Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 8

Tập 8

Đoạn này dưới đây: “Phóng như thị đẳng bất khả thuyết quang minh vân dĩ.” (Phóng ra những vầng mây sáng không thể nghĩ bàn như vậy xong) Câu này là tổng kết. Đoạn phía trước này là Thế Tôn phóng quang, hiển bày ra lý thể mà mình chứng, cũng chính là hiển bày ra tánh đức viên mãn, Phật có, chúng sanh cũng có. Phóng quang hiện tướng lành, nói thực ra chỉ có pháp thân đại sĩ mới biết rõ. Sau khi vừa nhìn thấy pháp luân viên mãn mà Thế Tôn và chư Phật Như-lai mười phương ba đời nói ra, trong khoảng sát-na là tiếp nhận viên mãn. Pháp thân đại sĩ mới làm được. Chúng sanh trong thập pháp giới nhìn thấy, thấy hiếm có, nhìn thấy vui vẻ tán thán, nhưng chẳng hiểu gì cả. Rốt cuộc là ý gì? Không biết. Thế thì phải làm sao? Ngài nói. Không nói làm sao chúng ta có thể biết được?

“Hựu thuyết chủng chủng vi diệu chi âm” (Lại phát ra đủ thứ âm thanh vi diệu). Từ đó cho thấy, phóng quang hiện tướng lành là để độ người căn tánh thượng thượng, phát ra âm thanh vi diệu là để độ người căn tánh trung hạ. Người căn tánh trung hạ nhìn thấy hào quang, họ không thể hiểu được hàm ý ở trong đó, nhất định phải cầu mong Phật đến thuyết pháp. Ở chỗ này nói: “Phát ra đủ thứ âm thanh vi diệu”, quý vị phải nhớ kỹ là nói đối với chúng sanh thế giới Ta-bà. Thế giới này Bồ-tát Văn Thù nói rất hay: “Thử phương chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn.” (Chân giáo thể ở nơi này, thanh tịnh được là nhờ lắng nghe âm thanh). Ở trên hội Lăng Nghiêm, Thế Tôn để cho Bồ-tát Văn Thù lựa chọn ra viên thông cho chúng ta, cũng chính là lựa chọn pháp môn nào thích hợp nhất đối với căn cơ của chúng sanh thế gian này. Pháp môn Bồ-tát Văn Thù lựa chọn là: “Quán Thế Âm Bồ-tát nhĩ căn viên thông chương”. Chứng tỏ chúng sanh thế giới Ta-bà căn tai là nhạy bén nhất. Bạn đưa cho họ xem, đọc Kinh, bạn bảo họ xem Kinh, sẽ rất khó khai ngộ. Bạn bảo họ nghe Kinh thì dễ khai ngộ. Công năng của căn tai mạnh hơn căn mắt. Nhưng chúng sanh các nơi trong mười phương thế giới căn tánh hoàn toàn khác nhau, giống như trong Kinh nói nước Hương Tích, người trong nước Hương Tích căn tai thì không được. Bạn để cho họ xem, họ không thể khai ngộ, nghe họ cũng không hiểu được. Mời họ ăn cơm, vừa ăn cơm liền khai ngộ ngay, cái này quá tuyệt diệu rồi. Cho nên họ dùng cơm thơm tho để làm Phật sự. Tại sao vậy? Căn lưỡi nhạy bén. Cho nên tất cả chúng sanh căn nào nhạy bén thì không nhất định. Nếu Thế Tôn muốn giảng “Kinh Địa Tạng” ở nước Hương Tích, thì đoạn phía sau này nhất định là lại phát ra đủ thứ cơm thơm tho vi diệu, có đúng vậy không? Do tình hình ở đó như vậy, chứ không thể phát ra đủ thứ âm thanh vi diệu được. Âm thanh chỉ chuyên để nói cho thế gian chúng ta, cho nên chỗ này phải hiểu, Phật thuyết pháp nhất định là khế lý khế cơ. Phía trước phóng ra vầng mây Quang Minh là khế lý, còn chỗ này là nói khế cơ, đều đáng để chúng ta chú tâm học tập. Phật phóng ra hào quang, chúng ta cũng phải phóng ra hào quang, chúng ta không nổi bật giống như Phật được, cách chúng ta phóng quang như thế nào vậy? Tâm địa bạn có từ bi chân thật thì tự nhiên sẽ có tướng hào quang từ bi hiện ra. Người ta vừa nhìn thấy bạn, liền biết “người này rất từ bi”. Tâm địa rất thanh tịnh, biết “người này rất thanh tịnh” đây là phóng quang. Những gì trong Kinh nói trong tâm bạn thật sự có, thì tự nhiên từ trên vẻ mặt và trên thân bạn sẽ phóng quang. Không những phóng quang mà còn phát ra mùi thơm, mùi thơm và hào quang trang nghiêm. Mùi trên người của hầu hết phàm phu chúng ta là rất khó ngửi. Người tu hành tâm địa họ thanh tịnh, sáng suốt, nên mùi trên người họ là rất thơm, chúng ta rất ít thấy. Trước đây tôi ở Hồng Kông nghe các đồng tu kể rằng, nghe nói lão hòa thượng Hư Vân một năm tắm có một lần, cắt tóc một lần, lão hòa thượng Hư Vân một năm cắt tóc một lần, tắm rửa một lần, y phục mùa đông hay mùa hạ cũng chỉ mặc có một bộ, nên vết dầu mồ hôi đóng trên cổ áo rất dày, nhưng ngửi thử thấy thơm, mùi không hôi, đây là chuyện các đồng tu ở Hồng Không kể cho tôi nghe. Đó là mùi hương gì vậy? Chúng ta bình thường nói ngũ phần giới hương, ngũ phần pháp thân hương: Giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Chúng ta nhìn từ chỗ này thì ý nghĩa sẽ viên mãn hơn. Chân thành, thanh tịnh, từ bi. Có thể thấy khi tánh đức bộc lộ thì không nơi nào không có. Không những thân phóng quang, tỏa mùi thơm, mà ngay cả môi trường họ cư trú cũng tỏa mùi thơm. Người bình thường chúng ta hiện nay nói từ trường khác nhau. Môi trường họ ở sau khi chúng ta bước vào sẽ cảm thấy vô cùng dễ chịu, cảm thấy rất tự tại, đó chính là môi trường cư trú của họ có hào quang. Tuy mắt thường chúng ta không thể nhìn thấy được sóng hào quang của họ, nhưng chúng ta có thể cảm nhận được. Đoạn này là nói về âm thanh thuyết pháp.

Mời xem Kinh văn: “Sở vị: Đàn ba-la-mật âm, Thi ba-la-mật âm, Sản-đề ba-la-mật âm, Tỳ-ly-da ba-la-mật âm, Thiền ba-la-mật âm, Bát-nhã ba-la-mật âm.” (Như là tiếng Đàn ba-la-mật, tiếng Thi ba-la-mật, tiếng Sản-đề ba-la-mật, tiếng Tỳ-ly-da ba-la-mật, tiếng Thiền ba-la-mật, tiếng Bát nhã ba-la-mật).

Trước tiên chúng ta nói 6 câu này. 6 câu này là nói về lục độ. Chữ thứ nhất “Đàn na” là tiếng Phạn, dịch thành ý nghĩa tiếng Trung Quốc là “Bố thí”. Chư Phật, Bồ-tát nói thực ra chính là pháp thân. Thế nào gọi là pháp thân vậy? Họ khẳng định tận hư không khắp pháp giới là chính mình, họ nhất định không nhận cái thân này là mình. Tận hư không khắp pháp giới là chính mình, cho nên họ chứng được vô lượng thọ. Hư không pháp giới bất diệt, thân này của chúng ta có sinh diệt. Thân có sinh diệt giống như cái gì vậy? Giống như tế bào trong thân thể chúng ta, tế bào có thay cũ đổi mới, có sinh diệt. Nhưng cái thân này trụ mấy chục năm, thời gian của tế bào rất ngắn ngủi. Hiện nay y học nói cho chúng ta biết, thân thể con người 7 năm là một chu kỳ, thì toàn bộ tế bào sẽ thay cũ đổi mới một lần. Cho nên tế bào cũ của 7 năm trước không còn nữa, cái tế bào này hiện nay là mới sinh, vĩnh viễn thay cũ đổi mới, 7 năm là một chu kỳ. Thay cũ đổi mới, tại sao chúng ta không đổi thành một cái mới, cái tốt, cái hoàn toàn mới vậy? Giống như máy móc vậy, linh kiện máy móc hỏng rồi, tìm một cái linh kiện khác giống như cái này lắp vào để có thể dùng được, nhưng mà đồ cũ chứ không phải đồ mới. Tại sao không chọn một cái hoàn toàn mới để lắp vào chứ? Thế thì cái cơ thể này của bạn sẽ vĩnh viễn khỏe mạnh trường thọ, 100 tuổi cơ thể vẫn giống như người trẻ tuổi vậy. Tại sao vậy? Cái tế bào thay cũ đổi mới này của bạn là mới, thanh tịnh, không có ô nhiễm. Nhưng những gì chúng ta đổi, lúc nào cũng đổi thành tế bào ô nhiễm. Ô nhiễm như thế nào vậy? Bạn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là ô nhiễm rồi, nên đổi được những thứ rất tệ hại! Bạn thấy trẻ con. Trẻ con cũng vậy, trẻ con 7 tuổi, trẻ con 14 tuổi, đã đổi được hai chu kỳ này rồi, tại sao vẫn còn tốt như thế? Vọng tưởng ít, vọng niệm ít. Nói hơi khó nghe một chút, là ý niệm hại người hại mình ít, cho nên tế bào họ đổi vẫn là còn mới như vậy. Tuổi tác càng cao thì ý niệm hại người hại mình càng nhiều, ý niệm hại người hại mình càng mạnh, nên càng đổi càng tệ hại. Đạo lý nó là như vậy. Chúng ta thử xem thế giới của Phật, thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng vậy, thế giới Hoa Tạng cũng vậy, tại sao thể chất của người ta vĩnh viễn không bị thay đổi? Dường như là dừng lại ở chỗ đó. Trên thực tế có phải là dừng lại không? Không phải vậy, vẫn là mãi mãi không dừng trụ, là trong quá trình thay cũ đổi mới của họ hoàn toàn không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nghĩa là linh kiện mà họ thay là hoàn toàn mới, mãi mãi là mới. Trong cái máy này thay 10 lần, thay 20 lần vẫn là đồ mới, nguyên lý là như vậy. Chúng ta ngày nay bị thiệt thòi ở chỗ nào vậy? Tự mình hại mình. Cho nên cái tính tự tư tự lợi đó không phải lợi mình, mà tự tư là tự hại, do dùng sai danh từ rồi! Làm gì tự lợi được? Là tự hại. Lợi người mới là lợi mình. Ai biết lợi người vậy? Phật, Bồ-tát biết lợi người, người giác ngộ biết lợi người. Người mê hoặc điên đảo chỉ biết lợi mình. Lợi mình là tự hại chứ không phải tự lợi, không thể nói lợi được. Đừng nói gì khác, chỉ nói tình trạng cơ thể, bạn sẽ biết ngay, tự mình hại chính mình. Tại sao thay cũ đổi mới, cái tế bào này không thể thay thành tế bào hoàn toàn mới, không thể thay thành khỏe mạnh vậy? Nên biết tham, sân, si, mạn là mầm độc nghiêm trọng nhất. Trong tâm bạn có tham, sân, si, mạn thì tế bào đổi được đều là mầm độc, đều mang theo mầm độc nghiêm trọng, bạn làm gì có lợi được? Cho nên mặc dù trẻ con có tâm tham, sân, si, mạn nhưng rất yếu, không mạnh. Tế bào thay cũ đổi mới mà chúng đổi được mang theo độc tố rất nhẹ. Người trưởng thành mang theo độc tố rất nặng. Nếu chúng ta không thâm nhập Kinh tạng, không hiểu một chút đạo lý Đại Thừa thì chúng ta làm sao có thể biết được chân tướng sự thật này? Nhà khoa học nghiên cứu đến ngày nay cũng chưa phát hiện được, cũng chưa có hiểu rõ ràng. Cho nên vừa mở đầu đã đem sáu ba-la-mật đặt ở phía trước. Tất cả chư Phật, Bồ-tát vì tất cả chúng sanh giảng Kinh thuyết pháp, dạy chúng sanh tu hành chứng quả, không ra ngoài sáu cương lĩnh này.

Trong bố thí có bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Khi Thế Tôn giảng Kinh thuyết pháp cho tất cả chúng sanh, thì ba loại bố thí này thảy đều đầy đủ. Giảng Kinh thuyết pháp là bố thí tài, tài gì vậy? Nội tài. Nội tài là trí tuệ, thể lực, đây là bố thí nội tài. Những lý luận và phương pháp nói ra là bố thí pháp. Chúng sanh nhận được pháp này, hiểu được pháp này, có thể xa lìa được hết thảy ưu bi, khổ não, biết đường thoát khỏi luân hồi, đây là bố thí vô úy. Ba loại bố thí mà chư Phật, Bồ-tát làm, bản thân Ngài trì giới. “Trì giới” chính là làm đúng như pháp, Ngài sống có quy củ, Ngài thuyết pháp rất mạch lạc, có trật tự, không có gì mà không đúng như pháp. Như pháp chính là trì giới.

“Nhẫn nhục” là có tâm nhẫn nại. Sanh nhẫn, pháp nhẫn, tất cả chúng sanh đều làm trái ngược lại. Phật, Bồ-tát nhẫn được, không để ý, không để ở trong tâm. Ngày nay chúng ta nói những tai nạn tự nhiên này cũng có thể nhẫn được. Tu học Phật pháp cần phải thời gian rất dài. “Lăng Nghiêm” cuối cùng thị hiện cho chúng ta thấy, 53 lần tham vấn của Thiện Tài Đồng Tử, tham học cũng rất vất vả, không có gì là không nhẫn được. Hay nói cách khác, Ngài có tâm nhẫn nại rất lớn, nên Ngài có thành tựu lớn. Thành tựu lớn hay nhỏ quả thật là hoàn toàn tỉ lệ thuận với tâm nhẫn nại. Bạn có tâm nhẫn nại lớn cỡ nào thì bạn có thành tựu lớn cỡ đó. Bạn không có tâm nhẫn nại, thì thành tựu của bạn không thể tiến triển thêm lên được nữa. Cho nên sau khi nhẫn nhục mới có tinh tấn.

“Tỳ-ly-da” là “tinh tấn”. Tấn là tiến bộ. Tinh là thuần khiết. Tinh là hoàn toàn nhắm vào vọng tưởng, phân biệt, chấp trước để nói. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước ngày càng ít, đây là tinh. Trí tuệ, đức năng càng ngày càng nhiều, vậy là tiến bộ.

“Thiền định” là ở trong tâm có chủ tể, không bị dao động bởi mọi thứ. Đồng tu học Phật hiện nay, chúng ta có được Phật pháp quả thật là không phải dễ, pháp môn hy hữu vô thượng, đắc lực bởi tổ tổ truyền thừa, chúng ta gặp được thiện tri thức vậy mới sáng tỏ, mới hiểu được. Không gặp được thiện tri thức chân chánh, thì pháp môn này dù bày ngay trước mắt bạn, bạn cũng không biết giá trị, cũng bỏ lỡ, bạn nói vậy thì đáng tiếc biết bao! Trong tất cả pháp môn thì pháp môn Tịnh Tông là thù thắng vô cùng, được mấy người biết? Được mấy người sáng tỏ thấu triệt? Chỉ có thật sự sáng tỏ rồi, thì mới có thể sinh khởi niềm tin được. Cứu độ chúng sanh thời mạt pháp, thời mạt pháp còn đến 9000 năm, phương pháp gì có thể độ được những chúng sanh khổ nạn này vậy? Chỉ có pháp môn niệm Phật. Bộ Kinh đứng đầu mà pháp môn niệm Phật dựa vào là “Kinh Vô Lượng Thọ”. Bộ “Kinh Vô Lượng Thọ” ở Trung Quốc tổng cộng có 12 lần phiên dịch, có 12 loại bản dịch. Thế Tôn năm xưa còn tại thế nhiều lần tuyên giảng, cho nên bản nguyên văn cũng đã có rất nhiều loại khác nhau. Nếu chúng ta đem nhiều bản đó hợp chung lại để xem, thì mới có thể nhận thức rõ ràng, mới có thể có tín nguyện kiên cố về thế giới Tây Phương Cực Lạc được, rất quan trọng. Nhưng những bản dịch gốc này hợp chung lại để xem, vào thời đại hiện nay cũng không dễ dàng, huống chi vào thời xưa. Vì thế việc hội tập là rất cần thiết. Lần đầu tiên hội tập là cư sĩ Vương Long Thư, là người tại gia. Bản hội tập của ông được đưa vào “Đại Tạng Kinh”. Quý vị nên biết, trước tác, tác phẩm nếu được đưa vào Tạng, tức là được tứ chúng đệ tử cửa Phật khẳng định chắc chắn không có sai lầm, vậy mới có thể đưa vào Tạng, chứ không phải trước tác tùy tiện nào cũng có thể đưa vào được, là được cao tăng đại đức đương thời giới thiệu, đưa cho Hoàng Đế xem, Hoàng Đế phê chuẩn mới đưa vào Tạng được, chứng minh tác phẩm này của họ là không có sai. Đại sư Liên Trì tổ sư của Tịnh Độ tông chú giải trong “Kinh Di Đà Sớ Sao” có trích dẫn Kinh văn của “Kinh Vô Lượng Thọ”, 2/3 là dùng “Kinh Đại A-Di-Đà” của cư sĩ Long Thư, chính là bản hội tập “Kinh Vô Lượng Thọ”, như vậy chứng minh đại sư Liên Trì thừa nhận khẳng định. Nhưng quả thật là bản thân Bồ-tát Long Thư là niệm Phật vãng sanh tư thế đứng. Nếu như Ngài hội tập là không đúng, là có tội lỗi thì Ngài làm sao có thể đang đứng mà vãng sanh được? Chứng minh công đức của Ngài là vô lượng vô biên. Nhưng bản hội tập của cư sĩ Long Thư, Ngài chỉ xem 4 loại bản. Hội Vô Lượng Thọ trong “Kinh Đại Bảo Tích đời Đường, Bồ-tát Long Thư chưa có xem qua, cho nên bản hội tập của Ngài không viên mãn. Những đời sau có người chú ý đến vấn đề này, Bành Tế Thanh đầu triều Thanh đã làm một bản Tiết Hiệu, ông không phải hội tập. Khoảng năm Hàm Phong cư sĩ Ngụy Nguyên đã làm một bản hội tập, lấy bỏ đều thiếu thỏa đáng, nên đại sư Ấn Quang có phê bình về bản này. Cho nên như vậy mới đến đầu năm Dân Quốc, cư sĩ Hạ Liên Cư đã làm một bản hội tập viên mãn nhất. Cụ cư sĩ Hạ là người tái lai, chứ không phải người bình thường. Có người nói với tôi nhìn từ trên bức hình của Ngài thấy cơ thể Ngài là trong suốt, nói với tôi đây không phải là người bình thường, là người tái lai, là Phật, Bồ-tát tái lai đến cứu độ chúng sanh thời mạt pháp. Tương lai Kinh điển Tịnh Tông đến khi pháp Phật diệt hết, thì “Kinh Vô Lượng Thọ” vẫn có thể trụ thế 100 năm. Những đại đức đương thời như lão pháp sư Huệ Minh, lão pháp sư Từ Châu của Luật Tông, cư sĩ Mai Quang Hy đều khẳng định, tương lai bản cuối cùng vẫn lưu truyền 100 năm chính là bản hội tập này. Bản hội tập này là tập đại thành của bản dịch gốc “Kinh Vô Lượng Thọ”. Nếu quý vị không tin thì có thể đem 5 loại bản dịch gốc ra để đối chiếu xem, chứ đừng phỉ báng nữa, đừng kỳ thị nữa mà tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp. Nếu bạn nói Hạ Liên Cư là cư sĩ, cư sĩ thì không có năng lực hội tập. Thế bạn xuất gia, bạn thử hội tập xem? Vương Long Thư là cư sĩ, Ngụy Mặc Thâm cũng là cư sĩ, công tác hội tập từ triều Tống đến Dân Quốc toàn là do cư sĩ tại gia làm. Đại sư Liên Trì là tổ sư xuất gia, đã khẳng định và thừa nhận nó. Còn những lời phê bình kia đều là cái nhìn thiên lệch của riêng mình, vô cùng đáng tiếc!

Chúng tôi hiện nay ở Singapore đem bản hội tập “Kinh Vô Lượng Thọ” của cụ cư sĩ Hạ phát tâm giảng lại tỉ mỉ một lần. Thời lượng giảng lần này phải nhiều hơn rất nhiều lần so với những gì đã giảng trước kia. Sự lý, nhân quả của Tịnh Tông nếu chúng ta không thể hiểu rõ thấu triệt, trong tâm không có chủ tể, niệm Phật niệm được mấy năm, gặp một người nào đó đến nói những lời đường mật như thế này: “Tôi nghe nói không cần phải niệm Phật nhiều như vậy, cũng không cần phải trì giới, cũng không cần phải ăn chay, chỉ cần phát nguyện vãng sanh là được rồi!”. Đề xướng điều gì vậy? Bổn nguyện niệm Phật. Họ hại chết người ta! Họ nương theo nguyện thứ 18 trong 48 nguyện của “Kinh Vô Lượng Thọ”, lúc sắp mạng chung một niệm đến 10 niệm đều có thể vãng sanh, thường ngày việc xấu gì cũng có thể làm, cũng chẳng sao, đến lúc sắp mạng chung 10 niệm thì Phật A-Di-Đà liền đến tiếp dẫn, liền vãng sanh ngay. Lời này nói không sai, nhưng lúc sắp mạng chung đầu óc bạn có tỉnh táo không? Nếu lúc sắp mạng chung bạn bất tỉnh nhân sự, mê man lơ mơ thì dù cao tăng đại đức đến trợ niệm, bạn cũng không thể vãng sanh. Người hiện nay không có sức định, thích nghe lừa gạt chứ không thích nghe khuyên, nhận đồ giả chứ không nhận đồ thật. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói rất hay, thời đại hiện nay của chúng ta là “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Bạn đừng thấy người đến từ bên ngoài, cho rằng hòa thượng bên ngoài đến biết đọc Kinh, nên coi thường người bản xứ, mê tín theo người bên ngoài là bạn sai rồi, quá đỗi sai lầm! Hy vọng đồng tu niệm Phật nên quay đầu lại, vâng theo lời giáo huấn của lão pháp sư Ấn Quang: “Đôn luân tận phận, nhàn tà tồn thành” (Giữ trọn luân thường, làm tròn bổn phận, ngăn ngừa điều ác, giữ tâm chân thành), “Tin sâu nhân quả, thật thà niệm Phật” thì chúng ta đời này mới có thể được độ.

Cho nên thiền định tức là trong tâm có chủ tể, không nghe theo lời nhảm nhí. Trì giới, niệm Phật nhất định là chính xác, không ăn thịt chúng sanh là tâm từ bi. Bạn xem pháp đại biểu phía trước là 10 loại vầng mây sáng, tiếp theo sau đại viên mãn chính là đại từ bi. Phật pháp là lấy “từ bi làm gốc”, bạn sao có thể từ bỏ gốc được? Quên mất gốc rồi thì làm sao có thể vãng sanh được?

Niệm một câu A-Di-Đà Phật này, như thế nào gọi là niệm? Người hiểu được rất ít. Bạn chỉ biết niệm trong miệng. Niệm trong miệng không có tác dụng. Người xưa nói mỗi ngày niệm 10 vạn câu Phật hiệu, có niệm mà không có tâm thì dù có gào rát cổ họng cũng uổng công! Bạn có thể vãng sanh không? Nói hai chữ bổn nguyện này là không sai, nhưng họ chưa có nói rõ ràng. Tâm của bạn, nguyện của bạn, hạnh của bạn phải hoàn toàn giống với Phật A-Di-Đà, sau đó niệm một câu thì một câu tương ưng, niệm 10 câu thì 10 câu tương ưng. Tâm, nguyện của bạn hoàn toàn trái ngược với Phật thì bạn niệm 10 vạn câu cũng không tương ưng. Tâm, nguyện, giải, hạnh của Phật A-Di-Đà ở chỗ nào vậy? Ở trong “Kinh Vô Lượng Thọ”. Cho nên tôi giảng Kinh nói cửu phẩm vãng sanh, cách nói này của tôi có một chút khác so với cách nói của đại đức xưa, nhưng ý nghĩa thì không có khác. Cách nói của tôi mọi người dễ hiểu. Pháp môn Tịnh Độ cũng không có đi ngược lại giáo lý: Tín, giải, hành, chứng. Những pháp môn khác thì trước tiên phải giải sau đó mới hành. Sự thuận tiện của pháp môn Tịnh Độ chính là bạn có thể hành trước, vừa hành vừa giải, chứ không phải bảo bạn chỉ hành mà không giải, không phải vậy, bảo bạn vừa hành vừa mong cầu giải. Chỉ có hành không giải, cũng được. Chúng ta nhìn thấy rất nhiều cụ bà không hiểu Kinh giáo, cũng chưa từng nghe Kinh, một câu A-Di-Đà Phật niệm đến cùng, lúc vãng sanh có thể đang đứng mà đi, đang ngồi mà đi, chúng tôi đã từng thấy. Loại người đó là gì vậy? Loại người đó là người thật thà. Sao gọi là thật thà vậy? Bạn nói với họ bất kỳ điều gì họ cũng không nghe. Họ chỉ niệm một câu A-Di-Đà Phật, đắc định rồi, loại người này gọi là người thật thà. Người thật thà ít, quá ít quá ít rồi. Trong một vạn người, khó có được một – hai người thật thà. Suốt ngày trong tâm cứ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là không thật thà. Người không thật thà nhất định phải mong cầu giải. Lý luận hiểu rõ rồi, phương pháp sáng tỏ rồi, thì niệm câu Phật hiệu đó mới tương ưng. Cả tin theo những lời nhảm nhí, tin theo tà thuyết là không thật thà, đến cuối cùng khiến cho nhân duyên vãng sanh thù thắng trong đời này của mình bị bỏ lỡ. Bạn nói như vậy đáng tiếc biết bao! Nhất định không được tin theo lời nhảm nhí, trong tâm phải có chủ tể, đây là “Thiền ba-la-mật”.

“Bát nhã ba-la-mật” là trí tuệ. Trí tuệ tức là đối với tất cả sự lý biết rất rõ ràng, rất sáng tỏ. Tuy rõ ràng, sáng tỏ, nhưng tuyệt đối không chấp tướng, không phân biệt, đây là trí tuệ chân thật. Đây là tổng cương lĩnh tự hành hóa tha của tất cả chư Phật Như-lai. Vì người diễn thuyết là biễu diễn, biểu diễn những điều này. Khuyên bảo tất cả chúng sanh cũng là khuyên mấy cương mục này.

Xem tiếp dưới đây: “Từ bi âm, hỷ xả âm” (Tiếng từ bi, tiếng hỷ xả).

Từ, bi, hỷ, xả là tứ vô lượng tâm. Là khoa mục chủ yếu mà thiên nhân cõi tứ thiền sắc giới tu. Tham thiền không có từ, bi, hỷ, xả thì không thể sanh về trời Tứ Thiền, công phu thiền tốt đi nữa cũng chỉ vãng sanh về trời Dục Giới. Sanh về trời Dục Giới, không thể sanh về Tứ Thiền. Cho nên từ, bi, hỷ, xả nhất định phải tu. Tu như thế nào vậy? Chúng ta hiện nay không có, nhất định phải học tập.

“Từ” là ban vui, giúp cho người khác được vui.

“Bi” là nhìn thấy người ta bị khổ, thì giúp họ lìa khổ, đây gọi là bi. Giúp đỡ người khác được vui, như vậy gọi là bi.

“Hỷ” là tâm hoan hỷ, nhìn thấy người khác lìa khổ được vui trong tâm sinh vui thích, chính là tùy hỷ công đức. Thế gian thông thường người mê hoặc điên đảo nhìn thấy người khác gặp chuyện vui thì sinh tâm đố kỵ, như vậy là sai rồi. Đó kỵ là bị tổn hại lớn, hại chính mình. Cho nên “hỷ” là đem tâm đố kỵ chuyển trở lại, không có tâm đố kỵ, chỉ có tâm tùy hỷ.

“Xả” là tất cả có thể buông xả được, tất cả đều không chấp trước.

 “Giải thoát âm” (Tiếng giải thoát) là giúp tất cả chúng sanh đoạn phiền não, ra khỏi tam giới, đây là tiếng giải thoát.

“Vô lậu âm” (Tiếng vô lậu) chính là âm thanh tịnh. “Lậu” là danh từ đại biểu cho phiền não. “Vô lậu” chính là phiền não đoạn hết rồi, phiền não không sinh.

“Trí tuệ âm, đại trí tuệ âm”. Đây chính là hai trí quyền – thật. Phật pháp là lấy trí tuệ làm mục tiêu chung cho dạy học. Trong tam học, nhờ giới được định, nhờ định khai tuệ. Phật ở trong Kinh nói cho chúng ta biết: “Bát nhã có thể sinh trí tuệ”. Bát nhã chính là trí tuệ thấy thực tướng. Mà trí tuệ chính là hai trí quyền-thật. Ý nghĩa trong đây là trí tuệ quyền – thật không phải không có nhân quả. Chư Phật, Bồ-tát dùng hai loại trí tuệ này giúp đỡ tất cả chúng sanh, giúp tất cả chúng sanh cũng khai mở được hai loại trí tuệ này.

“Sư tử hống âm, đại sư tử hống âm” (Tiếng sư tử gầm, và tiếng đại sư tử gầm). Đây là ví dụ về uy đức thuyết pháp dạy học của Phật, Bồ-tát giống như tiếng “Sư tử gầm” vậy. Dùng “Sư tử” để ví dụ là Bồ-tát, dùng “Đại sư tử” để ví dụ là Phật Đà. Bồ-tát có thể giáo hóa người trong tam thừa, Phật Đà có thể giáo hóa tất cả chúng sanh, kể cả Bồ-tát Đẳng Giác, cho nên xưng là đại sư tử.

“Vân lôi âm, đại vân lôi âm” (Tiếng mây sấm, tiếng mây sấm lớn). Đây là ví dụ. “Mây” có thể đổ mưa. Đổ là trút xuống. “lôi” là nói sấm chớp, có thể làm chấn động lòng người, dụ cho uy lực của nó, dụ cho sự chấn động của nó. Phật, Bồ-tát thuyết pháp có thể làm chấn động vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của tất cả chúng sanh. Những pháp mà Phật nói ví như mưa pháp, bố thí khắp, không có phân biệt, không có chấp trước. Giống như lời trong “Kinh Pháp Hoa” nói, mưa trút xuống thì cây lớn hấp thu lượng nước nhiều, còn cỏ nhỏ thì hấp thu lượng nước ít, không phải mưa có phân biệt cho bạn nhiều một chút, cho người kia ít một chút, không phải vậy, mà là do căn tánh của bản thân bạn khác nhau. Cho nên tất cả chúng sanh nghe Phật thuyết pháp, người căn khí nhỏ được lợi ích nhỏ, người căn khí lớn được lợi ích lớn; người thiện căn sâu dày ngộ nhập sâu, người thiện căn cạn ngộ nhập cạn, chứ không phải Phật có phân biệt. Do căn tánh chúng sanh khác nhau nên mới có đủ dạng hiện tượng khác biệt, vậy là dùng “mây sấm” để làm ví dụ. Dụ cho Phật thuyết pháp rộng khắp, không có phân biệt, không có chấp trước. Dụ cho uy đức thuyết pháp của Phật có thể khiến tất cả chúng sanh giác ngộ.

Xem tiếp Kinh văn dưới đây: “Xuất như thị đẳng bất khả thuyết, bất khả thuyết âm dĩ”. (Nói ra những âm thanh không thể nói, không thể nói như vậy xong). Câu nói này là tổng kết âm thanh thuyết pháp.

“Sa-bà thế giới cập tha phương quốc độ, hữu vô lượng ức thiên long quỷ thần, diệc tập đáo Đao Lợi thiên cung” (Thế giới Ta-bà và những cõi nước ở phương khác, có vô lượng ức trời, rồng, quỷ, thần cũng tập trung đến cung trời Đao Lợi).

Âm thanh Phật thuyết pháp quả là có hiệu quả, chấn động hư không pháp giới, không chỉ là thế giới Ta-bà chúng ta. “Thế giới Ta-bà” là khu vực giáo hóa của Phật Thích Ca Mâu Ni, đây là một đại thiên thế giới. “Tha phương quốc độ” chính là tất cả cõi nước chư Phật ngoài thế giới Ta-bà hết thảy đều bị chấn động. Trong 10 phương thế giới đó những chúng sanh có duyên này, có duyên với ai vậy? Có duyên với Phật Thích Ca Mâu Ni, có duyên với Bồ-tát Địa Tạng. Bởi vì pháp hội lần này muốn tuyên dương các thứ công đức không thể nghĩ bàn của Bồ-tát Địa Tạng tu nhân chứng quả, độ hóa chúng sanh, vì vậy đặc biệt là người có duyên với Bồ-tát Địa Tạng, trời, rồng, quỷ, thần trong vô lượng vô biên cõi nước 10 phương cũng đều đến cung trời Đao Lợi để tham dự pháp hội này. Trong pháp hội lần này có Phật, có Bồ-tát, Thanh Văn, Duyên Giác. Trong Kinh văn dưới đây nói cho chúng ta biết, thiên long, thần chúng, quỷ vương thảy đều đến cả. Pháp hội này thật sự là thù thắng vô song.

Chúng ta xem Kinh văn phía dưới này: “Sở vị Tứ Thiên Vương thiên, Đao Lợi thiên, Tu Diệm Ma thiên, Đâu Suất thiên, Hóa Lạc thiên, Tha Hóa Tự Tại thiên.” (Đó là cõi trời Tứ Thiên Vương, cõi trời Đao Lợi, cõi trời Tu Diệm Ma, cõi trời Đâu Suất, cõi trời Hóa Lạc, cõi trời Tha Hóa Tự Tại).

Đoạn này là nói cõi trời Dục Giới. Dục Giới có 6 tầng trời. Vì thời gian của chúng ta có hạn, nên chỗ này chúng ta không thể nói tỉ mỉ được. Pháp sư Thánh Nhất, lần trước có giảng “Kinh Địa Tạng” ở Cửu Hoa Sơn, sư có bộ giảng ký, giảng ký của sư đơn giản rõ ràng, đều có giới thiệu sơ lược. Tôi ở chỗ này chỉ giới thiệu cõi trời Tứ Thiên Vương, giới thiệu với quý vị một cõi.

Tứ Đại Thiên Vương, dân gian Trung Quốc chúng ta thường gọi là Tứ Đại Kim Cang. Khi vào trong chùa miếu bạn thấy Ngài đứng ngay cổng chính giống như bảo vệ vậy, đây là thần hộ pháp. Thực ra là “Trời Tứ Thiên Vương”, Tứ Đại Thiên Vương đích thực ở trong nhà Phật họ là đại biểu cho hộ pháp. Trong điện Thiên Vương có thờ cúng Tứ Đại Thiên Vương, đồng thời cũng thờ cúng Bồ-tát Di Lặc. Bồ-tát Di Lặc là ở cõi trời Đâu Suất Đà, đây là hậu bổ Phật sau Phật Thích Ca Mâu Ni trong nhà Phật. Tại sao thờ Bồ-tát Di Lặc ở điện Thiên Vương vậy? Hơn nữa tạo tượng Bồ-tát Di Lặc lại không phải tạo tượng giống Bồ-tát truyền thống Ấn Độ, mà là tạo tượng hòa thượng Bố Đại thời triều Tống Trung Quốc. Vào thời Nam Tống, hòa thượng Bố Đại xuất hiện ở Phụng Hóa, tỉnh Chiết Giang. Ngài dáng vẻ mập mạp, suốt ngày cứ cười toe toét, vác trên vai một bao vải lớn. Hòa thượng Bố Đại là từ đâu đến vậy? Không có ai biết cả, cũng không biết tên họ Ngài là gì. Bởi vì Ngài suốt ngày vác bao vải lớn, nên cái bao vải lớn đó biến thành đặc điểm của Ngài. Cho nên người ta nhìn thấy Ngài bèn gọi Ngài là hòa thượng Bố Đại, vì vậy hòa thượng Đại là có tên từ đó. Lúc viên tịch, Ngài nói cho người ta biết Ngài là Bồ-tát Di Lặc hóa thân đến. Sau khi nói xong Ngài liền ngồi yên thị tịch. Nên về sau người Trung Quốc tạo tượng Bồ-tát Di Lặc là tạo tượng của Ngài, tạo tượng của hòa thượng Bố Đại. Ngài biểu thị cái tướng này, nói thực ra đây là trong Kinh thường nói, đệ tử Phật hóa hiện ở thế gian này là để thọ trì đọc tụng, vì người diễn thuyết cho Phật pháp. Diễn là biểu diễn. Ngài hoàn toàn là biểu diễn cho mọi người thấy, làm tấm gương tốt cho xã hội đại chúng, khiến cho người ta nhìn thấy Ngài có thể sinh tâm giác ngộ. Cái bụng to nghĩa là có thể bao dung, là thị hiện bao dung. Người thế gian tâm lượng quá nhỏ hẹp, không thể bao dung được người khác. Bồ-tát Di Lặc là đại từ đại bi. Di Lặc là từ thị, đại biểu cho từ bi, cho nên thị hiện cái hình dáng bao dung này, Ngài có thể bao dung. Ý nghĩa của cái bao vải cũng là bao dung, Ngài đến bất kỳ nơi nào, đồ người ta cúng dường Ngài đều cho vào trong bao cả, không phân biệt sang hèn, cũng không phân biệt tốt xấu, hết thảy đều bình đẳng cho vào túi.

Có người hỏi Ngài: hòa thượng Bố Đại ơi, Phật pháp là gì? Ngài bèn để túi vải xuống. Biểu thị điều gì vậy? Buông xả. Người ta nhìn thấy cũng hiểu được : Ồ! Buông xả. Sau khi buông xả rồi làm thế nào nữa? Ngài vác bao lên đi rồi. Sau khi buông xả, thì cầm lên. Buông xả là trong tâm hoàn toàn không có vướng bận. Nhấc lên là gì vậy? Vì xã hội đại chúng phục vụ, không có tâm riêng tư, hoàn toàn hiến dâng, vì đại chúng xã hội phục vụ. Buông xuống được, nhấc lên được là biểu thị cái ý nghĩa này. Vẻ mặt luôn tươi cười, chúng ta đem Ngài đặt ngay trước chỗ dễ nhìn thấy nhất của cửa Phật. Vừa bước vào chùa miếu là thấy Ngài đầu tiên, phải học Ngài, phải học cách buông xuống được, nhấc lên được của Ngài, phải học tâm đại từ đại bi của Ngài, phải học vẻ mặt luôn tươi cười của Ngài, thường sinh tâm vui vẻ, vui vẻ tiếp dẫn tất cả đại chúng, đem Ngài đặt ở trong điện Thiên Vương. Ý nghĩa này là hàm chứa điều gì vậy? Hộ pháp. Hộ cho ai? Hộ cái gì vậy? Hộ tâm từ bi, biểu thị cái ý nghĩa này, là hộ tâm từ bi của mình, hộ tâm buông xả, nhấc lên của mình, đừng cho quên mất! Hộ thường sinh tâm vui vẻ của mình, hộ vẻ mặt tươi cười khi đối với người khác của mình. Hòa thượng Bố Đại là biểu hiện cho tánh đức của mình. Phải bắt đầu hộ từ chỗ này. Bạn thấy ý nghĩa này sâu biết bao ! Như vậy bạn mới có tư cách vào cửa Phật. Vào cửa Phật cần có điều kiện gì? Cần điều kiện này. Thật sự buông xả được, tâm địa thanh tịnh vô vi. Thật sự nhấc lên được, dùng lục độ giáo hóa tất cả chúng sanh. Nhấc lên là biểu thị cho ý nghĩa này.

Tứ Thiên Vương, Thiên Vương Phương Đông Trì Quốc đại biểu cho làm tròn trách nhiệm. Thiên Vương Tăng Trưởng Phương Nam đại biểu cho nỗ lực mong cầu tiến bộ, mỗi ngày cầu tiến bộ, tuyệt đối không lạc hậu. Thiên Vương Quảng Mục Phương Tây, Thiên Vương Đa Văn phương Bắc là đại biểu cho học rộng nghe nhiều. Người Trung Quốc chúng ta nói đọc vạn cuốn sách, đi vạn dặm đường, thành tựu học vấn chân thật, đức năng chân thật của mình, sau đó bạn mới có thể vì xã hội, vì quốc gia, vì tất cả chúng sanh phục vụ. Bạn không có trí tuệ, không có đức năng, bạn lấy cái gì để phục vụ? Là biểu thị cái ý nghĩa này. Ý nghĩa vô cùng vô cùng viên mãn. Ý nghĩa biểu trưng của Tứ Đại Thiên Vương.

Trời Tứ Vương, Phật ở trong Kinh nói cho chúng ta biết, tuổi thọ của thiên nhân là 500 tuổi. Một ngày của cõi trời Tứ Vương là 50 năm nhân gian chúng ta, cũng là tính một năm có 360 ngày. 50 năm nhân gian là một ngày của họ. Bạn thấy tuổi thọ của họ là rất dài. Càng lên cao nữa thì tăng thêm gấp bội, cho nên phước cõi trời rất lớn.

Tốt rồi! Hôm nay chúng ta chỉ giảng đến chỗ này.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *