trong cương vị làm việc của mình, là ngay trong cách thức sống hiện tại của mình, phải làm nên lợi ích xã hội, lợi ích chúng sanh, đây là bạn bố thí thân thể, hành động, bạn nhất định được phước. Bố thí tài, tài có nội tài và ngoại tài. Ngoại tài là vật ngoài thân. Nội tài là thân thể của ta. Ta dùng thân thể của ta, dùng sức lực của ta để phục vụ cho mọi người, đây là bố thí nội tài, được giàu có, bố thí tài được giàu có. Bố thí pháp là dùng trí tuệ của ta, dùng kỹ thuật, năng lực của ta giúp đỡ người khác, được quả báo là thông minh trí tuệ. Bố thí vô úy là làm cho đại chúng thân tâm an ổn, xa rời sợ hãi, xa rời lo âu phiền não, sẽ được quả báo khỏe mạnh trường thọ. Như vậy phước báo của bạn mới được viên mãn. Đời sống vật chất trong một đời của bạn không bị thiếu thốn, không cần quá nhiều, không thiếu thốn là tốt rồi, là rất viên mãn. Ăn mặc đầy đủ, thông minh trí tuệ, khỏe mạnh trường thọ, thì phước báo của người này mới là viên mãn. Chúng ta ngày nay nhìn thấy thế gian này, có rất nhiều người có của cải, mà không có trí tuệ, ngu si, họ thật sự có của cải. Lại nhìn thấy người có trí tuệ, người rất thông minh, nhưng thân thể không khỏe, nhiều tai nạn, bệnh tật. Đây là gì vậy? Đời trước họ không có tu bố thí vô úy, thường hay làm tổn hại tất cả chúng sanh, nên phải gặp nhiều tai nạn, bệnh tật. Họ nói: Tôi không có hại chúng sanh. Không có hại chúng sanh mà mỗi ngày ăn thịt chúng sanh, việc này là phiền phức rồi! Tôi còn nhớ có một lần, cư sĩ Lôi ở Hồng Kông đã từng báo cáo tại đây. Bà nhìn thấy quả báo hiện đời ở Hồng Kông, có người thích ăn hải sản, lúc chết đã bị một căn bệnh, là giống như con cua vậy, giống như tôm cá vậy. Quả báo hiện tiền mọi người đều nhìn thấy, làm cho rất nhiều người sợ hãi, những người ưa thích ăn hải sản không dám ăn nữa. Bà đã báo cáo cho chúng ta tại nơi này, chúng ta có ghi hình đó lại. Băng ghi hình này có thể lưu thông, có thể để cho mọi người xem. Chuyện bà kể là chân thật, người thật việc thật. Trong Giới Kinh tuy đức Phật không có ngăn cấm mọi người ăn thịt, đức Phật khuyên mọi người ăn “Tam Tịnh Nhục”. Tam Tịnh Nhục, thứ nhất là không nhìn thấy giết, bạn không có nhìn thấy sát sanh. Bạn không có nghe thấy âm thanh sát sanh. Thứ ba là nhất định không phải giết vì mình, đây gọi là Tam Tịnh Nhục. Nhưng có một số người thích ăn sống. Chính mắt nhìn họ giết, chính mắt ra lệnh cho đầu bếp sát sanh, họ muốn ăn đồ tươi sống. Nghiệp người này tạo là nặng rồi. Mặc dù bạn tu phước bố thí, mặc dù tu bố thí pháp được thông minh trí tuệ, nhưng quả báo của bạn chính là thân thể nhiều tai nạn bệnh tật. Thông thường thì cơ thể của người Trung Quốc không bằng người nước ngoài, người nước ngoài ăn thịt, nhưng sự thật là họ ăn Tam Tịnh Nhục, vả lại lúc họ ăn cũng tương đối đơn giản. Ở nước ngoài chúng ta thấy phổ biến nhất là thịt bò, thị gà, những động vật khác họ không ăn, rất ít ăn, yêu thương bảo vệ động vật. Nếu họ nhìn thấy bạn làm tổn thương động vật, họ không bằng lòng, họ sẽ không tha thứ cho bạn. Ở Úc Châu làm tổn thương động vật vô cớ là sẽ bị xử phạt, bị phạt tiền thậm chí còn phải ngồi tù, họ bảo vệ động vật. Sở dĩ gà và bò của họ đó là nuôi dưỡng để ăn, tạo nghiệp này sẽ nhẹ. Hãy nhìn người Trung Quốc, đặc biệt là người phương Nam cái gì cũng ăn, cái gì cũng muốn ăn sống, tạo cái nghiệp này sẽ rất nặng, sẽ gặp rất nhiều tai nạn. Cho nên nhất định phải biết tu phước như thế nào. Đạo khỏe mạnh trường thọ, tất nhiên phương thức sống của chúng ta rất quan trọng, nhưng đó chỉ là duyên. Nhân đích thực là do đã tu bố thí vô úy trong đời quá khứ. Bố thí vô úy là làm cho tất cả động vật, những động vật hữu tình, có mạng sống, khiến cho chúng được yên ổn, khiến cho chúng được vui sướng, không được phép làm tổn hại chúng, đây chính là thuộc về bố thí vô úy. Ngày nay gọi là yêu thương bảo vệ động vật. Chúng tôi thấy ở nước Mỹ, ở Canada, ở Úc Châu, những động vật hoang dã này không sợ con người. Bạn nhìn thấy động vật nhỏ, bạn vẫy tay nó liền đến ngay, chim cũng không sợ con người, bay đến đậu trên vai bạn. Con sóc vừa vẫy tay, nó liền chạy lên tay bạn. Động vật ở Trung Quốc không giống như ở nước ngoài, nhìn thấy người nó liền chạy mất. Động vật cũng biết tánh người, sinh ra ở nơi đó, nó biết con người không hại nó, con người là bạn tốt của nó, muốn gần gũi. Những động vật ở Trung Quốc và Đài Loan thì khỏi phải nói, chim nhìn thấy con người liền bay đi mất, nó biết những người này, con người là kẻ đối đầu với nó, là oan gia của nó, chắc chắn sẽ giết hại nó, nên gấp rút trốn chạy. Đây là dạy chúng ta phải tu bố thí như thế nào, tu phước như thế nào. Tu bố thí chính là tu phước. Bạn có thể tu học như thế này, tu bố thí như thế này thì quả báo là: “Nhất bách kiếp trung, thường vi Tịnh Cư Thiên Chủ.” (Trong một trăm kiếp thường làm Vua Trời Tịnh Cư) Tịnh Cư Thiên là trời Tứ Thiền, địa vị này là cao rồi, là được quả báo như vậy. Nguồn gốc của quả báo đều ở phát tâm. Bạn biết phát tâm, bạn mới tin quả báo mà Phật dạy là chân thật. “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Tất cả pháp sẽ chuyển theo tâm niệm của bạn. Trong nhân ở phía trước, trong tu nhân quan trọng nhất là phải có đại từ tâm, thì bạn mới có thể được quả báo này. Nếu như bạn là ái duyên từ, chúng sanh duyên từ thì cái quả báo đó không có lớn như vậy được. Đây là đại từ đại bi giống như Phật Bồ Tát vậy, thì quả báo là không thể nghĩ bàn. Thời gian một trăm kiếp, thời gian dài như vậy bạn làm Đại Phạm Thiên Vương, đây là cõi trời Sắc Giới.

  “Nhị bách kiếp trung, thường vi Lục Dục Thiên Chủ”

 (Trong hai trăm kiếp thường làm Vua sáu từng trời cõi Dục)

  Đại Phạm Thiên Vương, phước báo làm vua cõi trời Tịnh Cư hưởng hết rồi. Hưởng hết rồi thì đọa lạc xuống, nhưng họ vẫn còn phước thừa. Tuy phước đó không thể sinh vào cõi trời Sắc Giới, thì sinh vào trời Dục Giới, lại hưởng phước tiếp ở cõi trời Dục Giới.

  “Tất cánh thành Phật vĩnh bất đọa ác đạo”

  (Rốt ráo sẽ thành Phật đạo, không bao giờ còn đọa vào ác đạo.) 

  “Tất cánh thành Phật” là nói gieo hạt giống Kim Cang vào trong a-lại-da thức sẽ không còn bị hư hoại. Nếu như gặp được nhân duyên thù thắng. Duyên thù thắng, là giống như lời ngài Thiện Đạo Đại Sư nói: “Do gặp duyên khác nhau”. Nếu như họ gặp được Phật Pháp Đại Thừa, gặp được pháp môn Tịnh Độ, dùng thiện căn phước đức của họ, lại cộng thêm nhân duyên, họ sẽ nhất định vãng sanh bất thối thành Phật, vậy thì vĩnh viễn không đọa ác đạo. Sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc đương nhiên là không nghe tiếng khổ. Đoạn này là nói quả báo của họ. Pháp sư Thanh Liên ở trong chú giải, đoạn này chú giải rất nhiều, nói rõ những sự việc không thể nghĩ bàn. Ngài ở trong đây trích dẫn y cứ kinh luận. Nêu ra những việc bố thí như nhà cửa, giường chiếu, đồ ăn uống, thuốc thang. Cũng nói rõ những thứ này đều là pháp thế gian. Sao có thể nói là không thể nghĩ bàn? Dưới đây nói:

  “Thử do chánh hành thí thời, nhất niệm cụ đại từ tâm, tiện thị thành Phật căn bản.”

  (Ðó là do lúc bố thí, một niệm có đủ tâm đại từ, ấy là căn bản thành Phật.)

  Cho nên mấu chốt là ở ba chữ “Đại từ tâm” này. Thật sự là dùng tâm đại từ bi, không có phân biệt, không có chấp trước. Một niệm tâm này là không thể nghĩ bàn, cho nên được phước là không thể nghĩ bàn, quả báo không thể nghĩ bàn. Những phần chú giải còn lại quý vị có thể tự mình xem được. Mời xem tiếp kinh văn dưới đây:

  “Phục thứ Ðịa Tạng! Nhược vị lai thế trung, hữu chư quốc vương cập Bà La Môn đẳng, năng tác như thị bố thí, hoạch phước vô lượng, cánh năng hồi hướng bất vấn đa thiểu, tất cánh thành Phật. Hà huống Thích Phạm Chuyển Luân chi báo”

    (Lại vầy nữa, này Địa-Tạng Bồ Tát! Trong đời sau như có vị Quốc Vương và Bà La Môn, có thể làm những việc bố thí như thế sẽ đặng vô lượng phước lành. Nếu lại có thể đem phước đức đó hồi hướng đạo Bồ Đề, thời không luận là nhiều hay ít, rốt ráo sẽ thành Phật cả, huống gì cả những quả trời Phạm Vương, trời Đế Thích, Vua Chuyển Luân.)

  Đây là đức Phật gọi Ngài Bồ Tát Địa Tạng lại và nói với Ngài, hai hàng kinh văn này là có hai đoạn. Đoạn thứ nhất là tổng kết phước bố thí, đoạn phía sau là tổng kết phước hồi hướng. Tổng kết bố thí, đặc biệt nhắc đến: “Nhược vị lai thế trung.” (Nếu trong đời vị lai) Đó là chỉ chúng ta hiện nay. Đức Phật năm xưa giảng kinh thuyết pháp có nói đến đời vị lai. Vị lai là bao gồm chúng ta ở trong đó. “Hữu chư quốc vương cập Bà La Môn đẳng.” (Có vị Quốc Vương và Bà La Môn, vv…) Đây là nói người hay bố thí. Chữ “Đẳng” là bao gồm chúng ta, bao gồm mọi người đều ở trong đó. Bạn hiểu được đạo lý này, hiểu rõ chân tướng sự thật, thì cần phải cố gắng nỗ lực vì xã hội, vì đại chúng phục vụ, đây chính là tu bố thí ba-la-mật. Vì đại chúng xã hội phục vụ, quan trọng nhất là tâm chân thành, tâm thanh tịnh, chúng ta làm tròn nghĩa vụ, không mong cầu đền đáp. Đời sống của mình ăn mặc đầy đủ là được rồi, tuyệt đối không ham muốn hưởng thụ xa xỉ. Nếu như ham muốn những thứ này, thì phước mà bạn tu sẽ báo hết, sẽ báo sạch ngay. Bạn không mong cầu phước báo, thì phước báo sẽ tích lũy ở đó, càng tích càng dày, sẽ biến thành phước báo lớn không thể nghĩ bàn. Phước báo lớn mà mình vẫn không tiếp nhận, đem phước báo lớn này cúng dường cho tất cả chúng sanh, thành tựu vô lượng vô biên phước báo của mình, vô lượng vô biên phước báo vẫn không hưởng thụ. Vô lượng vô biên phước báo đem cúng dường cho tất cả chúng sanh trong tận hư không khắp pháp giới, bạn nói viên mãn biết bao, hạnh phúc biết bao! Việc vui lớn đứng đầu của đời người, không có gì bằng niềm vui này. Chúng ta ở nhà nhỏ, sống đời sống đơn giản, có gì không tốt chứ? Sống tự tại biết bao. Việc gì phải ở trong những ngôi nhà sang trọng, đi ra đường có rất nhiều người tiền hô hậu ủng. Tôi cảm thấy đời sống như vậy rất bất tiện. Ra đường còn phải mang theo rất nhiều vệ sĩ, khiến hành động không tự do, giàu sang quá mức, ở trong nhà sợ người ta trộm cướp, còn phải mời rất nhiều cảnh sát đến bảo vệ. Thật sự mà nói, vậy là vô tình đã giam lỏng mình lại rồi, không có được đời sống tự do tự tại. Việc gì phải như vậy? Bạn có của cải tại sao không xả? Sau khi xả rồi mới thật sự được tự do tự tại. Trong kinh Phật thường nói là “Đời sống giải thoát”, đó là đời sống mỹ mãn nhất, không bị trói buộc, tự do tự tại, vậy là đúng rồi. Chúng ta học Phật phải rõ lý, phải hiểu rõ chân tướng sự thật, cho nên phải chịu tu bố thí, chịu vì đại chúng xã hội phục vụ, dâng hiến thân tâm của chúng ta, dâng hiến năng lực trí tuệ của chúng ta, để tạo phước cho mọi người, đừng nên hưởng phước, như thế thì bạn sẽ được phước vô lượng. Đây là tổng kết phước bố thí.

  “Cánh năng hồi hướng, bất vấn đa thiểu, tất cánh thành Phật”

  (Nếu lại có thể đem phước đức đó hồi hướng đạo Bồ Đề, thời không luận là nhiều hay ít, rốt ráo sẽ thành Phật cả.)

 Dưới đây là tổng kết phước hồi hướng, phước báo của hồi hướng.

  “Cánh năng hồi hướng, bất vấn đa thiểu, tất cánh thành Phật”

  (Nếu lại có thể đem phước đức đó hồi hướng đạo Bồ Đề, thời không luận là nhiều hay ít, rốt ráo sẽ thành Phật cả.)

  Nguyên nhân tại sao vậy? Bởi vì phía trước bạn có tâm đại từ, tâm đại từ là tâm Phật. Không cần hỏi công đức bạn tu nhiều hay ít, bạn cũng đều thành Phật cả, bởi vì tâm bạn dùng là tâm Phật, để phục vụ đại chúng xã hội.

  “Hà huống Thích, Phạm, Chuyển Luân chi báo”

  (Huống gì cả những quả trời Đế Thích, trời Phạm Vương,  Vua Chuyển Luân.)

  Đây là ví dụ, ngay cả làm Phật bạn cũng có thể làm được, huống chi những thứ phước báo nhân thiên nhỏ bé này. “Thích” là vua trời Dục Giới. “Phạm” là vua trời Sắc Giới. “Chuyển Luân” thánh vương là phước báo lớn nhất cõi nhân gian. Bốn chữ này là nói phước báo lớn ở trong lục đạo. Làm Phật là phước báo rốt ráo viên mãn của thế gian và xuất thế gian. Phước báo rốt ráo viên mãn bạn còn có thể đạt được, huống gì phước báo nhỏ ở trong lục đạo? Trăm đời, nghìn đời, đây là phước báo nhỏ trong lục đạo, đương nhiên là có thể đạt được. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, hiểu rõ chân tướng sự thật mới biết không thể không tu bố thí, nó có lợi ích chân thật đối với mình. Tất cả pháp thế gian và xuất thế gian chỉ có pháp này là thật, những pháp khác đều không phải chân thật. “Phàm cái gì có hình tướng, đều là hư dối”. Nhà Phật thường nói: Mọi thứ đều để lại, chỉ có nghiệp theo mình. Ở thế gian này bạn có thể đem đi được những thứ gì? Lời đức Phật dạy chúng ta phải nhớ kỹ. “Cõi nước mong manh, mạng người vô thường”. Được thân người là điều đáng quý nhất. Chúng ta ngày nay nói được thân người có ý nghĩa nhất, có giá trị nhất chính là tu phước, chính là vì tất cả chúng sanh phục vụ, như thế là đời này bạn sống có ý nghĩa, có giá trị. Chúng ta nói có ý nghĩa, có giá trị, nói thực ra là rất trống rỗng, rất trừu tượng. Ý nghĩa ở chỗ nào? Giá trị ở chỗ nào? Đoạn kinh văn này là nói rất tường tận, sát thực. Cái giá trị, ý nghĩa này là phước báo vĩnh hằng, là phước báo mà bạn đời đời kiếp kiếp hưởng không hết. Ý nghĩa, giá trị này là ở chỗ này. Nếu như chúng ta vẫn còn một niệm tâm tham, vẫn còn một niệm tâm keo kiệt, bủn xỉn, vẫn không chịu làm nên sự phục vụ viên mãn cho mọi người, mình vẫn muốn giữ lại một chút, thì phước mà bạn tu là nhỏ rồi, quả báo của bạn là không thù thắng. Cho nên một người có phước báo hay không đều là ở trong khoảng một niệm của bạn. Một niệm này của chúng ta có phải nghĩ cho người khác, nghĩ cho toàn bộ xã hội, nghĩ cho quốc gia, nghĩ cho toàn nhân loại hay không? Vậy phước báo của bạn là lớn rồi. So đo từng tí luôn nghĩ cho đời mình, nghĩ cho gia đình mình thì phước báo của bạn là nhỏ rồi, là rất nhỏ bé. Bạn nghĩ cho cá nhân, phước báo bạn tu, đời sau bạn được phước báo cho thân này, một thân của mình hoặc là một nhà của mình, phước báo của bạn chỉ lớn như vậy. Bạn nghĩ cho riêng mình thì tương lai bạn có được cơ thể khỏe mạnh, cường tráng. Nếu như nghĩ cho gia đình, bạn là gia trưởng trong gia đình, gia đình bạn sống rất hạnh phúc, đâu thể giống như trong kinh điển là làm đại phạm thiên vương, làm vua trời Đao Lợi, bạn không có cái phước phần này. Tại sao vậy? Tâm lượng quá nhỏ rồi. Cho nên tu bố thí là cùng một sự việc giống nhau, mà quả báo lớn hay nhỏ, tên của Phẩm này là “So sánh phước báo”, đều ở tâm của bạn, đều ở lượng của bạn. Tâm lượng của bạn lớn, một niệm tâm đại từ bi, cái tâm đó là tâm trùm khắp hư không, lượng trọn khắp pháp giới. Cho nên tuy phước bố thí rất nhỏ, mà được tâm lượng mở rộng rồi. “Tất cánh thành Phật” (Rốt ráo thành Phật cả.) Cho nên việc hồi hướng đó là lớn, tâm lượng lớn rồi. Tại sao chúng ta không dùng tâm lượng lớn? Phải học tập dùng tâm lượng lớn, như thế mọi thứ sẽ đều lớn. Việc thiện nhỏ bằng mảy lông, cũng biến thành quả báo trùm hư không pháp giới. Chúng ta học trong “Kinh Hoa Nghiêm” rồi, mở rộng tâm lượng. Ở trong hội này đức Phật cũng dạy chúng ta mở rộng tâm lượng. Cho nên bộ kinh này không có khác gì so với “Kinh Hoa Nghiêm”, là cùng một cảnh giới. Mở rộng tâm lượng phục vụ cho tất cả chúng sanh, cho dù hy sinh cả mạng sống cũng không hề tiếc nuối, cũng vô cùng vui vẻ, vô cùng vui mừng. Ta hy sinh để tất cả chúng sanh được phước, lìa khổ được vui. Ta hạnh phúc biết bao, đáng giá biết bao! Tuyệt đối không vì một mảy may tham dục của mình, vậy mới là đệ tử Phật chân chánh, đây mới đích thực là thực hiện lời giáo huấn của đức Phật đối với chúng ta.

 Mời xem đoạn kinh văn dưới đây, trang mười tám. Trang mười tám vừa mở đầu, trong tiểu chú có mấy câu nói, chúng ta cần phải nhớ kỹ. Đây là pháp sư Thanh Liên trích dẫn một đoạn kinh văn trong “Kinh Ngũ Đạo Tội Phước”, chúng ta hãy đọc qua một lần. “Hiền giả hiếu bố thí.” (Người hiền thích bố thí). Chữ hiền giả ở đây chính là Bồ Tát. Người thích bố thí chính là Bồ Tát. Thích bố thí dùng cách nói hiện nay để nói, là thích vì nhân dân phục vụ, nhiệt tâm vì nhân dân phục vụ, toàn tâm toàn lực vì nhân dân phục vụ, đây chính là hiền giả thích bố thí. “Thiên thần tự phù tương” (Thiên thần tự nhiên giúp đỡ) Phù tương là giúp đỡ. Bạn có thể cảm động trời đất quỷ thần giúp đỡ. “Thí nhất đắc vạn bội” (Bố thí một nhưng được gấp vạn lần) Đây là nói quả báo. Quả báo bố thí của bạn là không thể nghĩ bàn, nó còn hơn gấp vạn lần so với vật mà bạn bố thí. “An lạc thọ mạng trường” (An vui tuổi thọ dài). Đây là bài kệ thứ nhất, nói rõ phước báo của bố thí. Bài kệ thứ hai là:

“Kim nhật đại bố thí,

 Kỳ phước bất khả lượng.

 Giai đương đắc Phật đạo

 Độ thoát ư thập phương.”

 (Ngày nay bố thí lớn

  Phước ấy không thể lường

  Đều trọn thành Phật đạo

  Độ thoát khắp mười phương.)

  Bài kệ phía trước này, giống như chúng ta vừa mới nói là tổng kết phước bố thí. Bài kệ phía sau này chính là tổng kết phước hồi hướng. Hai bài kệ này, chúng ta nhất định phải tỉnh ngộ trở lại. Trước đây mê hoặc điên đảo, tham lam keo kiệt, nay tỉnh ngộ lại, giác ngộ trở lại, hoàn toàn vứt bỏ những quan niệm, cách nghĩ, cách làm sai lầm trước đây. Chúng ta phải học theo đức Phật, chúng ta phải vâng theo lời giáo huấn của đức Phật, sửa đổi tư tưởng của chúng ta, sửa đổi tác phong của chúng ta, từ nay về sau chúng ta khởi tâm động niệm, phải luôn nghĩ đến sự khổ vui của đại chúng xã hội, phải luôn nghĩ đến phước họa của đại chúng xã hội. Những gì không có lợi cho đại chúng xã hội thì tuyệt đối không được làm. Không những không được làm, mà ngay cả nghĩ cũng không được nghĩ. Những gì có lợi ích cho đại chúng xã hội chúng ta phải hết lòng hết sức làm, phải hiểu rõ đạo lý này. Nếu như chúng ta tham tiền của, chiếm tất cả tiền của của đại chúng xã hội cho riêng mình, thì quả báo chắc chắn là đọa địa ngục. Đặc biệt là tiền của để cứu nạn. Trước đây lúc tôi mới học Phật, lão cư sĩ Chu Kính Trụ, có kể cho tôi nghe một câu chuyện. Sau này ông có chép chuyện này vào trong sách, ông có lưu truyền lại mấy cuốn sách cho người đời sau. Hình như là ở trong “Giảng Ký Kinh Bát Đại Nhân Giác” có câu chuyện này, “Giảng Ký Kinh Bát Đại Nhân Giác” của lão cư sĩ Chu Kính Trụ. Hình như câu chuyện này cũng có ở trong “Ảnh Trần Hồi Ức Lục” là cùng một sự việc giống nhau. “Ảnh Trần Hồi Ức Lục” là tự truyện của pháp sư Đàm Hư. Đây là thế hệ trước, các Ngài là người cùng thời đại, tuổi tác cũng xấp xỉ nhau, là chính mắt trông thấy. Lúc đó ở Thượng Hải, có một người giàu có, ở trong khu Tô Giới, đây là đầu năm Dân Quốc. Người này vô cùng giàu có, làm quan thời triều Thanh, chức quan cũng rất lớn. Sau khi Dân Quốc thành lập, lật đổ triều Thanh, ông bèn lánh nạn vào trong vùng Tô Giới. Lúc đó vùng Tô Giới được người nước ngoài bảo hộ. Về già ông cũng có học Phật, có xây cầu đắp đường, bố thí cúng giường trong cửa Phật, thường hay tu phước không kém ai cả. Hầu hết người trong nhà Phật gọi ông là người đại thiện, xem ông giống như Phật Bồ Tát vậy. Trải qua không bao nhiêu năm thì ông mất. Sau khi mất, ông có đến mấy bà vợ. Trong đó hình như người vợ thứ tư, đại khái là vợ tư, tôi nhớ cũng không rõ lắm, vô cùng nhớ đến ông. Đúng lúc đó có một người Pháp, là nhà ngoại cảm, có thể giao tiếp được với người âm. Người vợ bé này của ông nghe thấy có sự việc này, bèn tìm đến nhà ngoại cảm người nước ngoài này, xem thử có thể tìm được chồng của bà để gặp mặt và nói chuyện với bà hay không. Người này nói là có thể. Nhưng ông ra giá tiền rất đắc, lúc đó hình như là phải một nghìn đồng bạc. Nếu không phải người thật giàu có thì không thể mời nổi. Dù sao nhà bà cũng có tiền, cho nên bèn mời ông đến. Ông bảo bà nói cho ông biết họ tên, ngày giờ sinh, ngày giờ chết của chồng bà, sau khi chết rồi chôn cất ở chỗ nào, thì ông có thể tìm được. Cuối cùng mời ông đi tìm, ông không tìm thấy. Không tìm thấy, thì đương nhiên người vợ bé này rất giận dữ. Có phải ông lừa gạt tôi không? Ông ta nói, tôi hoàn toàn không phải lừa gạt bà. Ông nói, nếu như bà có bạn bè thân thích qua đời gần đây, tôi sẽ làm thử một lần cho bà xem, chứ tôi không có lừa gạt bà. Tôi chỉ lấy nửa giá tiền thôi. Bà nói được, thử xem sao. Đúng lúc con trai lớn của chồng bà, cũng vừa mất không bao lâu. Bà bèn dắt con dâu lớn của bà đến, cũng tìm người nước ngoài này, giá tiền chỉ lấy có một nửa. Quả nhiên không bao lâu, ông đã tìm được hồn của người này đến. Sau khi tìm đến thì hồn người đó nhập vào một người. Bà bèn hỏi vong hồn. Nhập vào trong người này thì hành động và thái độ của người này, quả thật là giống như người con trai đã chết của bà vậy, tiếng nói cũng giống. Bèn hỏi người con trai là: “Tại sao cha con đã qua đời rồi mà ông ta không tìm được? Người con trai nói: Sau khi cha anh ta chết thì đọa địa ngục, cho nên nhà ngoại cảm người Pháp này, ông ta có thể tìm được ở cõi quỷ, chứ địa ngục thì vô phương, vì ông đọa địa ngục. Ông là người rất tốt xây cầu đắp đường, hằng ngày lễ Phật, tụng kinh, làm nhiều việc tốt trong cửa Phật như vậy, tại sao ông bị đọa địa ngục, đâu có loại đạo lý này? Người con trai này nói, trước đây lúc ông làm quan vào triều Thanh, một lần hoàng đế sai ông đi cứu trợ thiên tai. Ông đại khái chiếm đoạt hết số tiền cứu trợ thiên tai này, cho nên rất nhiều người dân gặp thiên tai đó, không nhận được tiền cứu tế mà chết. Tội nghiệp này quá nặng, sau này tu hành như thế nào, cũng không cách gì bù đắp được, vẫn phải đọa địa ngục. Chuyện này rất ít, không có ai biết. Ông vẫn còn một người bạn hiện nay vẫn còn sống, có thể người bạn này biết chút ít về ông, mấy dì có thể đi hỏi thăm. Cuối cùng người vợ bé này của ông, đã tìm được người bạn già này. Hỏi xem có chuyện này hay không? Người bạn già của ông nhớ lại, quả là có chuyện này. Ông đã làm qua chức khâm sai đại thần, đi phát tiền cứu trợ cho dân. Nhưng có một số người biết, ông đã chiếm đoạt số tiền này. Chiếm đoạt bao nhiêu? Không có ai biết cả. Người bạn già này của ông cũng không biết. Ông nói quả thật có sự việc này. Đây là sai lầm lớn ông tạo nên. Bạn thấy chỉ tham một chút tiền của như vậy, mình có thể sống sung sướng được mấy ngày chứ? Tuổi già tạo việc tốt như thế nào đi nữa cũng không cách gì bù đắp được, vẫn là phải đọa địa ngục. Đọa địa ngục chúng ta đã nhìn thấy trong kinh này rồi, phải chịu khổ vô số kiếp. Cho nên số tiền cứu tế tai nạn này một chút cũng không được đụng đến, lỗi này rất nguy hiểm, lỗi lầm này rất nguy hiểm. Số tiền này là để cứu mạng người ta, nếu nhìn thấy số tiền của này mà muốn chiếm đoạt thì quả báo đều là ở địa ngục. Chúng ta nhìn thấy tai nạn lớn này phải dốc toàn tâm toàn lực ra giúp đỡ còn không kịp, nhìn thấy người ta có thể bỏ tiền bỏ sức ra để cứu nạn, thì hãy sinh tâm hoan hỷ, phải thuận theo, tu tùy hỷ công đức. Sao có thể ở trong đây tham chiếm đoạt, khởi tâm tham, tạo tội như vậy là cực nặng. Hễ là việc cấp cứu, cứu tế thì công đức này là lớn nhất, chúng ta xem thấy ở trong kinh. Nếu như ở trong đây khởi tâm ác, khởi niệm ác, muốn đi làm chướng ngại nó, phá hoại nó, chiếm đoạt nó, thì tội lỗi này đều ở địa ngục. Bố thí tài đã như vậy, thì bố thí pháp càng đúng như vậy hơn. Trong bố thí pháp đặc biệt là Phật Pháp. Phật Pháp là nền giáo dục cứu độ tất cả chúng sanh khổ nạn. Chướng ngại sự lưu thông Phật Pháp chính là đoạn pháp thân huệ mạng của tất cả chúng sanh, quả báo là ở địa ngục A Tỳ, năm địa ngục Vô Gián. Nếu như quý vị có đọc: “Kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo” thì sẽ biết. Bộ kinh này là Kinh Đại Thừa, là một phần ở trong “Kinh Bảo Tích”. “Kinh Bảo Tích” là đơn vị lớn, nó là một đơn vị nhỏ ở trong đây. “Kinh Vô Lượng Thọ” cũng được nói trong “Kinh Bảo Tích”. Bộ kinh này đức Phật hoàn toàn không giữ lại gì cả, Ngài đem tội nghiệp mà người xuất gia thời kỳ mạt pháp tạo, nói ra rất tỉ mỉ cho chúng ta biết. Chúng ta đọc kinh này mà thấy lạnh xương sống, tự xem mình có phạm tội hay không, có làm sai hay không? Nếu như làm sai mà không biết sám hối, không biết sửa lỗi, thì niệm Phật vẫn không thể vãng sanh, nhất định phải biết. Tạo tác tội nghiệp không sợ, sám hối là có thể tiêu trừ nghiệp chướng. Sám hối này là hoàn toàn chuyển trở lại, nhất định  không phạm sai lầm nữa. Phải chăm chỉ đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, đem những hành vi, quan niệm không tốt trong quá khứ, chuyển đổi trở lại một trăm tám mươi độ, vậy mới có thể cứu được mình. Cho nên bộ kinh này cần lưu hành với số lượng lớn, cần giảng cho thật nhiều, cần nghiêm túc học tập. Bộ kinh này tôi nhớ tôi đã giảng ba lần rồi, đã giảng một lần tại Mỹ, một lần tại Đài Loan, và cũng đã giảng một lần tại nơi này, có băng ghi âm, băng ghi hình lưu thông. Hình như hiện nay cũng có đồng tu chép lại thành sách. Cái phần viết thành sách này tôi vẫn chưa có xem. Sau khi tôi xem xong, bên trong thật sự không có sai lầm, vậy mới có thể đưa lên mạng internet được, lưu thông ở trên mạng, đại khái hiện nay ở trên mạng có băng ghi âm và băng ghi hình. Cho nên sự lưu thông Phật Pháp, sự phục vụ của Phật Pháp đối với tất cả chúng sanh, phước báo này là lớn nhất. Chúng ta cần phải học theo đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cả đời bố thí trí tuệ, đây là bố thí pháp. Trong bố thí trí tuệ, cũng đã bao gồm bố thí tài. Tại sao vậy? Vì dùng thân thể của chúng ta, dùng sức lực của chúng ta, hoàn toàn là sự dạy học thiện nguyện hết lòng, hướng dẫn đại chúng xã hội, khuyến thiện sửa lỗi, dùng thể lực của chúng ta đó chính là thuộc về bố thí tài. Chúng ta quan tâm đại chúng xã hội, yêu thương bảo vệ đại chúng xã hội, toàn tâm toàn lực giúp đỡ đại chúng xã hội, giúp họ giác ngộ, giúp họ sửa chữa lỗi lầm, giúp họ phát tâm, phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân, phục vụ chúng sanh, đây chính là bố thí pháp, cúng dường pháp, nên phước báo là lớn nhất. Tuy có phước báo lớn, mà bản thân chúng ta vẫn không hưởng thụ, đem phước báo này hồi hướng cho tất cả chúng sanh, để cho tất cả chúng sanh hưởng thụ. Cả đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều là trải qua đời sống đơn giản nhất. Tuyệt đối không có nói, trong hàng đệ tử có rất nhiều người là đại quốc vương. Ấn Độ thời đó có mười sáu vị vua nước lớn, đều quy y Phật Thích Ca Mâu Ni, đều làm học trò của Phật Thích Ca Mâu Ni, nhưng đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn là ba y một bát, Ngài không có thay đổi phương thức sinh hoạt. Đây là sự chỉ dạy của Thế Tôn đối với chúng ta, làm mô phạm cho chúng ta, mới có thể khiến cho đại chúng xã hội tôn trọng, ngưỡng mộ. Phàm phu thế gian có người nào không tham tiền của đâu? Có người nào không ham muốn hưởng thụ đâu? Vừa đọa lạc vào trong tham dục liền tạo tội nghiệp, liền gây phiền phức cho mình ngay. Đức Phật là hiện thân thuyết pháp, làm tấm gương tốt cho chúng ta. Con người sống ở thế gian ăn đủ no ba bữa là được rồi, không cần chú trọng đến ngon dỡ, ăn no là được rồi. Quần áo vải thô có thể che thân là được rồi! Tối đến có một chiếc giường, ngủ rất thoải mái, ngủ rất tự tại, là đủ rồi! Còn mong cầu gì nữa? Nếu còn dư bao nhiêu thì đem cho tất cả đại chúng cùng hưởng thụ, đây bèn gọi là Phật Bồ Tát, vậy bèn gọi là hành đạo Bồ Tát, vậy gọi là học Phật. Chúng ta ở thế gian bất kể là thân phận gì, bất kể là địa vị gì, bất kể làm trong ngành nghề nào, bất kể sống bằng cách thức gì, chỉ cần niệm niệm vì chúng sanh, niệm niệm vì xã hội, niệm niệm vì nhân dân, thì người này chính là Bồ Tát, người này là hành đạo Bồ Tát đích thực. Họ giữ cái tâm này chính là tâm Bồ Tát. Phước báo giống như lời trong kinh nói là không có cùng tận. Được rồi. Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến chỗ này.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *