Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 37

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 37

 Xin mời mở bản kinh ra, khoa chú quyển trung, trang 30, mời xem kinh văn hàng thứ nhất:

  “Phổ Quảng bạch ngôn: Duy nhiên! Thế Tôn. Nguyện nhạo dục văn.” (Ngài phổ Quảng bạch Phật rằng: ‘Vâng! Bạch đức Thế Tôn! Chúng con xin ham muốn nghe.’)

  Đoạn này có thể không cần giảng, mọi người xem qua liền hiểu ngay. Tiếp theo xem đoạn dưới đây:

  “Phật cáo Phổ Quảng Bồ-tát, vị lai thế trung nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân văn thị Địa Tạng Bồ-tát Ma Ha Tát danh giả, hoặc hiệp chưởng giả, tán thán giả, tác lễ giả, luyến mộ giả, thị nhân siêu việt tam thập kiếp tội.” (Đức Phật bảo Ngài Phổ Quảng Bồ-tát: ‘Trong đời sau, như có người thiện nam, kẻ thiện nữ nào nghe được danh hiệu của Địa Tạng đại Bồ-tát, hoặc là chắp tay, hoặc là ngợi khen, hoặc là đảnh lễ, hoặc là luyến mộ, người đó sẽ qua khỏi tội khổ trong ba mươi kiếp.’)

  Đoạn kinh văn này, hầu hết mọi người xem xong đều thấy rất khó tin, rất khó tiếp nhận. Tại sao vậy? Đâu có chuyện dễ dàng, thuận tiện như vậy. Một người nghe thấy danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, hoặc chắp tay, khen ngợi, đảnh lễ, luyến mộ, những hiện tượng bình thường như vậy thì có thể sẽ qua khỏi tội báo trong ba mươi kiếp, dường như khó tránh khỏi chuyện nói hơi quá, làm gì có lợi ích lớn như vậy được? Thực ra ở trong đoạn văn tự này, chữ mấu chốt là ở chữ “thiện”. Đây chẳng phải nói rất rõ ràng sao? Thiện nam tử, thiện nữ nhân, không phải là người nam, người nữ bình thường. Bạn nghe tên chắp tay, liền có công đức lớn như vậy. Chúng ta đọc kinh thường hay lơ là sơ ý nên bỏ sót rồi. Tiêu chuẩn của thiện, đây là Kinh Đại Thừa, tiêu chuẩn thiện của Kinh Đại Thừa, chúng ta bèn dựa theo “Kinh Phật Quán Vô Lượng Thọ” để nói, dùng cái tiêu chuẩn này để nói: “Tịnh nghiệp tam phước” thảy đều làm được mới gọi là thiện. Bạn chỉ có thể làm được: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ, từ tâm không giết hại, tu thập thiện nghiệp”, bạn là thiện cõi nhân thiên. Kinh này là Kinh Đại Thừa bạn vẫn chưa đạt được tiêu chuẩn này. Nếu như lại cộng thêm: “Thọ trì tam quy, giới luật đầy đủ, không phạm oai nghi.” Bạn cũng mới là thiện Nhị Thừa, là thiện của Thanh Văn, Duyên Giác, vẫn còn kém hơn một cấp so với tiêu chuẩn này. Thiện này nhất định phải “Phát tâm Bồ đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả.” Hay nói cách khác, 11 câu đều làm được, người này nghe thấy danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng chắp tay, khen ngợi sẽ qua khỏi tội khổ trong 30 kiếp. Thế thì còn lời gì để nói nữa? Mình có cái cơ sở này, lại cộng thêm oai thần của Phật Bồ-tát gia trì thì chúng ta có thể tin được. Cho nên thiện ở chỗ này không phải thiện nhỏ của phàm phu, đây là chữ mấu chốt. Rất nhiều người đọc kinh, nghe kinh, sau khi nghe xong bèn sinh nghi hoặc không tin, là do không chú ý đến chữ này, đây là chữ quan trọng nhất ở trong đoạn này. Tiêu chuẩn này há chẳng phải là phàm phu tâm lượng lớn mà trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói sao? Chúng ta là phàm phu, tại sao nói phàm phu tâm lượng lớn? Phàm phu bạn phiền não chưa đoạn, họ không phải Bồ-tát. Nếu như là Bồ-tát thì kiến tư phiền não đoạn rồi, trần sa phiền não cũng đoạn rồi, cũng phá một phần vô minh rồi, đó là thật chứ không phải giả. Tam phước trong “Quán Kinh” họ thật sự làm được rồi, đó là pháp thân đại sĩ, không phải người bình thường. Chúng ta phiền não chưa có đoạn, cũng tu theo pháp của Bồ-tát, chúng ta cũng tu. Tuy tu mà phiền não chưa có đoạn, đây gọi là phàm phu tâm lượng lớn. Tâm lượng lớn, pháp môn bạn tu ngang bằng với pháp thân đại sĩ, nhưng pháp thân đại sĩ phiền não đoạn rồi, còn chúng ta phiền não chưa có đoạn. Định nghĩa về thuật ngữ “Phàm phu tâm lượng lớn” là như vậy. Chúng ta muốn đạt đến tiêu chuẩn của Bồ-tát là không dễ dàng. Đừng nói Bồ-tát, mà Nhị Thừa, ngay cả sơ quả tu-đà-hoàn Tiểu Thừa, chúng ta ở trong đời này muốn bước vào cảnh giới của các Ngài, cũng là chuyện không dễ dàng, cũng không phải là có thể làm được. Cho nên chúng ta dùng thân phận phàm phu tu pháp môn Tiểu Thừa, tu pháp môn Bồ-tát, thậm chí là tu đại pháp Nhất Thừa, việc này không phải là không thể. Đặc biệt là lời trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói: Một tức tất cả, tất cả tức một. Từ sơ phát tâm là có thể tu pháp môn của Bồ-tát đẳng giác. Điều này đúng như lời trong kinh nói: “Hành bố bất ngại viên dung, viên dung bất ngại hành bố”. Hành bố là thứ lớp. Viên dung là thoát khỏi thứ lớp, hiển thị ra pháp giới vô chướng ngại. Cũng chính là nhắc nhở chúng ta, chúng ta có thể tu học pháp giới vô chướng ngại, không phải không thể tu. Không phải nói nhất định phải đến cấp bậc đó mới tu. Phật pháp khác với trường học trong thế gian. Trong trường học thế gian học trò lớp một tuyệt đối không thể tu học khóa trình của lớp tiến sĩ. Nhưng ở trong Phật pháp thì được, người mới phát tâm học đã có thể tu pháp môn ở trên quả địa Như-lai. Trên quả địa Như-lai là pháp gì vậy? Pháp bình đẳng. Cho nên mặc dù Bồ-tát đẳng giác, trên quả địa Như-lai Ngài cũng không từ bỏ pháp môn mà người sơ phát tâm tu. Người sơ phát tâm tu pháp môn gì vậy? Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ, Phật cũng không bỏ, đây gọi là một tức tất cả, là khác với cách dạy học trong thế gian. Từ đó cho thấy, ở trong Phật pháp không có thứ lớp, sâu cạn. Bạn nói cạn, cạn chính là sâu. Nói sâu, sâu chính là cạn. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ là rất cạn, là cho người mới vào cửa Phật học, nhưng Bồ-tát đẳng giác cũng tu, Như-lai cũng tu, nhất định không có bỏ, cho nên cạn chính là sâu. Pháp môn Như-lai thanh tịnh, bình đẳng cái này rất sâu, người sơ học chúng ta cũng có thể tu, sâu tức là cạn, cạn sâu không hai. Nên Phật pháp được gọi là pháp môn không hai, đạo lý là ở chỗ này. Chúng ta xem bộ kinh này hầu như những gì nói ra đều thuộc về sự tướng. Nhưng nếu từ trong những sự tướng này thể hội được nghĩa thú, đạo lý sâu xa của nó, đó chính là những gì trong Phóng Quang Bát Nhã nói, là đạo lý rất sâu, rất sâu. Đây là chữ mấu chốt đã nói ra với quí vị rồi. Nghe thấy danh hiệu của Bồ-tát Địa Tạng. Danh là danh của thực, thực là thực của danh. Có danh thì có thực. Nghe thấy cái danh hiệu này, bạn liền có thể nghĩ đến bộ kinh này. Danh hiệu là đề kinh, toàn bộ lý luận, phương pháp tu học, lợi ích công đức mà trong kinh nói đều có thể sinh khởi lên từ trong tâm khi nghe thấy Danh hiệu này. Chắp tay là cung kính, tán thán là hoằng dương, đảnh lễ, luyến mộ là tu hành. Noi theo Bồ-tát Địa Tạng, học tập theo Bồ-tát Địa Tạng, như vậy mới được oai thần không thể nghĩ bàn của Bồ-tát Địa Tạng gia trì, họ mới có thể diệt tội. Qua khỏi tội khổ trong 30 kiếp là diệt tội. Chúng ta hiểu rõ cái ý nghĩa này thì không còn hoài nghi, mới biết lời Phật nói là sự thật, tuyệt đối không phải lời hư dối, tuyệt đối không phải lời khoa trương, những gì nói ra hoàn toàn là sự thật. Ở chỗ này làm thế nào có thể đem bản thân mình nâng lên đến tiêu chuẩn của thiện, điểm này rất quan trọng. Phật ở trong “Quán Kinh” nói rất hay, tam phước 11 câu nó là nói ở trên kết luận, đó là chánh nhân tịnh nghiệp của ba đời chư Phật, vậy là nói minh bạch biết bao, nói rõ ràng biết bao. Ba đời là nói đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Ba đời chư Phật, từ trên cơ sở nào tu hành chứng quả vậy? Chính là tam phước. Cho nên tam phước là “Thiện nam tử, thiện nữ nhân” nói ở trong kinh điển, tiêu chuẩn của thiện. Thiện Tiểu Thừa gồm bảy câu hai điều phía trước làm được rồi. Trong Kinh Tiểu Thừa gọi là thiện nam tử, thiện nữ nhân. Trong Kinh Đại Thừa nói tiêu chuẩn của thiện, nhất định 11 câu thảy đều làm được. Tuy chúng ta làm chưa viên mãn, chưa rốt ráo, nhưng nhất định phải làm. Những ý nghĩa khác mọi người có thể tham khảo từ trong chú giải của pháp sư Thanh Liên. Chú giải của Ngài chú giải cũng rất hay. Chúng ta tiếp tục xem kinh văn phía dưới.

  “Phổ Quảng: Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân.” (Này Phổ Quảng! Như có kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào.)

  Vẫn là chú trọng ở chữ “thiện”.

  “Hoặc thái họa hình tượng, hoặc thổ thạch giao tất kim ngân đồng thiết tác thử Bồ-tát, nhất chiêm nhất lễ giả. Thị nhân bách phản sanh ư Tam Thập Tam thiên vĩnh bất đọa ư ác đạo. Giả như thiên phước tận cố hạ sanh nhân gian do vi quốc vương bất thất đại lợi.” (hoặc là vẽ hình tượng của Ngài Địa Tạng Bồ-tát rồi chừng một lần chiêm ngưỡng, một lần đảnh lễ, người đó sẽ được sanh lên cõi trời Đao Lợi một trăm lần, không còn phải bị sa đọa vào ác đạo nữa. Ví dầu ngày kia, phước trời đã hết mà sanh xuống nhơn gian, cũng vẫn làm vị quốc vương, không hề mất sự lợi lớn.)

  Lợi ích mà chỗ này nói, nói thực ra còn thù thắng hơn phía trước nữa. Phía trước là nói diệt tội, chứ không nói với bạn được phước. Diệt tội đương nhiên là được phước. Thế Tôn không có nói rõ cụ thể với chúng ta. Chỗ này nói rõ rất cụ thể. Chỗ này tu phước chỉ nêu ra một ví dụ, nói thực ra tu phước có quá nhiều quá nhiều cách thức, chứ không chỉ có một loại cách thức này. Chúng ta từ một ví dụ, nghĩa là từ một mà suy ra ba, nghe một biết mười, điều này vô cùng quan trọng. Đây là nói đắp nặn hình tượng Bồ-tát. Sự việc này có một số người không hiểu lý rốt ráo, cho rằng Phật giáo tạo ra nhiều hình tượng khác nhau như vậy, nên nói chúng ta lễ bái Ngẫu Tượng, gọi chúng ta là lễ bái ngẫu tượng, hơn nữa lễ bái rất nhiều ngẫu tượng, là biến thành Đa Thần Giáo. Đa Thần giáo ở trong Tôn Giáo là thuộc về tôn giáo cấp thấp. Tôn giáo cấp cao chỉ có một vị thần, một vị chân thần duy nhất, còn trong Phật giáo cái gì cũng lễ lạy. Thực ra họ không hiểu được đạo lý này, đạo lý này quá sâu, quá sâu rồi! Không có người giảng cho họ biết, chúng ta không thể trách họ được. Không có người nói cho họ thì sao họ có thể biết được? Năm xưa ở Đài Loan tôi đã từng gặp một vị sĩ quan. Vị sĩ quan này dường như là làm công tác chính trị trong quân đội. Ông vào trong chùa của chúng tôi để dạo chơi, bèn nêu ra những vấn đề về tượng Phật này. Ông hỏi, cái này có ý nghĩa gì? Tạo nhiều tượng Phật, tốn nhiều tiền như vậy. Bởi vì tôi biết ông là người làm công tác chính trị, nên tôi bèn hỏi ngược lại ông. Tôi nói các anh làm công tác chính trị, tại sao dán khẩu hiệu khắp nơi? Anh dán cái này có ý nghĩa gì? Ông nói dán cái này là để nhắc nhở mọi người chú ý. Tôi nói là, nếu như anh dán những khẩu hiệu này, nói ví dụ ở Đài Loan thường hay thấy: “Tam dân chủ nghĩa vạn tuế”, khẩu hiệu này nhắc nhở mọi người. Nếu như tạo một bức tượng tiên sinh Tôn Trung Sơn để ở nơi đó, há chẳng phải thù thắng hơn cái này sao? Vâng, có đạo lý. Tôi nói tượng Phật của chúng tôi cũng là đạo lý này. Chúng ta dán một câu “Nam Mô A-Di-Đà Phật”, cái khẩu hiệu này, bạn nhìn thấy nhắc nhở bạn niệm Phật. Vậy nếu tạo một bức tôn tượng Phật A-Di-Đà, há chẳng phải là thù thắng hơn sao? Là đạo lý giống nhau. Nếu bạn nói là tại sao tạo nhiều tượng như vậy? Thế tại sao các bạn dán nhiều khẩu hiệu như vậy? Dán mấy chục tờ, mấy trăm tờ, một tờ chẳng phải đủ rồi sao? Ông từ trong đây mới hiểu ra được cái ý nghĩa này. Ở trong Phật pháp, danh hiệu, hình tượng của Phật, Bồ-tát đều là pháp tượng trưng. Hay nói cách khác, là để nhắc nhở chúng ta tu học. Phàm phu thật sự là mê hoặc điên đảo. Người nào từng giây từng phút đánh thức bạn vậy? Nếu như thật sự có một người từng giây từng phút lúc nào cũng căn dặn, đánh thức bạn, bạn lại cảm thấy người đó thật đáng ghét, rối rắm! Cho nên dùng loại cách thức này thật sự đã đạt đến phương tiện thiện xảo. Đem danh hiệu vẽ thành hình tượng, hình tượng đã tạo thành tác phẩm nghệ thuật cao độ, bạn có thể thưởng thức, bạn vĩnh viễn xem không thấy chán, bạn nhìn thấy sinh tâm hoan hỷ, bạn lại hiểu được ý nghĩa của nó. Phàm là danh hiệu của Phật, hình tượng của Phật đều là đại biểu cho tánh đức. Tự tánh của chúng ta vốn đầy đủ, tự tánh xưa nay là như vậy. Phàm là danh hiệu Bồ-tát, hình tượng Bồ-tát là đại biểu cho tu đức. Chúng ta mê mất tánh đức của mình rồi. Làm sao khôi phục đây? Nhất định phải tu hành, phải dựa vào tu đức. Nếu tu đức tương ưng với tánh đức vậy là tu hành chân chánh. Nghĩa là tánh tu không hai, bạn mới có thể khôi phục tự tánh, đạo lý là ở chỗ này. Tánh đức với tu đức đều là sâu rộng vô lượng vô tận. Cho nên dùng một cái tên, một hình tượng thì không cách gì biểu đạt rõ ràng ra được. Vì thế nên danh hiệu của chư Phật Như-lai là rất nhiều, nhiều đến mức không thể nghĩ bàn, hiển thị đức năng trí tuệ của bản tánh, là vô lượng vô biên, không có cùng tận. Tánh đức như vậy thì tu đức đương nhiên cũng như vậy. Cho nên danh hiệu của Phật Bồ-tát, hình tượng của Phật Bồ-tát cũng là vô lượng vô biên. Nếu quý vị đọc “Kinh Hoa Nghiêm”, bạn có thể nhìn thấy được. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” những đại chúng tham gia pháp hội này, đã là không tính từ cá nhân, mà tính từ đoàn thể. Đoàn thể còn phải đem nó quy nạp, quy nạp tổng cộng có hơn 170 đoàn thể, hiển thị tánh tu đức tướng là vô tận, vô tận. Chúng ta cần thể hội sâu sắc ý nghĩa này. Phật ở trong kinh thường nói, pháp thế gian và xuất thế gian, nhất chân pháp giới và thập pháp giới y chánh trang nghiêm đều là duy tâm sở hiện, duy thức sở biến, đây là lời Phật nói ở trong kinh. Có người đọc đến kinh này, nghe thấy kinh này bèn sinh khởi hoài nghi. Tâm tôi hiện nay muốn biến, tại sao không thể biến ra được? Lời Phật nói không linh so với thực nghiệm của bản thân tôi. Thực ra họ hoàn toàn không hiểu được cái gì gọi là tâm, họ hiểu lầm rồi. Tâm là gì? Thức là gì? Họ xem vọng tưởng là tâm, xem chấp trước là thức, thế làm sao mà biến được? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là tác dụng của tâm thức, không phải lý thể của tâm thức. Ví dụ bạn tìm người mà tìm không đúng, bạn xem người giúp việc trong gia đình họ là chủ nhân của gia đình đó, thế thì làm sao được? Sao có thể làm nên chuyện được? Người giúp việc nghe chủ nhân sai bảo, bạn phải tìm được chủ nhân mới có thể giải quyết được vấn đề. Trong Thiền Tông nói rất hay: “Nếu người biết được tâm, thì đại địa không còn một tấc đất.” Nếu bạn có thể nhìn thấy được tâm tánh, thì bạn không phải phàm phu, bạn chính là Phật Bồ-tát rồi. Cho nên nghiên cứu giáo lý, nghe kinh cần có tâm nhẫn nại. Có nghi vấn thì có thể giữ mối nghi đó. Cổ đức nói: “Tiểu nghi có tiểu ngộ, đại nghi có đại ngộ” đây gọi là nghi tình, không phải hoài nghi. Nếu như bạn không thể hiểu đối với những gì kinh điển nói, bèn sinh hoài nghi, thế thì sai lầm rồi. Hoài nghi là gì? Bạn không tin, bạn không thể tiếp nhận. Nghi là chướng ngại lớn nhất của Bồ-tát. Nói Bồ-tát là Bồ-tát đạo, là chướng ngại lớn nhất cho sự tu hành của Bồ-tát. Vậy thì làm thế nào? Có nghi. Tin, ta vẫn tin một cách thành kính. Phật nói cái lý này quá sâu rồi, không phải cảnh giới của ta, không phải trí tuệ nông cạn hiện nay của ta có thể lý giải được, ta tin điều này, tin lời Phật nói là không sai, chăm chỉ tiếp tục không ngừng nỗ lực tu học, đợi đến ngày nào trí tuệ khai rồi, thì vấn đề này liền giải quyết ngay. Nghi tình nhỏ, trí tuệ khai mấy phần thì vấn đề sẽ được giải quyết. Nghi tình lớn thì cần trí tuệ phải khai đến một giai đoạn nào đó bạn mới có thể sáng tỏ. Cái này gọi là tiểu nghi có tiểu ngộ, đại nghi có đại ngộ. Nếu như bạn hoài nghi không tin, không chịu tiếp nhận, thì bạn vĩnh viễn không có chỗ ngộ. Cho nên nghĩa thú thậm thâm, cảnh giới bất tư nghì mà trong kinh điển nói, bạn có nghi tình là chính xác. Nhất định phải dựa theo những lý luận và phương pháp Phật nói trong kinh này mà chăm chỉ tu học. Phật pháp từ đầu đến cuối là dạy mọi người khai trí tuệ, nghĩa là phá mê khai ngộ. Làm sao khai trí tuệ đây? Trí tuệ là khai từ trong thiền định. Tịnh Độ tông chúng ta tuy không dùng danh từ thiền định này, Tịnh Độ tông dùng là nhất tâm bất loạn, tâm không điên đảo. Tám chữ này chính là thiền định. Mục đích của người niệm Phật tu là ở chỗ này. Hiểu rõ đạo lý này, chỗ này chỉ nêu ra một ví dụ trong vô lượng phương pháp tu học thôi. Tạo tượng, công đức của tạo tượng không thể nghĩ bàn. Chỗ này liệt kê ra rất nhiều chủng loại tạo tượng, hoặc giả là vẽ tranh, phác họa, vẽ tranh đều được. Hoặc giả là đắp nặn, điêu khắc bằng đá, bằng nhựa, hiện nay loại hình tượng Phật Bồ-tát này cũng rất nhiều. Hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển, tạo thành mô hình, tạo hình tượng Phật Bồ-tát đã tinh xảo mà giá cả cũng rẻ. Bên dưới đây là đúc tượng Phật, dùng kim loại, vàng, bạc, đồng, sắt đúc tượng Phật. Đúc tượng Phật có thể lưu truyền lại dài lâu, hình tượng Phật Bồ-tát đối với người tu học mà nói là để nhắc nhở, từng giây từng phút nhắc nhở. Chúng ta tạo một tôn tượng Bồ-tát Địa Tạng, sẽ có công đức rất lớn, từng giây từng phút nhắc nhở chúng ta hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy tổ. Bồ-tát Địa Tạng biểu thị cho đạo hiếu. Từng giây từng phút nhắc nhở tâm địa của chúng ta hàm chứa vô lượng kho báu, đó là hàm nghĩa của danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng này. Phật ở trong Kinh Đại Thừa thường nói, trong tâm tánh chúng ta có vô lượng trí tuệ, vô lượng đức năng, vô lượng tài nghệ, mọi thứ đầy đủ viên mãn, so với y chánh trang nghiêm trên trên quả địa Như-lai mà trong Đại Kinh nói là không hai không khác, những thứ này đều vốn đầy đủ trong tự tánh. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói thế giới “Hoa Tạng” của Phật Tỳ Lô Giá Na, trong Kinh Tịnh Độ nói thế giới Cực lạc của Phật A-Di-Đà, thế giới này xuất hiện như thế nào vậy? Là tự tánh vốn đầy đủ. Cho nên mới nói duy tâm Tịnh Độ. Chúng ta đã mê mất tự tánh, nên ngày nay thế giới chúng ta sống tai nạn nhiều như vậy, ngũ trọc ác thế. Ngũ trọc ác thế do đâu mà có vậy? Cũng là duy tâm ngũ trọc, không có lìa khỏi tâm tánh. Giác ngộ rồi thì tâm tánh này liền biến thành Tịnh Độ, mê mất rồi thì tâm tánh này biến thành Uế Độ. Tuy biến ra tướng khác nhau, nhưng thể tánh năng biến là một, cho nên nói tịnh uế không hai. Ai sống ở trong tịnh uế không hai? Người giác ngộ. Người mê thì tịnh uế khác biệt quá lớn. Điều này nói như thế nào đây? Người giác ngộ không chấp tướng, họ sống ở Tịnh Độ mà không chấp tướng Tịnh Độ, sống ở uế độ mà không chấp trước tướng Uế Độ, cảm thọ của họ là giống nhau. Người mê chấp tướng, ở trong Tịnh Độ chấp trước tướng Tịnh Độ, họ sinh tâm ưa thích, ở trong Uế Độ họ chấp trước tướng Uế Độ, họ sinh phiền não, sự việc nó là như vậy. Nếu như bạn thật sự có thể không chấp tướng, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều xả sạch, thì tịnh uế là không hai, cảm thọ của bạn là không hai, thọ dụng không hai. Không phải nói Tịnh Độ với Uế Độ biến thành giống nhau, không phải vậy. Tịnh Độ vẫn là tướng Tịnh Độ, Uế Độ vẫn là tướng Uế Độ, cảm thọ của họ không hai, thọ bình đẳng. Phật nói thọ của phàm phu có năm loại; khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, năm loại thọ này là của phàm phu. Thánh nhân không có năm loại thọ này. Thọ của thánh nhân gọi là chánh thọ. Trong kinh thường hay nhìn thấy tam muội. Ý nghĩa của Tam Muội phiên dịch ra chính là chánh thọ. Tam muội là dịch âm tiếng Phạn. Chánh thọ chính là năm loại thọ khổ, lạc, ưu, hỷ, xả đều buông xả rồi, thì hưởng thụ này của bạn mới gọi là chánh thọ. Nơi mà chánh thọ nương là trí tuệ chân thật. Chỗ thọ của phàm phu, nơi họ nương vào là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chỗ họ nương vào là chỗ này, cho nên trong cảnh giới của họ có khổ lạc, có ưu hỷ. Tại sao cùng tâm tánh giống nhau lại biến hiện ra sắc tướng khác nhau? Đạo lý này chúng ta phải hiểu. Tuy tâm tánh là một, chân tâm bản tánh, thuần nhất thanh tịnh. Tướng nó hiện gọi là nhất chân pháp giới. Nhưng ở trong thuần nhất thanh tịnh, khi nó khởi tác dụng, dường như lại có tạp nhiễm. Nhà Pháp Tướng Duy Thức Học có nghiên cứu rất sâu đối với hiện tượng này, họ phân tích rất tinh tế. Kinh luận của Pháp Tướng Duy Thức vô cùng phong phú, nói rõ tâm tánh khởi tác dụng hiện ra tướng trạng đủ dạng diễn biến. Hư không pháp giới, vô lượng vô số chúng sanh đều là do tình thức biến hiện ra, lý ở trong đây quá sâu rồi. Tại sao nó có thể biến? Tại sao biến thành nhiều như vậy? Tại sao biến ra lại không chỉnh tề? Đây là một ngành học lớn. Nếu như nói vấn đề này bạn sẽ có nghi hoặc, bạn rất khó tiếp nhận, vậy chúng ta từ một ví dụ đơn giản dễ hiểu để nói, thử xem bạn có thể tiếp nhận được hay không? Buổi tối bạn ngủ có nằm mộng bao giờ không? Mọi người đều có kinh nghiệm nằm mộng. Tại sao ở trong mộng xuất hiện nhiều nhân vật như vậy? Xuất hiện nhiều chúng sanh như vậy? Cái tạo nên cơn mộng là tâm ý thức của bạn. Tại sao tâm ý thức của bạn biến ra phức tạp như vậy? Ở trong mộng cũng có người tốt, cũng có người xấu, cũng có người bạn thích, cũng có người bạn ghét. Tại sao bạn không tạo ra cơn mộng thảy đều là người bạn thích? Không có người nào bạn ghét. Tại sao không được? Đạo lý này rất gần, rất giống với điều này. Bạn hãy từ từ mà nghiên cứu đi, bạn hãy suy nghĩ, nghiên cứu, tại sao trong mộng lại xuất hiện người tốt, người xấu, vừa thích, vừa ghét? Bạn hãy nghiên cứu. Thực ra nếu không thể nghiên cứu ra được, thì bạn đọc nhiều kinh điển Pháp Tướng Tông một chút, đây chính là duy thức sở biến. Thức là a-lại-da thức. A-lại-da thức hàm chứa hạt giống nghiệp tập, bèn có thiện, có bất thiện. Khi sức mạnh ý chí của bạn không thể khống chế chính mình, thì những hạt giống này nó liền khởi hiện hành, khởi hiện hành nó liền biến ra tướng huyễn. Hiện tượng trong mộng là tướng huyễn. Cảnh giới trước mắt chúng ta đây, Phật ở trong kinh chẳng phải nói là “Mộng, huyễn, bọt, bóng”, cũng không phải thật. Con người chúng ta sống ở thế gian mấy chục năm rất ngắn ngủi, dường như nhìn thấy hiện tượng này, nói thực ra hiện tượng này là đang chuyển biến theo từng sát-na, không phải là bất biến. Chúng ta là bị mê hoặc bởi tướng tương tục theo sát-na, cho rằng nó là thật. Không biết rằng cái tướng này là giả: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, bị tướng hư vọng tương tục mê rồi, cho rằng là thật, ở trong đây khởi tâm động niệm, tạo tác tất cả nghiệp thiện bất thiện. Nghiệp thiện, bất thiện có thể thay đổi cái hình tướng này. Phật nói tất cả pháp từ tâm tưởng sinh, sự thay đổi này là đang thay đổi một cách âm thầm, chứ không phải do bạn nghĩ. Tôi muốn biến thành trâu, tại sao nó không biến ra thành trâu? Đó là bạn khởi vọng tưởng. Bạn khởi một niệm thiện, quả thật sự ảnh hưởng đến đất đai núi sông, y báo chuyển theo chánh báo. Nói gần hơn một chút, bạn khởi một niệm thiện thì tướng mạo của bạn sẽ thiện, bạn khởi một niệm ác thì tướng mạo của bạn sẽ ác, tướng chuyển theo tâm. Không những tướng chuyển theo tâm, mà thể chất cơ thể cũng chuyển theo tâm. Mở rộng ra bên ngoài nữa là y báo đất đai núi sông, y báo cũng chuyển theo tâm, y báo chuyển theo chánh báo, đạo lý nó là như vậy. Cho nên chúng ta đắp nặn hình tượng Phật Bồ-tát, đây chính là làm tăng thượng duyên cho thiện tâm, thiện niệm của chúng ta. Chúng ta nhìn thấy tượng Phật, nhìn thấy tượng Bồ-tát thì sinh khởi lên thiện tâm thiện niệm, lợi ích công đức là ở chỗ này. “Chiêm” chính là quán tượng niệm Phật. 4 loại niệm Phật trong pháp môn niệm Phật. Nhìn tượng Phật , nhìn tượng Phật trong tâm liền sinh khởi vị Phật này, vị Bồ-tát này, hành nghi cả đời của Ngài. Cho nên nhìn Bồ-tát Địa Tạng liền nghĩ đến đại nguyện mà Bồ-tát nhiều kiếp đã phát, chúng ta phải noi theo. Nghĩ đến Bồ-tát trong đời quá khứ làm Bà La Môn nữ, làm Quang Mục Nữ, nhìn thấy người thân quyến thuộc của mình tạo tác tội nghiệp đọa lạc tam đồ, cô phát tâm như thế nào để cứu vớt họ. Quay trở lại suy nghĩ người thân quyến thuộc của mình không hiểu Phật pháp, cũng tạo biết bao nhiêu tội nghiệp, cũng đọa tam đồ. Bạn có phát tâm đi cứu vớt họ hay không? Ở trong chiêm lễ sinh tâm phát nguyện. Nếu như không nhìn thấy tượng Phật thì quên mất sự việc này rồi. Cho nên đắp nặn tượng Phật để ở nơi đó là để từng giây từng phút nhắc nhở mình. Nếu như bạn thật sự hiểu rõ đạo lý, hiểu rõ chân tướng sự thật. Chân tướng sự thật là gì? Tất cả chúng sanh đều là cha mẹ, người thân quyến thuộc của chúng ta trong đời quá khứ. Chúng ta có đời quá khứ, quá khứ vô lượng kiếp, người thân quyến thuộc, cha mẹ sinh ra ta trong vô lượng kiếp không biết là có bao nhiêu. Hiện nay rải rác phân bố khắp lục đạo, khắp thập pháp giới. Người nào ở pháp giới Tứ Thánh, ở cõi trời, vậy thì tốt, không có vấn đề. Nếu như một số người vẫn rải rác phân bố ở trong lục đạo, ở trong Tam Đồ, thì khổ không thể tả. Chúng ta có sinh khởi lên ý nghĩ cứu hộ này hay không? Phật ở trong kinh nói lời này là thật, là sự thật. Phàm phu chúng ta chỉ biết được cha mẹ đời này, chứ không biết cha mẹ đời trước. Cho nên Phật nói tất cả chúng sanh là cha mẹ quá khứ, chư Phật vị lai của chúng ta. Chúng ta nhìn thấy tất cả chúng sanh thọ khổ thọ nạn thì phải xem họ là cha mẹ thân thuộc của mình đang ở nơi đó thọ khổ thọ nạn, thì tự nhiên sẽ sinh khởi lên tâm nguyện cứu vớt ngay. Người mê nhìn thấy người khác thọ khổ thọ nạn là giống như không có liên quan gì với mình cả, đây là họ không biết thực tướng các pháp. Bồ-tát biết, phàm phu không biết, Bồ-tát Địa Tạng biết rõ, cho nên nhìn thấy tất cả người thọ tai nạn thì giống như chính mình thọ vậy, tâm từ bi mới có thể thật sự sinh lên được, tuyệt đối không thể nói ngồi thấy đó mà không cứu, không có đạo lý này. Chúng tôi ở trong các buổi giảng cũng đã từng báo cáo qua với quý vị, tâm nguyện quan tâm, yêu thương, cứu vớt nhất định là có. Nhưng trên sự thật, có những chỗ chúng ta không thể làm được, đây chính là nói có chướng duyên, có chướng ngại. Ngày nay chúng ta nhìn thấy toàn thế giới, có nơi bị nạn lụt, có nơi bị hạn hán, có một số nơi bị động đất, sóng thần, đủ thứ tai họa thiên nhiên. Và còn chiến tranh, giết hại do con người tạo ra, thiên tai nhân họa. Người bị giết rất đáng thương, người giết người cũng đáng thương. Giết người là tạo tội nghiệp cực nặng, họ tạo tội nghiệp này, tương lai phải đọa tam đồ. Không những tương lai đọa tam đồ, mà tương lai còn phải đền nợ mạng, không phải nói giết rồi thì hết chuyện. Đời này bạn giết họ, đời sau họ lại làm người rồi giết bạn trở lại, đời đời kiếp kiếp giết qua giết lại không bao giờ dứt, bạn nói đáng thương biết bao, bi thảm biết bao! Chân tướng sự thật này Phật Bồ-tát biết, đạo lý ở trong đây, cũng chỉ có Phật Bồ-tát biết rõ. Chúng ta học Phật, nghe lời giáo huấn của Phật, đọc lời khuyên bảo của Phật chúng ta cũng dần dần tỉnh ngộ ra, dần dần cũng hiểu rõ chân tướng sự thật, thế là cũng có thể quên mình vì người giống như chư Phật Bồ-tát vậy, vì xã hội phục vụ, vì nhân dân phục vụ, vì chúng sanh phục vụ, thật sự làm được chí công vô tư, hết lòng hết sức. Loại bi nguyện đại từ đại bi, sự hành trì đại từ bi này là đắc lực từ lời giáo huấn của Phật. Nhưng chúng ta là phàm phu, tập khí phiền não rất nặng, thường hay quên mất lời dạy của Phật. Trong nội tâm của mình có thị phi nhân ngã, tham sân si mạn, bên ngoài có sự cám dỗ của tài, sắc, danh, thực, thùy, ngũ dục lục trần, sức mạnh này rất lớn. Từng giây từng phút chúng ta quên mất những thiện tâm, thiện nguyện này, thuận theo ác duyên, lại khởi niệm ác, khởi lên ý nghĩ tham sân si, chạy theo cám dỗ bên ngoài, lại tạo tội nghiệp. Ai đến nhắc nhở chúng ta? Chỉ có dựa vào hình tượng Phật Bồ-tát. Cho nên tại sao tổ sư đại đức khuyến khích người học, học Phật ở trong nhà nhất định phải thờ cúng tượng Phật. Thờ cúng tượng Phật mục đích ở chỗ nào vậy? Là từng giây từng phút nhắc nhở mình, dụng ý là ở chỗ này. Không phải xem Ngài là thần linh để lễ lạy, cầu khẩn Ngài phù hộ bạn thăng quan phát tài, không phải vậy, như thế đích thực là làm chuyện mê tín rồi. Thờ cúng Bồ-tát Địa Tạng là từng giây từng phút nhắc nhở bạn hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ, từng giây từng phút nhắc nhở bạn, phải cứu độ tất cả chúng sanh khổ nạn, là có ý nghĩa này. Cho nên cái hình tượng này thờ cúng ở nơi đó có vô lượng công đức, đây là nói đối với một người học Phật. Vậy đối với người không học Phật mà nói thì lợi ích cũng rất lớn. Trong Phật pháp thường nói, nghe danh hiệu Phật Bồ-tát, vừa qua căn tai, vĩnh viễn thành hạt giống đạo, bất kể là bạn hữu tâm hay vô tâm, hữu ý hay vô ý nghe thấy danh hiệu Phật Bồ-tát, thì hạt giống Kim Cang sẽ gieo vào trong a-lại-da thức. Tai nghe có lợi ích như vậy, mắt thấy cũng có lợi ích giống như vậy. Mắt bạn nhìn thấy hình tượng Phật Bồ-tát, nhìn thấy viết danh hiệu Phật Bồ-tát, đó là vừa qua căn mắt cũng là vĩnh viễn thành hạt giống đạo. Lợi ích này, trong đời này chưa có đạt được, thì đời sau, đời sau nữa lại gặp được duyên hạt giống này sẽ khởi hiện hành, sẽ có tác dụng rồi. Đây là nói đối với người không tin Phật pháp, cũng có lợi ích thù thắng. Bạn muốn hỏi ngày nay toàn thế giới có người nào không học Phật? Tôi nhìn thấy mỗi người đều học Phật, tôi nhìn thấy hoan hỷ. Tôi nhìn thấy điều gì? Cơ Đốc Giáo học Phật rồi, Thiên Chúa Giáo học Phật rồi, Hồi Giáo học Phật rồi, Do Thái Giáo học Phật rồi, đều học Phật rồi. Tại sao vậy? Trong miệng họ đều biết đến Phật. Nhất là hiện nay Thiên Chúa Giáo đang dẫn đầu, hiện nay nghe nói mục sư của Cơ Đốc Giáo cũng xem “Đại Tạng Kinh”, bạn nói cái thiện căn này gieo xuống sâu dày biết bao. Cho nên chúng tôi nhìn thấy những tín đồ, mục sư, giáo sĩ Hồi Giáo ngoại giáo này, tôi đều chắp tay xưng là Bồ-tát, họ là Bồ-tát thật, không phải Bồ-tát giả. Hình tượng này của chúng ta họ vừa nhìn thấy, liền sinh khởi lên ý nghĩ Phật ngay. Cho nên quý vị phải biết, người xuất gia có công đức rất lớn, dù phá giới công đức cũng tột bực, bạn cũng không cách gì sánh bằng được. Hình tượng này của bạn đi ra, ý nghĩ Phật Bồ-tát ở trong tâm người ta làm sao có thể sinh lên được? Không thể sinh lên được. Nhưng chúng ta vừa cạo đầu, mặc bộ y phục này vào, đi đến đâu cũng có thể khiến trong tâm tất cả chúng sanh sinh lên ý nghĩ Phật, sinh lên ý nghĩ Bồ-tát. Cho nên đi ra ngoài một chuyến thì biết bao nhiêu người đã gieo thiện căn? Tại sao gọi người xuất gia là một trong Tam Bảo. Bảo là ở chỗ này. Ai có thể sánh nổi? Giữ giới hay phá giới hãy bàn luận lúc khác. Chỉ nói riêng khiến tất cả chúng sanh sinh khởi lên ý niệm Phật Bồ-tát thì công đức này là không thể nghĩ bàn. Nếu bạn thật sự hiểu rõ đạo lý này, chỗ này hãy chú ý thiện nam tử, thiện nữ nhân. Họ đắp nặn hình tượng Bồ-tát, cho thấy tâm nguyện rộng vô lượng vô biên, bức tôn tượng này độ tất cả chúng sanh. Họ tu công đức thù thắng như vậy, một trăm lần qua lại cõi trời thứ 33, không đọa ác đạo, lợi ích này không được xem là quá lớn. Sánh với công phu tu của họ thì họ xứng đáng nhận được, chúng ta còn hoài nghi gì nữa? Cho nên sau khi rõ lý rồi, thì nhìn thấy sự sẽ không còn hoài nghi nữa.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *