Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 66

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 66

Chúng ta xem tiếp vị dưới đây, vị thứ sáu:

  “Hựu ư quá khứ hữu Phật xuất thế, hiệu Tỳ Bà Thi. Nhược hữu nam tử nữ nhân, văn thị Phật danh vĩnh bất đọa ác đạo, thường sanh nhân thiên, thọ thắng diệu lạc.”

  (Lại về thuở quá khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai. Như có người nam người nữ nào được nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, thời mãi không còn sa đọa vào chốn ác đạo, thường được sanh vào chốn trời người, hưởng lấy sự vui thù thắng vi diệu.)

  “Tỳ Bà Thi” là dịch âm tiếng Phạn. Có nghĩa là “Thắng quán”. Thắng là thù thắng. Quán là quán sát. Phàm phu chúng thường hay nhìn lệch lạc, nhìn sai về tất cả vạn vật, hay nói cách khác là không thù thắng. Thù thắng ở đây là nhìn thấy rất rõ ràng, rất minh bạch chân tướng của tất cả các pháp. Cái quán này gọi là thắng quán. Cách nói này của tôi, sau khi mọi người nghe xong nhất định sẽ cảm thấy mơ hồ chung chung, chúng ta không cách gì học tập được. Nói thực ra “quán” chính là quan niệm của bạn. Trong “Kinh Lăng Nghiêm” nói rất hay, quán như thế nào mới là thật sự thù thắng? Đại sư Giao Quang ở trong chú giải dạy chúng ta “Xả thức dụng căn”, đó mới thật sự là thắng quán danh phù hợp với thực. Tuy nói không sai, nhưng phàm phu chúng ta không làm nổi. Phàm phu là thường dùng thức thứ sáu, là dùng ý thức. Xả thức dụng căn, vậy là không dùng ý thức rồi. Căn là tánh ở trong căn. Cũng chính là nói chúng ta dùng tánh thấy để thấy sắc, thì cái quán này là thù thắng. Quý vị phải biết ở trên hội Lăng Nghiêm, đức Phật đã nói với chúng ta rất rõ ràng. Quan Thế Âm Bồ Tát, pháp môn mà Ngài tu chính là chỗ này: “Phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo” (Nghe trở lại bằng tánh nghe, tánh thành đạo Vô Thượng) Bồ Tát Quan Thế Âm nêu ra báo cáo tu học, Ngài tu hành thành công như thế nào? Chính là dùng tánh ở trong căn. Tánh ở trong căn là chân tâm. Hay nói cách khác, là dùng chân tâm, chứ không phải dùng vọng tâm, dùng tánh thấy để thấy sắc. Thấy sắc đó không phải là sắc trần. Chúng ta dùng nhãn thức thấy sắc đó là sắc trần. Trần là ô nhiễm. Nếu như dùng tánh thấy để thấy sắc, là thấy tánh của sắc. Trong thiền Tông nói minh tâm kiến tánh. Khả năng của họ lớn, chúng ta vô cùng kém cỏi. Dùng tánh nghe nghe tánh của âm thanh, dùng tánh ngửi để ngửi tánh của hương, tánh lưỡi để nếm tánh của vị, là minh tâm kiến tánh. Chúng ta rất tệ, sáu căn chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, là sáu loại ô nhiễm. Sáu căn của người ta tiếp xúc sáu trần bên ngoài là kiến tánh, cho nên sau khi kiến tánh mới nói: “Cái nào cũng là đạo, trái hay phải cũng là nguồn.” đó là đương nhiên, những gì mà sáu căn tiếp xúc đều là chân như bản tánh, kiến tánh thành Phật. Người kiến tánh là hạng người nào? Xin thưa quí vị đó là Bồ Tát sơ trụ viên giáo. Vì vậy chúng ta mới biết, hai mươi lăm vị Bồ Tát trong “Kinh Lăng Nghiêm” đều là Bồ Tát sơ trụ viên giáo. Đây là điều chúng ta thấy từ trong “Kinh Lăng Nghiêm”, chương hai mươi lăm Viên Thông, hai mươi lăm vị Bồ Tát thị hiện là chính các Ngài tự kể mình đã dùng phương pháp gì để tu hành chứng quả, các Ngài làm đại biểu. Con số hai mươi lăm này là hai mươi lăm loại lớn. Số lượng ở trong mỗi loại là rất nhiều rất nhiều. Các Ngài là đại biểu cho tám vạn bốn nghìn pháp môn, vô lượng pháp môn. Đem vô lượng pháp môn quy nạp lại thành hai mươi lăm loại, chứ không phải pháp môn chỉ có hai mươi lăm loại, bạn nhất định phải hiểu đạo lý này. Hai mươi lăm người này, đều là Bồ Tát sơ trụ viên giáo. Thân phận Bồ Tát Quan Thế Âm thị hiện ở trên hội Lăng Nghiêm là Bồ Tát sơ trụ. Thân phận thị hiện ở trong “Kinh Hoa Nghiêm”, tương lai đến năm mươi ba lần tham vấn, quí vị đọc thấy địa vị là thứ bảy hồi hướng. Địa vị của Ngài trong Phẩm Phổ Môn của “Kinh Pháp Hoa” là Bồ Tát đẳng giác. Cho nên ở pháp hội nào thì Ngài dùng thân phận nấy để thị hiện. Chỗ này chúng ta nói lại một chút, bắt tay làm từ chỗ nào? Trên thực tế, mỗi người chúng ta dùng sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, niệm đầu tiên là tánh thấy thấy. Chúng ta mở mắt ra nhìn cảnh giới bên ngoài, khi vẫn chưa có khởi tâm động niệm, vẫn chưa có phân biệt, chấp trước, cái niệm đầu tiên này. Niệm này là Phật tri, Phật kiến, niệm này là kiến tánh. Nhưng phàm phu không có cách gì duy trì, đến niệm thứ hai liền khởi phân biệt, chấp trước, niệm thứ hai là rơi vào trong ý thức rồi. Bạn duy trì vĩnh viễn được niệm thứ nhất, chẳng phải bạn đã thành Phật rồi sao? Không có phân biệt, không có chấp trước, không có khởi tâm, không có động niệm, mở mắt ra nhìn thấy rất rõ ràng, rất minh bạch, lúc này là tánh thấy nhìn thấy tánh của sắc, cái thấy của bạn là chân thật, sắc bên ngoài cũng là chân thật. Quí vị biết đây chính là nhất chân pháp giới. Nhưng niệm thứ hai khởi lên, họ liền có phân biệt, có chấp trước, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước lập tức liền hiện tiền. Từ chỗ này chúng ta mới biết được khi sáu căn của Phật Bồ Tát tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, rốt cuộc khác nhau với chúng ta ở chỗ nào? Tại sao người ta là nhất chân pháp giới? Bởi vì lìa tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì không gian và thời gian là một không phải hai, không có quá khứ, hiện tại, vị lai, không có mười phương, là ở trong cảnh giới này. Khi niệm thứ hai khởi lên thì vọng tưởng, phân biệt, chấp trước hiện tiền, liền đem nhất chân pháp giới biến hiện ra vô lượng, vô biên chướng ngại, không chỉ thập pháp giới. Thập pháp giới là nói sự khác biệt lớn. Nói thực ra chữ thập không phải là con số, mà biểu thị cho vô tận, vô lượng, đạo lý là ở chỗ này. Ở trong Phật pháp Đại Thừa nói tu hành, tu hành là tu quán. Tu quán không chỉ là Tông Môn, mà Giáo Hạ cũng tu quán, chỉ quán. Cho nên tu quán cũng là tổng cương lĩnh tu hành trong Phật pháp chúng ta. Thuật ngữ trong cửa Phật gọi là: “Đại đà la ni môn” là tổng cương lĩnh. Bạn không biết tu quán, nên mới bảo bạn thật thà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đới nghiệp vãng sanh. Nếu tu quán thì khỏi phải đới nghiệp, bạn niệm niệm là thanh tịnh, bình đẳng, giác. Đây chính là nhà Phật thường nói: “Một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”. Tương ưng với cái gì? Thanh tịnh, bình đẳng, giác. Thanh tịnh, không chấp trước, không có chấp trước. Bình đẳng, không có phân biệt. Không phân biệt là bình đẳng. Không chấp trước là thanh tịnh. Không có vọng tưởng là giác rồi. Thanh tịnh, bình đẳng, giác, chính là đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đoạn dứt sạch rồi. Bạn có thể tương ưng với cái này, thì đương nhiên thành Phật rồi. Phật chính là thanh tịnh, bình đẳng, giác. Thanh tịnh, bình đẳng, giác chính là tự tánh của bản thân chúng ta. Cho nên một ý nghĩ khởi nên là hỏng rồi, tốc độ đó rất nhanh, không biết là nhanh hơn gấp bao nhiêu lần so với điện và ánh sáng, nhanh chóng đọa lạc, đang biến đổi rất nhanh chóng. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, biết được chân tướng sự thật này mới thật sự hiểu được đức Phật ở trong kinh Đại Thừa thường nói: “Chúng sanh và Phật không cách xa mảy may, chỉ trong khoảng một niệm mà thôi.” Cách nhìn của chúng ta, sáu căn của chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần là sự tiếp xúc sai lầm. Chư Phật Bồ Tát tiếp xúc là tiếp xúc chính xác. Tiếp xúc của các Ngài là đại giác, còn chúng ta là tiếp xúc mê tà. Sự việc này đức Phật đã nói với chúng ta rất rõ ràng, minh bạch, chuyển đổi là ở chính mình, chứ Phật Bồ Tát không có cách gì giúp chúng ta chuyển đổi được. Chuyển đổi là ở chính mình, tu hành ở cá nhân, Phật Bồ Tát từ bi đi nữa cũng không cách gì giúp chúng ta chuyển đổi được. Bản thân chúng ta biết chuyển đổi, chịu chuyển đổi, thì Phật Bồ Tát nhìn thấy rất hoan hỷ. Chúng ta không biết chuyển đổi, không chịu chuyển đổi, thì Phật Bồ Tát cũng đành chịu. Đây là nói ý nghĩa của thắng quán của đức Phật Tỳ Bà Thi. Phần cuối chú giải Ngài trích dẫn một bài kệ trong “Đại Trang Nghiêm Luận”, ở hàng cuối cùng trang một trăm bốn hai. Bốn câu trong bài kệ này chúng ta phải nhớ kỹ. “Vô bệnh đệ nhất lợi” (Không bị bệnh là lợi ích nhất) Lợi là lợi ích. Lợi ích chân thật là gì? Là không có bệnh. “Tri túc đệ nhất phú” (Biết đủ là giàu hạng nhất). Người thế gian theo đuổi giàu sang. Sao gọi là giàu? Biết đủ là giàu. Trước đây đệ tử Phật chỉ có ba y một bát, ngày ăn một bữa, tối ngủ gốc cây, là giàu hạng nhất, vì biết đủ. “Thiện hữu đệ nhất thân” (Bạn lành là người thân nhất). Chư Phật Bồ Tát là bạn lành của chúng ta. “Niết Bàn đệ nhất lạc” (Niết Bàn là vui nhất). Niết Bàn phần trước đã giảng rồi, ý nghĩa của Niết Bàn đại sư Huyền Trang dịch rất hay, dịch là “viên tịch”, công đức viên mãn, thanh tịnh tịch diệt, đây là niềm vui hạng nhất. Cuối cùng Ngài nói hai câu này: “Thử nãi thọ tức bất thọ, vô thọ tức thọ” (Đó là thọ mà không thọ, không thọ mà thọ vậy.) Ý nghĩa của hai câu nói này, rất dài, ý nghĩa rất sâu sắc. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, thật sự có thể quay đầu, có thể giác ngộ, có thể chăm chỉ học tập thì: “Nam tử nữ nhân văn thị Phật danh vĩnh bất đọa ác đạo” (Như có người nam người nữ nào được nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, thời mãi không còn sa đọa vào chốn ác đạo). Họ đương nhiên không bị đọa ác đạo. “Thường tại nhân thiên thọ thắng diệu lạc” (Thường được sanh vào chốn trời người, hưởng lấy sự vui thù thắng vi diệu.) Chữ “thắng diệu lạc” này của Ngài chính là những gì mà bài kệ sau cùng này nói, tuyệt đối không phải niềm vui ngũ dục lục trần thế gian, tuyệt đối không phải niềm vui danh vọng lợi dưỡng thế gian. Nếu bạn xem những cái này là vui, thế là quá đỗi sai lầm rồi! Loại lạc này trong Phật pháp nói lạc là hoại khổ, không phải chân lạc. Thắng diệu lạc là chân lạc. Bài kệ sau cùng này, trên thực tế chính là giải thích cho từ “thọ thắng diệu lạc”. Ngài nói “Thọ tức bất thọ, vô thọ tức thọ” (thọ mà không thọ, không thọ mà thọ) đây mới là thắng diệu lạc đích thực, nó tương ưng với nhân hạnh thắng quán ở phía trước. Thắng quán mới được thắng diệu lạc.

Chúng ta xem vị thứ bảy dưới đây:

  “Hựu ư quá khứ vô lượng vô số Hằng hà sa kiếp, hữu Phật xuất thế, hiệu Bảo Thắng Như Lai. Nhược hữu nam tử nữ nhân, văn thị Phật danh tất cánh bất đọa ác đạo, thường tại thiên thượng thọ thắng diệu lạc.”

  (Lại vô lượng vô số hằng hà sa kiếp về thuở quá khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Bảo Thắng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, liền khỏi đọa vào ác đạo, thường ở tại cung trời hưởng sự vui thù thắng vi diệu.)

  “Bảo Thắng Như Lai”. “Bảo” là quí báu. Người thế gian chúng ta coi trọng cái gọi là bảy báu, đây là thứ ở trong kinh Phật thường nói, người xưa coi trọng, mong có được và người hiện nay cũng coi trọng, cũng mong có được nó. Có vật báu là đại biểu cho của cải của bạn, có thể khiến cho đời sống vật chất của bạn được dồi dào mà không bị thiếu thốn. Ở trong Phật pháp cũng có bảo, là mượn vật chất để nói. Và trên thực tế cần phải nói là Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng tam bảo. Trong Tam Bảo mới có thường, lạc, ngã, tịnh. Vậy lìa khỏi Tam Bảo thì tìm cầu thường, lạc, ngã, tịnh ở đâu? Tìm không ra. Mọi người biết Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng. Người biết ý nghĩa đích thực của Tam Bảo không nhiều. Cho nên chúng ta nhìn thấy, có rất nhiều người quy y Tam Bảo, có phải họ thật sự quy y hay không? Chưa có quy y. Chỉ thực hiện nghi thức đó, cái nghi thức đó là trống rỗng, là giả, là hình thức chứ không có thực chất. Tại sao vậy? Họ không rõ Tam Bảo, không hiểu Tam Bảo, cho nên họ cũng không có được Tam Bảo. Người đã thọ giới rồi đều biết, giới có giới thể. Họ không đạt được giới thể. Tam quy cũng là giới, cùng đạo lý giống nhau, họ cũng không đạt được giới thể. Giới thể là gì? Là tự tánh. Đại sư Lục Tổ Huệ Năng ở trong “Đàn Kinh” giảng về Tam Bảo rất hay: Phật Bảo là tự tánh giác, Pháp Bảo là tự tánh chánh, Tăng Bảo là tự tánh tịnh. Khi chúng ta thọ trì Tam Quy, có đạt được giác, chánh, tịnh của tự tánh hay không? Nếu như lúc bạn thọ trì Tam Quy đạt được rồi, vậy bạn là Tam Quy thật. Trong kinh nói về quy y là nói cái này, chứ không phải nói hình thức. Quy là quay đầu. Quay đầu từ đâu vậy? Quay đầu từ chỗ mê, tà, nhiễm trước đây. Y là gì? Là nương vào giác, chánh, tịnh của tự tánh, vậy là thật sự quy y. Một niệm này quay về rồi, đây là đệ tử Phật chân thật. Nếu như không có từ bỏ mê, tà, nhiễm, không nương vào giác, chánh, tịnh, thì việc quy y này là mạo danh. Nói dễ nghe một chút, lời trong lục tức của tông Thiên Thai gọi là “danh tự quy y”. Danh tự quy y là gì? Hữu danh vô thực, không có một chút tác dụng nào cả, hữu danh vô thực. Khi thật sự có được lợi ích, thì mức thấp nhất bạn phải là “Quán hạnh quy y”. Nếu như chúng ta tu hành, không thể khế nhập địa vị quán hạnh, chỉ ở trên danh tự, vậy là uổng công rồi. Trên địa vị danh tự nói lời thành thật, rất dễ tạo tội nghiệp, rất dễ đọa Tam Đồ. Đến địa vị quán hạnh, về mặt đại thể, công phu quán hạnh đắc lực, là có thể được phước báo nhân thiên, không bị đọa lạc Tam Đồ. Nếu như vào đến “Tương tự vị” vậy là bạn có thành tựu rồi. Bạn đã tu hành chứng quả trên đường Bồ Đề rồi. Tương tự vị là quả vị gì vậy? Nếu dùng quả vị của “Kinh Hoa Nghiêm” để nói thì tương tự tức chính là Bồ Tát quả vị Thập Tín, bạn chuyển phàm thành thánh rồi. Tam Quy “Phần chứng”, đó tức là sơ trụ viên giáo trở lên. Cho nên công đức của quy y không thể nghĩ bàn, là bạn phải thật sự quy y. Đức Phật ở trong kinh nói nếu bạn thật sự quy y liền có ba mươi sáu vị thần hộ pháp ngày đem bảo vệ bạn, đó là chuyện đương nhiên. Tại sao họ bảo vệ bạn? Vì tôn kính bạn, khâm phục bạn, ngưỡng mộ bạn, chứ không phải do người nào sai họ đến bảo vệ cả, là tự động, tự động đến bảo vệ bạn, đây mới gọi là Tam Bảo. Giác, chánh, tịnh của tự tánh mới là Tam Bảo. Đây là tổng nguyên tắc, tổng cương lĩnh tu hành chứng quả của nhà Phật. Khi vào cửa Phật bài học đầu tiên đã đem tổng cương lĩnh tu hành chứng quả truyền thụ cho bạn rồi, đây gọi là truyền thọ Tam Quy. Khiến cho bạn đời này và đời đời kiếp kiếp nỗ lực tiến bước theo phương hướng này, theo mục tiêu này, bạn mới có thể thành Bồ Tát, thành Phật. Nền giáo dục Phật pháp thực sự là mỹ mãn đến cực điểm, là thật sự viên mãn. Vừa mở đầu đã chỉ rõ ràng, chỉ rành rẽ con đường này rồi. Nhưng hiện nay chúng ta thường hay nhìn thấy quy y là quy y một vị pháp sư nào đó, vậy là xong rồi! Nhược điểm của việc “Quy y vị pháp sư nào đó” này đã có từ lâu rồi. Chúng ta xem thấy từ trong trước tác của Ngẫu Ích Đại Sư. Ngẫu Ích Đại Sư là người cuối triều Minh đầu triều Thanh, Ngài lúc đó đã chỉ ra sự hiểu lầm, sai lầm của quy y. Từ đó cho thấy, vào thời đại đó, cách chúng ta đã năm trăm năm rồi. Năm trăm năm trước là đã có việc “Quy y vị pháp sư nào” rồi, không phải quy y Tam Bảo. Vị này là sư phụ của tôi, vị kia không phải sư phụ của tôi, là phá hòa hợp tăng. Tăng đoàn là gia đình hòa hợp, những vị đệ tử quy y này của họ ở trong đây có phân biệt, có chấp trước, đây là sư phụ của tôi, đây là đạo tràng của sư phụ tôi, nên tôi phải ủng hộ, còn kia là không phải nên tôi phải bài xích, là phá hòa hợp tăng. Phá hòa hợp tăng mọi người đều biết, là tạo tội nghiệp địa ngục Vô Gián. Hay nói cách khác, khi bạn chưa quy y vẫn chưa tạo tội nghiệp này, sau khi quy y rồi lại tạo tội nghiệp này, cuối cùng đi về cõi nào? Đi về cõi địa ngục A Tỳ, vậy có tệ hại hay không? Quá đỗi sai lầm. Tại sao lại sinh ra loại sai lầm này? Do một niệm mê tình, một niệm tự tư, mà trở nên quá sai. Cái mặt sai lầm này dần dần mở rộng, khiến cho hầu hết mọi người mê mất hết ý nghĩa đích thực về quy y. Không những mở rộng diện ảnh hưởng, mà thời gian ảnh hưởng cũng lâu dài, đời đời truyền nhau mãi, khiến chúng ta đều cho rằng đây là chính xác. Ai có thể phát hiện ra đây là sai lầm? Nếu như chúng ta không đọc “Lục Tổ Đàn Kinh”, không đọc những trước tác này của Ngẫu Ích Đại Sư thì sao chúng ta có thể biết được? Ở trong “Đàn Kinh” khai thị cho chúng ta, là Lục Tổ truyền thọ quy y, Ngài không nói là: “Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, Ngài không giải thích như vậy. Ngài nói là “Quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh”. Năm xưa khi tôi đọc kinh này, nó đã gợi mở cho tôi rất nhiều. Tại sao Ngài lại nói như vậy? Ngài là người vào thời triều Đường, cách chúng ta hiện nay là hơn một nghìn ba trăm năm. Có lẽ vào thời đại đó, mọi người đối với Tam Bảo đã bị mê mất rồi, mê ở trong Phật, Pháp, Tăng, không biết ý nghĩa tượng trưng đích thực của Phật, Pháp, Tăng, cho nên Ngài mới nói: “Quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh”. Sau đó lại nói: “Phật nghĩa là giác, Pháp nghĩa là chánh, Tăng nghĩa là tịnh”, Ngài nói như vậy. Sở dĩ Ngài nói như vậy, đối với người thời đại đó, chắc chắc là người thời đại đó đã mê mất hết ý nghĩa đích thực của Phật Pháp Tăng rồi. Cho nên đại sư Huệ Năng truyền thọ Tam Quy, Ngài có cách giảng riêng của Ngài, để đánh thức mọi người quay đầu, làm vậy là rất có đạo lý. Nhà Phật muốn tu hành chứng quả, điều trước tiên phải xả sạch Ngã, xả sạch tư. Bạn chấp trước có cái Ngã, tất cả đều vì Ngã, chấp trước có ý niệm tư lợi, đây là tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, chứ không phải Phật pháp. Phật pháp, ý nghĩa của chữ Phật là giác. Phật pháp là pháp giác ngộ. Bạn có một niệm riêng tư xen tạp ở trong đó, là bạn theo pháp mê, là pháp mê hoặc điên đảo chứ không phải Phật pháp. Chúng ta ngày nay xem pháp mê nhiễm là Phật pháp, vậy bạn tu học Phật pháp sẽ được thành tựu gì? Đạo lý này không thể không biết. Cho nên Giác, Chánh, Tịnh là bảo, là báu vật thù thắng nhất trong báu vật. Tam Bảo đều thuộc về tự tánh, không phải ở bên ngoài, cũng không phải ở người khác. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không có dạy chúng ta phải quy y Ngài. Thời xưa dạy chúng ta quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, chứ không có nói là quy y Ngài. Mọi người đều biết Giác, Chánh, Tịnh của tự tánh là Tam Bảo, gọi là tự tánh Tam Bảo. Nhưng đối với Tam Bảo ở trên hình tướng cũng phải biết tôn trọng. Tại sao vậy? Không có Tam Bảo hình tướng, thì bạn làm sao có thể biết được tự tánh Tam Bảo. Nhất thiết phải dùng Tam Bảo hình tướng để thường xuyên nhắc nhở bạn, hướng dẫn bạn, khiến cho bạn luôn luôn quay về tự tánh Tam Bảo, cho nên hình tướng sẽ tạo nên tác dụng rất lớn. Chúng ta nhìn thấy tượng Phật, nghe thấy danh hiệu Phật, lập tức quay về tự tánh giác. Nhìn thấy kinh sách, nhìn thấy pháp vật liền có thể quay về tự tánh chánh. Nhìn thấy hình ảnh người xuất gia, liền biết quay về tự tánh tịnh, cho nên công đức của hình tượng là vô lượng vô biên, hình tượng từng giây từng phút đang nhắc nhở chúng ta. Nếu như không có hình tượng này sẽ rất dễ bị quên mất. Lại mê hoặc, lại điên đảo, lại tạo nghiệp, vẫn phải tiếp tục thọ khổ báo. Đây mới là Tam Bảo đích thực, Tam Bảo chân thật. “Nhược hữu nam tử nữ nhân, văn thị Phật danh” (Nếu có người nam người nữ, nghe được danh hiệu Phật này) Nghe danh liền quy y, nghe danh liền quay đầu, thì chắc chắc sẽ không đọa ác đạo. Đời sống của họ, hành vi của họ, có thể tương ưng với Tam Bảo giác, chánh, tịnh của tự tánh, thì sao họ có thể đọa ác đạo được? Cho dù tạo tác nhân ác đạo, mà cắt đứt duyên ác đạo rồi, cho nên không đọa ác đạo. “Thường tại thiên thượng, thọ thắng diệu lạc” (Thường ở tại cung trời hưởng sự vui thù thắng vi diệu.) Câu này là cùng ý nghĩa với câu “Thường sanh nhân thiên thọ thắng diệu lạc” ở phía trước. Xem tiếp vị thứ tám.

  “Hựu ư quá khứ hữu Phật xuất thế, hiệu Bảo Tướng Như Lai. Nhược hữu nam tử nữ nhân văn thị Phật danh, sanh cung kính tâm, thị nhân bất cửu đắc A La Hán quả.”

  (Lại về thuở quá khứ có Ðức Phật ra đời hiệu Bảo Tướng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, sanh lòng cung kính, không bao lâu người ấy sẽ đặng quả A La Hán.)

  Phía trước là vị “Bảo Thắng”, còn vị này là “Bảo Tướng”. Ý nghĩa của Bảo Thắng rất rộng, còn Bảo Tướng là hoàn toàn nói từ trên hình tướng. Nhưng nói đến tướng, chúng ta liền phải nghĩ đến tánh. Tại sao vậy? Tướng là do tánh biến hiện. Tánh là năng hiện, năng biến. Tướng là sở hiện, sở biến. Chúng ta nhìn từ chỗ đơn giản dễ hiểu nhất, đức Phật có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Nghe danh hiệu của đức Phật chúng ta liền nhận ra được bảo tướng. Bảo tướng của đức Phật do đâu mà có vậy? Quả báo là do tu nhân mà có. Mọi người ai cũng mong có tướng tốt, đều hy vọng tướng mạo trang nghiêm tốt đẹp, nên biết đây là quả báo. Dung mạo là quả báo, thể chất cũng là quả báo. Thân thể của bạn khỏe mạnh trường thọ là quả báo, dung mạo đẹp hay xấu cũng là quả báo. Tu nhân như thế nào sẽ được quả báo như thế ấy. Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp là thuộc về quả. Là tu nhân gì? Cư sĩ Giang Vị Nông, ở trong “Kinh Kim Cang Giảng Nghĩa” trích dẫn những kinh điển này chúng ta có thể tham khảo. Bạn hãy tìm trong nguyên văn của kinh điển này, chứ tra trong “Đại Tạng Kinh” thì quá phiền phức. “Kinh Kim Cang Giảng Nghĩa” rất phổ biến, trên tay quý vị đều có, bạn hãy thử xem. Ví dụ tướng lưỡi rộng dài của đức Phật là tướng tốt. Do nhân gì tu thành vậy? Đời đời kiếp kiếp không nói dối. Cho nên nếu bạn thật sự tu nhân thiện, thì bạn mới được quả thiện, được bảo tướng thiện. Nếu như không phải tu nhân thiện, thì tướng mạo của bạn sẽ không thể viên mãn được. Người thế gian cũng có một số người có tướng tốt, phước tướng. Bạn quan sát tỉ mỉ, họ là phước tướng chứ không phải bảo tướng. Ở trong bảo tướng có chân, có thiện, có mỹ. Trong phước tướng có mỹ, nó không có chân, không có thiện, cho nên khi tiếp xúc với những người này, người hiện nay chúng ta gọi là từ trường, khi bạn tiếp xúc với họ, từ trường đó bạn sẽ không cảm thấy thật thoải mái, sẽ không cảm thấy thật hoan hỷ. Đây chính là họ chỉ có mỹ, chứ không có chân, không có thiện. Nếu như chúng ta tiếp xúc một người tu hành, họ không có địa vị, họ cũng không có của cải, giàu có, họ là một người rất bình thường, rất phổ thông, tướng họ cũng không đẹp, nhưng họ có chân tâm, họ lương thiện. Khi chúng ta tiếp xúc với họ, từ trường đó sẽ khác, cảm thấy rất thoải mái. Tướng đó là bảo tướng. Quý vị cảm nhận thật kỹ, bạn sẽ dần dần sáng tỏ ngay. Chúng ta đọc đến danh hiệu “Bảo Tướng Như Lai” này, lập tức liền biết tu nhân chứng quả, chính là biểu thị cho gieo nhân thiện được quả thiện, biểu thị cho ý nghĩa này. Bạn nghe thấy danh hiệu này, là bạn có thể đoạn ác tu thiện. Ác chính là tập khí phiền não, bạn có thể đoạn kiến tư phiền não, có thể đoạn thập ác, có thể tu thập thiện, đây là cơ sở để bạn tu hành chứng quả. Phần cuối kinh văn nói: “Nhược hữu nam tử nữ nhân, văn thị Phật danh sanh cung kính tâm, thị nhân bất cửu đắc A La Hán quả.” (Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, sanh lòng cung kính, không bao lâu người ấy sẽ đặng quả A La Hán) Ở trong chú giải có một đoạn, chúng ta đọc qua một chút, ở trang một trăm bốn mươi bốn, đếm ngược đến hàng thứ hai, bắt đầu xem câu sau cùng. “Kim ước Tạng Giáo dĩ đối Viên vị” (Nay đem quả vị trong Tạng Giáo so sánh với quả vị trong Viên Giáo) Tạng Giáo là Tiểu Thừa. Viên Giáo là Đại Thừa viên mãn. Đem cấp bậc đoạn chứng của họ làm một cuộc so sánh. “Tắc sơ tín chí thất tín” (là từ quả Sơ Tín đến Thất Tín) Đây là viên giáo, là Bồ Tát sơ tín đến Bồ Tát thất tín của Viên Giáo. “Tam giới kiến tư, nhậm vận đoạn tận, dữ Tạng Giáo đệ tứ quả A La Hán tề.” (“Đã tùy ý đoạn dứt hết Kiến Tư phiền não trong Tam Giới, tương đương với Tứ Quả A La Hán trong Tạng Giáo”) Từ đó cho thấy, chỗ này nói “Đắc A La Hán quả” không phải thật sự là A La Hán Tiểu Thừa. Mà là gì? Là Bồ Tát từ quả vị sơ tín đến thất tín của Đại Thừa. Ý nghĩa này là ở chỗ này. Bởi vì “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” là kinh Đại Thừa, không phải kinh Tiểu thừa, sao có thể chứng quả vị Tiểu Thừa được? Là dùng quả vị Tiểu Thừa, để ví dụ cho thứ lớp đoạn phiền não của họ. Kiến tư phiền não đoạn rồi, vậy mới có thể được Bảo Tướng trang nghiêm. Cho nên chúng ta nhìn người, người có tâm thanh tịnh, thì họ sẽ có tướng thanh tịnh. Người rất từ bi, họ sẽ có tướng từ bi. Người này rất hung ác, họ sẽ có tướng rất hung ác, bạn quan sát thật kỹ, cái gọi là “Chân thành ở trong sẽ hiện ra ngoài” Tướng mạo chính là biểu hiện của tâm lý, và tâm trạng của bạn. Từ tướng trạng của bạn, có thể biết tâm của con người bạn, tâm lý của bạn, tư tưởng của bạn, biết tâm trạng của bạn. Cho nên đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức là tu nhân chứng quả rồi. Kinh văn dưới đây, đây là vị thứ chín.

  “Hựu ư quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, hữu Phật xuất thế, hiệu Ca Sa Tràng Như Lai. Nhược hữu nam tử nữ nhân, văn thị Phật danh giả, siêu nhất bách đại kiếp sanh tử chi tội.”

  (Lại vô lượng vô số kiếp về thuở quá khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Ca Sa Tràng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật trên đây, thời người ấy sẽ siêu thoát tội sanh tử trong một trăm đại kiếp.)

  Đây là “Ca Sa Tràng Như Lai”. Sao gọi là “Ca Sa”? Trong chú giải nói:

  “Thử ước trang nghiêm tiêu tướng, dĩ chương Phật đức hồng danh.”

   (Ở đây nêu bày cái tướng trang nghiêm để phô bày hồng danh tánh đức của đức Phật.)

  Sau đó trích dẫn:

 “Tâm địa Quán Kinh vân: Ca Sa tức thị Như Lai bảo tràng chi tướng”

 (Tâm Địa Quán Kinh nói rằng: Ca Sa tức là cái tướng bảo tràng của Như Lai)

  Trước tiên phải hiểu được ý nghĩa của Ca Sa. Ca Sa là tiếng Phạn. Ý nghĩa của nó là xen tạp. Màu sắc xen tạp gọi là màu Ca Sa, nó không phải là một màu đơn thuần, là màu hỗn tạp. Hễ là hỗn tạp đều gọi là Ca Sa. Cho nên trì bát, bát cơm trì bát này gọi là Ca Sa Phạn. Tại sao vậy? Rất nhiều người cúng dường, cơm và thức ăn trộn chung lại với nhau. Cái y này của chúng tôi, tại sao gọi y là Ca Sa? Là do các loại màu sắc trộn chung lại với nhau để nhuộm, cho nên nó không phải là màu chính. Màu chính là có năm màu; đỏ, vàng, xanh, trắng, đen là màu chính. Màu đen cũng là màu chính. Đệ tử Phật không mặc y màu chính. Y này gọi là y nhiễm sắc, do năm màu sắc trộn chung lại với nhau nhuộm thành màu này, đây gọi là Ca Sa. Ca Sa là nói từ trên màu sắc. Thời trước đây cũng là nói ở trên chất liệu làm y của đức Phật, nó cũng là hỗn tạp. Bởi vì thời xưa, trì bát, bát cơm này dễ dàng, mọi người cúng dường dễ dàng. Thời xưa tài nguyên thiếu thốn, vải đều là dệt bằng thủ công, cho nên có được một chiếc y là không dễ dàng. Y có được từ đâu vậy? Y có được từ những bộ y phục cũ rách của người tại gia mặc, họ không cần nữa, vứt bỏ rồi, người xuất gia lượm nó về. Nhưng quý vị phải biết, y của người Ấn Độ là nguyên một tấm vải quấn ở trên người, họ mặc cũ rồi, mặc rách thì vứt bỏ, người xuất gia lượm nó về, trong đó còn có chỗ có thể dùng được, những chỗ nào bị rách thì cắt bỏ đi, cắt nhiều tấm y như vậy, đem nó chắp vá lại may thành một chiếc y, cho nên cái này cũng gọi là Ca Sa. Sau khi may thành, đương nhiên chất liệu của vải khác nhau và màu sắc cũng khác nhau, cho nên sau khi may vá lại rồi mới đem nhuộm màu, vậy gọi là Ca Sa. Từ đó cho thấy, ý nghĩa đích thực của Ca Sa là tùy duyên chứ không chấp tướng. Ăn, mặc, chỗ ở, đi lại đều tùy duyên, tuyệt đối không có kén chọn. Đức Phật ở thế gian, ăn mặc, chỗ ở, đi lại trong đời sống đều vô tâm. Vô tâm tức là không có tâm phân biệt, không có tâm chấp trước, tùy mọi người cúng dường cái gì cũng được, luôn luôn dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng để đối xử, vậy là đúng rồi. “Tràng” nghĩa là cao nổi bật, đây là tượng trưng. Thái độ trong sinh hoạt của nhà Phật, nói rõ ràng như vậy với tất cả chúng sanh thế gian, đây chính là tự hành hóa tha, dạy mọi người ở trong đời sống, đừng nên chấp trước quá mức, đừng nên ham muốn hưởng thụ quá mức. Bạn mọi thứ đều có thể tùy duyên thì tâm của bạn thanh tịnh biết bao, tự tại biết bao, ở trong đây thật sự hạnh phúc. Nếu mọi thứ đều đòi hỏi quá mức, thì khổ sẽ đến với bạn ngay. Đời sống của bạn là khổ sở. Phú qúi đi nữa cũng là sống đời sống khổ. Cho nên người biết đủ, họ không đòi hỏi gì cả, tất cả đều tùy duyên, nghèo cùng đi nữa họ cũng vui, họ sống đời sống hạnh phúc. Từ đó cho thấy, khổ hay vui cũng ở trong khoảng một niệm. Mọi thứ tùy duyên, thì đâu có chuyện không tự tại? Đâu có chuyện không hạnh phúc? Cho nên dụng ý của chiếc Ca Sa này rất sâu. Nhưng hiện nay, mặc dù đắp Ca Sa đi đầy đường, nhưng người ta không biết, không hiểu ý nghĩa này. Người thời xưa hiểu, vừa nhìn thấy Ca Sa họ giác ngộ, họ có thể điều phục, hàng phục hết thảy tâm tham nhiễm thế gian xuống. Người hiện nay không biết, không hiểu. Đây là do Phật pháp hoằng dương quá ít, người thế gian sinh ra hiểu lầm rất lớn về Phật pháp. Sự việc này, cũng tức là đệ tử Phật thời đại này của chúng ta cần phải nên nỗ lực hết lòng hết sức tuyên dương Phật pháp, khiến cho đại chúng xã hội đối với nền giáo dục của đức Phật, giáo hóa của đức Phật có cách hiểu chính xác, khẳng định trở lại, đây là công việc bổn phận của chúng ta. Chúng ta làm tốt nó thì đời này chúng ta sống có ý nghĩa, có giá trị rồi. Cho nên công đức này nói là: “Văn thị Phật danh, siêu nhất bách kiếp sanh tử chi tội.” (Nghe đến danh hiệu của Ðức Phật trên đây, thời người ấy sẽ siêu thoát tội sanh tử trong một trăm đại kiếp.) Ở trong đây hàm chứa ý nghĩa tự hành hóa tha, vô lượng công đức. Vị cuối cùng này:

  “Hựu ư quá khứ hữu Phật xuất thế, hiệu Đại Thông Sơn Vương Như Lai. Nhược hữu nam tử nữ nhân, văn thị Phật danh, thị nhân đắc ngộ Hằng hà sa Phật, quảng vi thuyết pháp tất thành Bồ Đề.”

  (Lại về thuở quá khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Ðại Thông Sơn Vương Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, thời người này đặng gặp hằng hà chư Phật nói nhiều pháp mầu cho, đều đặng thành đạo Bồ Ðề.)

   “Sơn Vương” chính là chỉ núi Tu Di. Ở trong một thế giới, một khu vực, núi Tu Di được gọi là núi Diệu Cao. Tu Di là tiếng Phạn, ngọn núi cao nhất ở khu vực này bèn gọi là núi Tu Di, là núi Tu Di của khu vực này. Ở thế giới này, ngọn núi cao nhất của thế giới này chính là núi Tu Di của thế giới này. Cho nên Tu Di hoàn toàn không có nói là chỉ cho một ngọn núi cố định nào, không phải vậy, mà xem phạm vi của nó. Nếu như nói thế giới Sa Bà, thì núi Tu Di của thế giới Sa Bà là cao rồi, là ngọn núi cao nhất trong thế giới Sa Bà này. Thông thường thì địa cầu của chúng ta gọi là châu Diêm Phù Đề, Diêm Phù Đề. Ngọn núi cao nhất trên địa cầu này của chúng ta, đó là núi Tu Di của châu Diêm Phù Đề. Đây là nói Sơn Vương. Sơn Vương là chỉ ngọn núi cao nhất. “Đại Thông” đều là hình dung cho Sơn Vương. Vị Sơn Vương này cao lớn. Thông cũng là ví dụ, nếu như từ trên ý nghĩa tượng trưng của đại và thông mà nói, trong chú giải trang một trăm bốn mươi sáu, bắt đầu xem hàng thứ ba trong chú giải. “Đại thông là nhân của Bát Nhã, Sơn Vương là quả của Báo Thân, bốn trí cứu cánh trang nghiêm” Đây là nói từ trên sự tượng trưng. Núi Tu Di, đức Phật nói ở trong kinh do bốn loại báu hợp thành, dùng bốn loại báu để dụ cho bốn trí. Bốn trí gồm: “Đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quan sát trí, thành sở tác trí.” Do bốn trí hợp thành đó chính là Bát Nhã. Ý nghĩa này biểu hiện ra rất rõ ràng, chuyển tám thức thành bốn trí. Bốn trí là núi Tu Di. Bốn trí đây là đại, đây là thông, đây là vô chướng ngại. Thành tựu là Bốn trí Bồ Đề. Bốn trí Bồ Đề chính là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Sơn vương đây là quả báo, dụ cho báo thân của Phật. Chúng ta biết ba thân của Phật tức là một thân, một thân tức là ba thân. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói với chúng ta pháp thân, báo thân, ứng hóa thân là một, một mà ba, ba mà một. Ý nghĩa này rất sâu rất rộng. Từ đó cho thấy đức hiệu của vị Phật này là nói đến tu nhân chứng quả. Tu nhân bốn trí, thì nhất định sẽ chứng quả báo thân. Bởi vì báo thân Phật là do trí tuệ thành tựu. Pháp thân là tự tánh vốn đầy đủ, báo thân là do trí tuệ tu thành. “Nhược hữu nam tử nữ nhân, văn thị Phật danh, ngộ Hằng hà sa số chư Phật, quảng vi thuyết pháp.” (Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, gặp hằng hà chư Phật nói nhiều pháp mầu cho.) là tương ưng với ý nghĩa này. Được rồi, hôm nay thời gian đã hết rồi. Chúng ta chỉ giảng đến chỗ này.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *