Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 67

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 67

Xin mời mở bản kinh ra, phần khoa chú quyển trung, trang 146. Mời xem kinh văn:

  “Hựu ư quá khứ hữu Tịnh Nguyệt Phật, Sơn Vương Phật, Trí Thắng Phật, Tịnh Danh Vương Phật, Trí Thành Tựu Phật, Vô Thượng Phật, Diệu Thanh Phật, Mãn Nguyệt Phật, Nguyệt Diện Phật, hữu như thị đẳng bất khả thuyết Phật.”

  (Lại về thuở quá khứ, có đức Tịnh Nguyệt Phật, đức Sơn Vương Phật, đức Trí Thắng Phật, đức Tịnh Danh Vương Phật, đức Trí Thành Tựu Phật, đức Vô Thượng Phật, đức Diệu Thinh Phật, đức Mãn Nguyệt Phật, đức Nguyệt Diện Phật, có bất khả thuyết Ðức Phật Thế-Tôn như thế.)

  Ở chỗ này Bồ Tát Địa Tạng sau khi đã giới thiệu cho chúng ta mười vị Phật xong, lại nói ra tiếp chín vị. Sau cùng nói với chúng ta, số lượng những vị Phật giống như Ngài kể đây là vô lượng vô biên, không thể nói hết. Đây là dạy chúng ta, phải xưng niệm danh hiệu chư Phật, vì công đức danh hiệu là không thể nghĩ bàn. Thông thường chúng ta hay khen ngợi Phật A Di Đà hơn, công đức danh hiệu Di Đà không thể nghĩ bàn. Thực ra đức hiệu của mỗi vị Phật đều là không thể nghĩ bàn, không có khác gì so với Phật A Di Đà, vậy mới thật sự làm nổi bậc câu mà trong Phật pháp thường nói: “Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Cho nên xưng niệm bất kỳ danh hiệu vị Phật nào, cũng đều có thành tựu giống nhau. Trong rất nhiều danh hiệu như vậy, Thế Tôn đặc biệt giới thiệu cho chúng ta Phật A Di Đà. Nguyên nhân ở chỗ nào? Nhà Phật thường nói: “Phật không độ người không có duyên”. Tuy trên lý là bình đẳng, nhưng trên sự có khác biệt. Khác biệt đều do duyên phận. Đúng như lời đại sư Thiện Đạo nói: “Tóm lại là do gặp duyên khác nhau” cho nên chúng ta thành tựu sẽ khác nhau. Mà Phật A Di Đà lại có duyên đặc biệt với chúng ta, trong các Bồ Tát thì có Bồ Tát Quan Thế Âm, trong các vị Phật thì Phật A Di Đà là có duyên vô cùng sâu đậm với với thế giới Sa Bà chúng ta. Có duyên, hơn nữa duyên rất sâu nên cảm ứng sẽ rất nhanh, vô cùng nhanh chóng và sâu đậm. Đây là Thế Tôn đặc biệt giới thiệu cho chúng ta biết nguyên nhân. Chín danh hiệu Phật này, pháp sư Thanh Liên ở chỗ này có chú giải, quý vị đều có thể tham khảo. Nói sơ lược “Tịnh Nguyệt Phật”. “Tịnh” là thanh tịnh, “Nguyệt” là ánh trăng. Ánh trăng thanh tịnh ban đêm không có người nào mà không thích. Đặc biệt là chúng ta hiện nay cũng gần đến Trung Thu, ánh trăng đêm Trung Thu hiện ra đặc biệt thanh tịnh. Đúng như câu nói: trăng thu trong lành, đó là dụ cho ánh sáng của pháp thân Phật chiếu khắp. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói với chúng ta, danh hiệu của pháp thân Phật gọi là Tỳ Lô Giá Na, đây là tiếng Phạn. Ý nghĩa của Tỳ Lô Giá Na là: “Khắp mọi nơi”, pháp thân thật sự là khắp mọi nơi. Từ đó cho thấy, tận hư không, khắp pháp giới chính là một pháp thân. Đây là trong kinh luận thường nói: “Phật mười phương ba đời, cùng chung một pháp thân”. Nếu như bạn có thể hiểu được, cùng chung một pháp thân, sau đó mới biết tận hư không, khắp pháp giới thật sự là chính mình, là một chỉnh thể. Cảnh giới này trong pháp Đại Thừa gọi là đại giác viên mãn, họ thật sự sáng tỏ, nhận ra được hư không pháp giới là mình, trời đất vạn vật cũng là mình, là tướng phần của mình. Pháp thân, pháp giới là bản thể của mình. Ánh sáng chiếu khắp chính là trí tuệ chiếu khắp, thức tâm rộng khắp, tác dụng rộng khắp. Sau khi vào cảnh giới này rồi, ở trong hư không pháp giới, trong pháp giới có quá khứ, có vị lai, không có chỗ nào mà không hiện thân, tùy loại hiện thân, đạo lý là ở chỗ này. Ở đây Ngài chú giải cũng rất hay, chú là “tùng chân thùy ứng”. Chân là pháp thân, ứng chính là báo thân và ứng hóa thân. Chân thân không có hình tướng, nó không phải vật chất. Ứng hóa thân có hình tướng. Báo thân cũng được xem là ứng thân. Chúng ta đem phạm vi của nó nói rộng một chút, từ thể khởi dụng. Báo thân tự thọ dụng, cũng cùng thọ dụng chung với Địa Thượng Bồ Tát. Ứng hóa thân là vì chúng sanh ở Phàm Thánh Đồng Cư Độ, Phương Tiện Hữu Dư Độ, là vì tha thọ dụng. Cho nên ứng hóa thân hoàn toàn là tha thọ dụng, không phải tự thọ dụng. Tự thọ dụng là báo thân. Nhưng pháp thân, báo thân, ứng hóa thân là một mà ba, ba mà một. Câu sau cùng Ngài nói rất hay: “Thử minh tam thân nhất thể” (Đó là nói rõ ba thân một thể) Tịnh Nguyệt là dụ cho ba thân một thể.

  Vị thứ hai “Sơn Vương Phật”. “Sơn Vương” là hình dung. Hình dung báo thân của Phật giống như núi lớn vậy. Vương là lớn nhất, là núi lớn nhất ở trong núi. Chúng ta thường gọi nó là núi chúa Tu Di. Thông thường là nói báo thân của Phật. Trong kệ tán Phật chúng ta tán thán Phật A Di Đà: “A Di Đà Phật thân kim sắc, tướng hảo quang minh vô đẳng luân, bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di.” Bạn thử nghĩ cái thân này bao lớn? Bạch hào là hai sợi lông ở trong lông mày quấn vào nhau. Bao lớn vậy? Lớn như năm ngọn núi Tu Di. Bạn nói thân tướng này của Ngài bao lớn? Bạch hào là hai sợi lông trong lông mày quấn lại với nhau. Nó bao lớn? Lớn bằng năm ngọn núi Tu Di. Bạn nói thân tướng này của Ngài bao lớn? Địa cầu này của chúng ta không thể dung chứa nổi. Cho nên địa cầu nếu ở trong pháp tướng trang nghiêm của Phật, e rằng chỉ là một sợi lông mà thôi. Phật có thể hiện thân tướng lớn như vậy, nên xưng là Sơn Vương Phật. Đây là sự khen ngợi đối với Phật, cũng là chứng tỏ năng lực thần thông của đức Phật thù thắng, có thể hiện thân lớn như vậy.

  Vị thứ ba là: “Trí Thắng Phật”. “Trí” là nhất thiết chủng trí. Trong Phật pháp nói với chúng ta trí có ba loại: “Nhất thiết trí, trong chú giải của Ngài nói, đây là trích dẫn “Đại Phẩm Bát Nhã”, “Tát Bà Nhã” chính là nhất thiết trí. Nhất thiết trí là trí tuệ của người Nhị Thừa, trí tuệ mà Thanh Văn, Duyên Giác chứng được. Nhất thiết trí là gì? Biết không, vạn pháp đều là không. Người Tiểu Thừa biết được đạo lý này, họ sáng tỏ, thế là họ bèn trụ vào Thiên Chân Niết Bàn, họ trụ vào không. Đây là cái lý của tất cả pháp, nó không phải sự, nó là lý, lý là không. Quí vị nhất định phải biết rõ cái không này không phải là tánh không. Họ là biết rõ cái lý của muôn sự muôn pháp là không, tất cả pháp là do nhân duyên sinh, hoàn toàn không thể được. Cho nên tâm địa của Người Nhị Thừa rất thanh tịnh, chính là họ biết chân tướng của tất cả pháp, chân tướng trên mặt lý. “Đạo chủng trí” là trí Bồ Tát. Đạo là nói lý luận. Chủng là đủ loại, là nói mặt sự tướng. Có thể thấy Bồ Tát tiến bộ hơn Nhị Thừa quá nhiều. Lý sự của người Nhị Thừa không được viên dung. Cũng như lời trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói, họ lý sự có ngăn ngại. Lý sự có ngăn ngại thì đương nhiên sự sự sẽ càng ngăn ngại hơn, họ ở trong cảnh giới này. Cho nên người Nhị Thừa chứng được là lý vô ngại. Nhưng mà hợp chung lý với sự lại thì có chướng ngại rồi. Trí tuệ của Bồ Tát thì cao hơn, có thể viên dung lý sự, làm được lý sự vô ngại. Ở trong pháp giới tứ vô ngại, họ đạt được ba cái; lý vô ngại, sự vô ngại, lý sự vô ngại, đây là đạo chủng trí. Chủng là đủ loại. “Nhất thiết chủng trí” đây là chứng được toàn bộ viên mãn sự vô ngại. Không những là lý sự vô ngại, mà sự sự đều vô ngại, cho nên đây gọi là nhất thiết chủng trí. Nhất thiết chính là nhất thiết trí nói ở phía trước. Chủng trí chính là đạo chủng trí mà Bồ Tát chứng được. Nhất thiết trí với đạo chủng trí không hai, có thể dung hợp với nhau bèn gọi là nhất thiết chủng trí. Nhất thiết chủng trí là cảnh giới mà trên quả địa Như Lai chứng được. Trí này rất thù thắng, hơn hẳn Nhị Thừa, hơn hẳn Bồ Tát cho nên gọi là trí thắng Phật.

  Vị thứ tư là “Tịnh Danh Vương Phật”. “Tịnh” là thanh tịnh. “Vương” là dụ cho tự tại. Thời xưa chỉ có vua, họ mới có thể phát ra hiệu lệnh, hết thảy nhân dân đều phải nghe lời họ. Người nghe theo người khác là người không được tự do. Người phát ra hiệu lệnh là được tự do, cho nên gọi họ là vương. Chữ “Vương” trong kinh Phật có nghĩa là tự do tự tại, nghĩa là mình có thể làm chủ được. Tịnh Danh là thanh tịnh, phiền não đoạn rồi, thanh tịnh, liễu thoát sinh tử, người này được thanh tịnh rồi, thoát khỏi lục đạo luân hồi, thoát khỏi thập pháp giới. Trong kinh nói: “Ngũ trụ nhị tử tịnh tận”. Thanh tịnh viên mãn. Ngũ trụ là nói phiền não. Nhị tử là hai loại sinh tử. Hai loại này là trong kinh nói, phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử. Phần đoạn sinh tử là nói từ trên tướng nói. Nếu như chúng ta nói hơi thô, đơn giản một chút, mọi người đều có thể hiểu được. Thân thể này của chúng ta, được cái thân thể này, từ khi ra đời đến khi chết đi, đây là một giai đoạn, giai đoạn này gọi là phần đoạn sinh tử. Nói như vậy mọi người rất dễ dàng hiểu được. Thực ra phần đoạn sinh tử đâu phải nói là một đời người? Nếu như quý vị suy nghĩ thật kỹ, chúng ta hiện nay một năm là một giai đoạn, qua một năm này rồi, thì năm này coi như chết rồi, năm tới coi như sinh. Quan sát tinh tế hơn nữa, mỗi tháng đều có sinh tử, mỗi ngày đều có sinh tử, loại hiện tượng này, đều là thuộc về hiện tượng phần đoạn sinh tử. Phần đoạn sinh tử nói đến cực điểm là sát-na sinh diệt. Sát-na sinh diệt là phần đoạn sinh tử, đều là nói từ trên tướng. Biến dịch sinh tử không phải nói từ trên tướng. Nói thực ra biến dịch không có sinh tử. Tại sao gọi biến dịch là sinh tử vậy? Biến dịch có khổ. Ý nghĩa của sinh tử là khổ. Chúng ta lấy pháp thân đại sĩ trong “Kinh Hoa Nghiêm” để nói, các ngài không còn phần đoạn sinh tử. Giống như thế giới Tây Phương Cực Lạc, người vãng sanh về nơi đó, người nào cũng là vô lượng thọ, người nào cũng được thân kim cang bất hoại, nhưng họ vẫn còn biến dịch sinh tử. Từ đâu nhìn thấy biến dịch sinh tử? Tứ độ, tam bối, cửu phẩm, đó chính là biến dịch. Bạn từ hạ phẩm chuyển biến thành trung phẩm, từ trung phẩm chuyển biến thành thượng phẩm, đây gọi là biến dịch, cảnh giới của bạn không ngừng nâng cao lên. Thế giới Hoa Tạng trong “Kinh Hoa Nghiêm”, những vị pháp thân đại sĩ này không còn phần đoạn sinh tử nữa rồi. Nhưng trong kinh nói với chúng ta, họ có bốn mươi mốt cấp bậc, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác, mỗi khi nâng lên một cấp bậc, chính là một lần biến dịch. Sự biến dịch này, họ cần phải tự mình dụng công tu, cái tu đó gọi là sinh tử, tu rất khổ, họ phải tu hành, họ phải dụng công, mới có thể nâng cao cảnh giới của mình lên được, cho nên biến dịch thật sự không phải sinh tử. Bởi vì họ muốn nâng cao cảnh giới của mình, họ phải chăm chỉ nỗ lực tu học. Tu học là một việc vất vả, nên chúng ta ví dụ nó giống như là sinh tử. Cho nên hai loại sinh tử đều hết rồi, đều dứt rồi, đó là địa vị gì vậy? Quả địa Như Lai, là Phật quả viên giáo. Làm sao biết? Bồ Tát đẳng giác, vẫn còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa đoạn dứt, cho nên vẫn còn một lần biến dịch sinh tử. Bồ Tát đẳng giác vẫn còn một lần, đến quả địa Như Lai đó mới là hoàn toàn không còn nữa. Cho nên khi chúng ta thấy danh hiệu Tịnh Danh Vương Phật này, đó là Phật quả cứu cánh viên mãn của viên giáo thì mới xứng với danh hiệu này.

  Vị thứ năm là “Trí Thành Tựu Phật”. Ý nghĩa của danh hiệu này, là lợi ích chúng sanh. Như danh hiệu “Tịnh Danh Vương Phật” này là hoàn toàn lập nên từ tự lợi, từ đoạn phiền não, từ trên đoạn chứng. Còn “Trí Thành Tựu” đây là dựa trên độ hóa chúng sanh mà nói. Trí là trí tuệ, hai trí quyền và thật. Lời trong “Kinh Bát Nhã” nói: “Bát Nhã vô tri”. Vô tri là căn bản trí. Tại sao nói nó vô tri? Nó không khởi tác dụng, không có khởi tác dụng. Không có khởi tác dụng, tại sao lại gọi nó là căn bản trí? Vô tri chính là căn bản trí. Vô tri không phải nói là không có trí tuệ. Nếu như xem thấy trong kinh nói “Bát Nhã vô tri”, đó là hoàn toàn không có trí tuệ, thế là bạn sai rồi. Vô tri là thật sự có trí tuệ, trí tuệ không có khởi tác dụng, là ý nghĩa này. Họ đối với tánh tướng, lý sự, nhân quả của muôn sự muôn pháp không có gì không biết rõ, không có gì không sáng tỏ. Nhưng cảnh giới của bản thân họ là như như bất động. Chúng ta gọi là không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, ở trong trạng thái này gọi là vô tri. Khi nó khởi tác dụng, khởi tác dụng, khởi tác dụng gì vậy? Giáo hóa chúng sanh, trả lời nghi ngờ của chúng sanh, lúc này mới hiển bày ra là “Vô sở bất tri”. Cho nên vô sở bất tri gọi là quyền trí, trong Phật pháp thường nói là phương tiện thiện xảo. Phương tiện thiện xảo là thuộc về sự ứng dụng của trí tuệ. Khi ứng dụng là không có gì không biết. Không có gì là không biết, có thể thấy chính là sự biểu hiện của vô tri. Hai câu nói này trong kinh Bát Nhã chúng ta phải hiểu rõ, nhất định không được hiểu lầm. Cho nên vô tri là tự thọ dụng, vô sở bất tri là tha thọ dụng. Chư Phật Bồ Tát ở trong thập pháp giới, trong lục đạo độ hóa tất cả chúng sanh, bất kể là hiện thân tướng như thế nào, điểm này chúng ta phải nhớ kỹ, Phật không có thân tướng, pháp thân không có thân tướng. Thân tướng là tùy loại mà hiện, không những thân ứng hóa là tùy loại hiện, mà báo thân cũng là tùy loại mà hiện. Chúng ta nhìn thấy ở trong “Kinh Hoa Nghiêm” là báo thân Phật, Phật Lô Xá Na, nhìn thấy ở thế giới Cực Lạc là Phật A Di Đà, báo thân cũng là tùy loại mà hiện. Phật Lô Xá Na là ở thế giới Hoa Tạng để độ bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ, Phật A Di Đà là ở thế giới Tây Phương Cực Lạc độ những vị Bồ Tát cõi Thực Báo Trang Nghiêm. Chúng ta từ chỗ này có thể nhận ra được, báo thân vẫn là tùy loại mà hiện. Chữ loại đó là chỉ pháp thân đại sĩ. Đức Phật nói cho chúng ta biết thế giới vô lượng vô biên, chư Phật Như Lai vô lượng vô biên. Nhìn từ trên danh hiệu Phật, chúng ta thấy có nhiều Phật như vậy. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyên giới thiệu cho chúng ta biết danh hiệu chư Phật mười phương. Có lẽ quý vị đã đọc qua “Kinh Vạn Phật Danh”. Thế Tôn chỉ nói sơ lược, tùy tiện qua với chúng ta là đã nói đến hơn mười hai nghìn danh hiệu Phật rồi. Ở trong hư không pháp giới, danh hiệu Phật nói không hết, mỗi ngày Phật Thích Ca Mâu Ni nói với chúng ta, nói một kiếp cũng nói không hết. Vậy là chứng tỏ báo thân Phật cũng không chỉ có một, tùy theo tình trạng khác biệt của mỗi thế giới, vì pháp thân đại sĩ mà hiện. Nếu như hiện vì những phàm phu cõi Phương Tiện, cõi Đồng Cư này, thì chính là ứng hóa thân. Đây là Trí Thành Tựu Như Lai.

  “Vô Thượng Phật”, “Vô Thượng” là tôn xưng đến cực điểm. Mấy câu nói trong chú giải chú rất hay: “Hữu sở đoạn giả danh hữu thượng sĩ, ký vô sở đoạn danh vô thượng hĩ” (Người có cái để đoạn gọi là Hữu Thượng Sĩ, không có gì để đoạn gọi là Vô Thượng vậy.) Cách giải thích này là rất viên mãn. Bồ Tát đẳng giác vẫn còn đoạn, vẫn còn một phẩm sanh tướng vô minh để đoạn, đó gọi là Thượng Sĩ, không thể gọi là Vô Thượng được, họ vẫn còn cái để đoạn. Đến quả địa Như Lai thì không còn gì để đoạn nữa, cái cần đoạn thảy đều đoạn sạch sẽ rồi, không còn gì để đoạn, nên xưng là Vô Thượng. Cho nên Vô Thượng, cũng là cách tôn xưng đối với quả vị Phật cứu cánh.

  “Diệu Thanh Phật”, là khen ngợi âm thanh của Phật viên mãn, vi diệu.

  “Phật dĩ nhất âm nhi thuyết pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải.” (Đức Phật dùng một âm thanh để thuyết pháp, chúng sanh tùy loại hiểu theo cách của mình.) Là vi diệu. Âm thanh Phật thuyết pháp nghe vui tai, đó là mỹ diệu. Loại mỹ diệu, vi diệu này, từ đâu mà có được vậy? Từ trong tâm tánh tự nhiên bộc lộ ra, điểm này chúng ta nhất định phải biết, nhất định phải nhớ kỹ, phải học tập. Tâm địa bạn chân thành, thì lời nói của bạn sẽ chân thành. Tâm địa bạn thanh tịnh thì tướng mạo, âm thanh của bạn sẽ thanh tịnh. Từ đó cho thấy, người xưa thường nói: “Bên trong chân thành sẽ thể hiện ra ngoài” câu nói này là thật chứ không phải giả. Tâm của bạn vi diệu, thì tướng mạo, âm thanh của bạn cũng sẽ vi diệu. Tâm của bạn là chân, thiện, mỹ, thì tướng mạo, âm thanh của bạn cũng biểu hiện ra chân, thiện, mỹ. Âm thanh, tướng mạo là bên ngoài, là tự tánh của bạn biểu lộ ra. Nếu bạn muốn tướng tốt thì tâm của bạn phải tốt. Tâm không tốt mà muốn có tướng tốt là không có đạo lý này. Chỉnh sửa trang điểm như thế nào cũng uổng công. Đức Phật ở trong kinh thường hay nói: “Tướng chuyển theo tâm”. Không những thân thể, tướng mạo của chúng ta là chuyển theo tâm, mà núi sông đại địa nơi chúng ta nương tựa để sống cũng chuyển theo tâm. Cho nên tâm tốt không những tướng mạo của bạn sẽ tốt, tướng mạo tốt là có phước, người này có phước tướng, nơi này cũng có phước, “Đất phước người phước ở, người phước ở đất phước.” Đất cũng có phước. Đất làm sao có phước được? Đất cũng chuyển theo tâm. Nếu như tâm tà ác, thì tướng của bạn cũng tà ác, đất đai núi sông nơi bạn ở cũng là tà ác. Đạo lý này đáng để chúng ta soi lại một cách sâu sắc. Có rất nhiều người nói địa cầu hiện nay bị bệnh rồi, môi trường sinh thái trên địa cầu đã xảy ra sự thay đổi rất lớn. Sao nó bị bệnh? Tại sao lại thất thường vậy? Bạn hãy suy nghĩ những đạo lý mà đức Phật nói này, do tánh người thất thường, đặc biệt là những năm gần đây. Chúng ta thường hay đến các nơi trên thế giới để du lịch, chúng ta tiếp xúc được tất cả người, sự, vật, phát hiện thấy tâm người nôn nao, bất an, một mảy may kích thích cũng không thể chịu được, hơi có một chút xíu bất như ý, thì sân hận liền nổi lên ngay, đây là thất thường. Cho nên âm thanh, tướng mạo, thể chất của họ mới nhiều bệnh, không bình thường, sau đó ảnh hưởng đến môi trường cư trú của họ, khiến cho môi trường cũng không bình thường. Đạo lý ở trong đây ở phần trước chúng tôi đã từng báo cáo tỉ mỉ với quý vị rồi. Dùng cách nói của nhà khoa học, nguyên lý của nó chính là sóng. Tà tri, tà kiến, tà hạnh, đây là một dạng sóng rất không tốt. Dạng sóng này sẽ ảnh hưởng đến thế giới vật chất, ảnh hưởng đến sự thay đổi của địa cầu, thậm chí là ảnh hưởng đến sự vận hành của địa cầu ở trong không gian, ảnh hưởng đến quỹ đạo của nó, ảnh hưởng đến tốc độ của nó, cho nên trên địa cầu sẽ sinh ra sự thay đổi rất lớn. Mối quan hệ liên đới này, nhà khoa học vẫn chưa thể phát hiện được. Nhưng ở trong kinh đức Phật đã nói rất rõ ràng, rất minh bạch, tướng chuyển theo tâm, cảnh chuyển theo tâm. Ngày nay có rất nhiều người phát hiện tình trạng bệnh nghiêm trọng, cho nên ra sức kêu gọi phải tăng cường ý thức bảo vệ môi trường. Có thu được hiệu quả hay không? Chúng ta ở bên cạnh quan sát khách quan, thấy không thể thu được hiệu quả. Nguyên nhân do đâu vậy? Họ trị ngọn chứ không phải trị gốc. Họ không biết nguyên nhân gốc rễ của sự thay đổi môi trường tự nhiên là do tâm người, họ không biết. Muốn thật sự làm tốt công việc bảo vệ môi trường, thì trước tiên phải bảo vệ tâm thanh tịnh của mình, bảo vệ tâm chân thành của mình, bảo vệ tâm từ bi của mình, vậy mới được cứu vớt, đây là trị gốc. Trị cả gốc lẫn ngọn sẽ thu được hiệu quả rất lớn, cũng rất nhanh chóng, nhưng rất đáng tiếc nhà khoa học hiện nay, họ không biết nguyên nhân căn bản này. Đây chính là do người cận đại say mê về khoa học kỹ thuật, say mê về của cải, kinh tế, mới sinh ra cái nhìn lệch lạc nghiêm trọng, gây nên hiện tượng thất thường của toàn bộ hệ sinh thái hiện nay. Nhưng đức Phật nói rất hay, trong cộng nghiệp vẫn có biệt nghiệp, cho nên chúng ta muốn cứu mình thì vẫn có biện pháp. Tuy là cứu mình, cũng cần có tâm nguyện chân thành giúp đỡ người khác, phải làm thật. Còn làm được bao nhiêu thì không cần quan tâm. Tai nạn bức bách ngay trước mắt, chúng ta cũng nên noi theo những hành giả có tâm từ bi sâu nặng thời xưa, biết rõ nó không thể làm mà vẫn cứ làm, chúng ta vẫn phải làm. Không cần quan tâm đến mình, phải vì tất cả chúng sanh, vì lợi ích của chúng sanh, vì hạnh phúc của chúng sanh, hy sinh cả mạng sống của mình cũng không hề hối tiếc. Chúng ta vừa mới nói qua, hai loại sinh tử đều không phải là thật. Không nên tham sống sợ chết, hết lòng hết sức vì chúng sanh phục vụ, vì chúng sanh tạo phước, thì tự nhiên sẽ cảm được chư Phật Như Lai gia trì, chư Bồ Tát thiện thần ủng hộ. Vấn đề là chúng ta có chịu phát tâm hay không? Nói lời thành thật không phải ở chỗ mình có trí tuệ năng lực hay không, cái đó là thứ yếu. Bạn có thể phát tâm chân thật, dù trí tuệ không đủ, thì Phật Bồ Tát sẽ gia trì, không đủ năng lực thì sẽ có một số hộ pháp thiện thần giúp đỡ bạn. Nếu như mọi người không tin, bạn hãy thử xem Cư Sĩ Lâm ở đây, cư sĩ Lý Mộc Nguyên chẳng phải là điển hình rõ ràng sao? Cư sĩ Lý Mộc Nguyên chính là hạng người mà tôi đang nói đây, không đủ trí tuệ, năng lực, nhưng ông có thể phát tâm chân thành, ông được chư Phật Bồ Tát hộ niệm, được long thiên thiện thần ủng hộ, cho nên mới có thể nghĩ gì được nấy. Nhà Phật thường nói: “Ở trong cửa Phật có cầu ắt ứng”, chúng ta nhìn thấy ở nơi đây rồi. Tâm nguyện này của bạn là thiện, không phải tự tư, là vì Phật pháp thường trụ ở thế gian, là vì chúng sanh rõ dứt sinh tử, ra khỏi tam giới, được độ thành Phật, tâm nguyện này không có khác gì so với chư Phật Như Lai. Cho nên phát ra loại tâm nguyện này, mới có thể cảm động chư Phật Bồ Tát, là cùng tâm cùng nguyện, cùng giải cùng hạnh với chư Phật Bồ Tát, thì tự nhiên sẽ gia trì được thôi. Nghĩa là tâm của bạn, nguyện của bạn, sóng tư tưởng của bạn, tần số của sóng cùng tần số với sóng tư tưởng của chư Phật. Cùng tần số thì các Ngài sẽ tiếp nối được. Đây chính là đạo lý Phật lực gia trì, cho nên mới có thể giúp bạn nghĩ gì được nấy.

  Vị thứ tám phía sau là “Mãn Nguyệt Phật, Nguyệt Diện Phật” Ý nghĩa của Nguyệt Diện và Mãn Nguyệt giống nhau. Trong chú giải của Ngài cũng nói, đại ý của hai vị Phật này giống nhau. “Mãn Nguyệt” âm lịch của chúng ta gọi là trăng rằm. Trong thiên văn nói là ngày Vọng, ngày Sóc Vọng. Trăng ngày vọng là Mãn Nguyệt. Trong kinh Phật chúng ta cũng thường hay xem thấy, trong kệ tụng tán Phật nói: “Phật diện thanh tịnh như mãn nguyệt” (Gương mặt Phật thanh tịnh như trăng rằm.) Có người đến hỏi tôi, pháp sư: Mặt Phật tròn xoe như vậy có gì là đẹp? Người này chưa thể nhận ra được ý nghĩa đích thực trong câu nói này của đức Phật. Cho nên “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” là vô cùng quan trọng. Trăng tròn là dụ cho điều gì? Dụ cho không có khiếm khuyết. Bạn nhìn thấy tướng của Phật đẹp, bạn không thể tìm ra được một mảy may khuyết điểm nào. Đây không phải gương mặt của Phật là tròn xoe, vậy là bạn hoàn toàn nghĩ sai rồi, cách giải thích này là nương theo văn mà giải nghĩa, thì “ba đời chư Phật cũng bị hàm oan”! Phật không phải là ý này. Ý nghĩa của chữ mãn là dụ cho viên mãn không có khiếm khuyết, đây là điều chúng ta nhất định phải hiểu. Y văn giải nghĩa sẽ luôn luôn hiểu sai, hiểu sai rồi thì chẳng muốn học theo Phật nữa. Bởi vì học Phật tương lai thành Phật, trở thành cái hình dạng này thì khó coi quá, nên họ không học Phật nữa. Vì vậy cần phải hiểu ý nghĩa đích thực của Ngài. Đây chính là viên mãn, không có khiếm khuyết. Tại sao Phật có thể viên mãn? Tại sao lại không có khiếm khuyết? Vì Phật đã chứng được tự tánh viên mãn. Cho nên khi biểu hiện ra là đại viên mãn. Vừa mở đầu bản kinh, đã nói với chúng ta đại viên mãn, đây là điểm chúng ta cần phải nhớ kỹ nó. Kinh văn này ở chỗ nào, chúng ta tìm nó ra xem thử, ở trang thứ mười ba, trong bản “khoa chú” của chúng ta, trang thứ mười ba, quyển thượng trang mười ba. Trang mười ba là mở đầu: “Thị thời Như Lai hàm tiếu, phóng bách thiên vạn ức đại quang minh vân.” (Lúc ấy Như Lai mỉm cười, phóng ra trăm nghìn muôn ức vầng mây sáng lớn) Câu này là nói chung. Sau đó phía sau đã nói với chúng ta mười loại, ý nghĩa của chữ thập là tượng trưng, là cùng ý nghĩa với chữ “Thập” nói trong “Kinh Hoa Nghiêm”. “Viên mãn, từ bi, trí tuệ, Bát Nhã, tam muội, kiết tường, phước đức, công đức, quy y, tán thán” đây là đem vô tận pháp môn, cũng là bao gồm tất cả những việc li ti trong đời sống chúng ta, không có cái nào không tốt đẹp, không có cái nào bị khiếm khuyết, đó mới gọi là đại viên mãn. Hiện nay chúng ta nói một cách chung chung, đời sống của chúng ta, công việc của chúng ta, chúng ta mỗi ngày tiếp xúc với bên ngoài, tiếp xúc với mọi người, mọi việc, mọi vật, đều là ở trong chân, thiện, mỹ rất viên mãn, vậy mới gọi là đại viên mãn. Là giống như trong kinh nói với chúng ta mười loại viên mãn này, mười loại này ở trong đời sống chúng ta từng li từng tí, bất kỳ một tí nào cũng đầy đủ viên mãn, như thế mới gọi là Mãn Nguyệt, mới gọi là không có khiếm khuyết. Đức Phật làm được rồi, tuy Bồ Tát cũng làm nhưng không được rốt ráo giống như Phật. Hay nói cách khác, Bồ Tát làm đến viên mãn vẫn không được xưng là đại viên mãn. Đây là điểm chúng ta cần phải học tập. Chúng ta có thể nói là rất ngưỡng mộ về đời sống của Phật Bồ Tát, vô cùng mong được như vậy. Có thể làm được hay không? Có thể. Bắt đầu làm từ đâu? Bắt đầu làm từ tâm địa. Hay nói cách khác, bạn có thể đem mười loại viên mãn này áp dụng vào trong tâm địa của bạn là được rồi. Chúng ta tu học Tịnh Tông cũng đề xuất mười điều. Dựa vào trong hoàn cảnh đời sống hiện nay của chúng ta, chúng ta đề ra nguyên tắc “Giữ tâm”. Ở trong đời sống thường ngày chúng ta dùng tâm gì? “Chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi.” Chúng ta phải dùng cái tâm này. Nếu như chúng ta khởi tâm động niệm trái ngược lại với năm điều này, thì hãy mau mau điều chỉnh nó trở lại, là tu tâm, đây gọi là tu từ căn bản, phải dụng công phu ở chỗ này. Ở trong đời sống khi tiếp xúc với quảng đại quần chúng, cũng tức là tu ở trên sự, tu ở trên tướng, chúng ta nắm vững nguyên tắc: “Thấy ra, buông xả, tự tại, tùy duyên” nắm vững bốn nguyên tắc này. Và lấy “niệm Phật” làm chỗ quy y cứu cánh. Đại quy y trong Quang Minh Vân, đại quy y của chúng ta là niệm Phật. Như vậy mới có thể cải thiện đời sống của chúng ta, có thể đem đời sống phàm phu của chúng ta nâng lên đến đời sống của chư Phật Bồ Tát. Nghĩa là đời sống phàm phu nâng lên đến đời sống của chư Phật Bồ Tát, chứ không phải nói thay đổi cách thức sống của chúng ta. Điểm này quý vị nhất định phải hiểu rõ. Tuyệt đối không phải nói chúng ta phát tài, thăng quan, nếu bạn nghĩ như vậy là sai rồi. Nghèo khó vẫn cứ sống đời sống nghèo khó, giàu sang vẫn cứ sống đời sống giàu sang. Như vậy rốt cuộc là thay đổi ở chỗ nào? Thay đổi trong tâm lý, thay đổi trong quan niệm. Sau khi thay đổi như vậy rồi thì sẽ hoàn toàn khác so với cách nghĩ, cách nhìn của người bình thường. Bạn thật sự hiểu được, giàu sang không hai, nghèo khó không hai, thậm chí là chúng sanh và Phật không hai, lý sự không hai, tánh tướng không hai, bạn vào pháp môn không hai. Vào pháp môn không hai là cảnh giới gì? Trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói nhất chân pháp giới. Nhất chân pháp giới là đời sống của chư Phật Như Lai. Cho nên Bồ Tát thị hiện ở cõi nhân gian chúng ta, không phải vị Bồ Tát nào cũng là thị hiện giàu sang tột bực, không phải vậy. Có rất nhiều vị Phật Bồ Tát thị hiện làm người ăn mày, thị hiện làm thuê. Các Ngài là vào pháp môn không hai, các Ngài vô cùng tự tại. Ở trong truyện sử Phật giáo có ghi chép, hầu hết quý vị đều biết Hàn Sơn, Thập Đắc là do Văn Thù, Phổ Hiền hóa thân đến. Các Ngài sống là đời sống gì? Là hình ảnh gì? Căn cứ trong sách ghi chép họ sống rất lôi thôi lếch thếch, điên điên khùng khùng, đồ ăn dơ bẩn cỡ nào họ cũng ăn, chẳng hề để ý tới vệ sinh. Người bình thường chúng ta xem họ là ăn mày, nhưng họ sống là đời sống Phật Bồ Tát, họ sống là đời sống của nhất chân pháp giới. Vào đầu năm Dân Quốc, có lẽ quý vị đồng tu biết có vị Phật sống Kim Sơn. Danh hiệu của Ngài là Diệu Thiện, tên đó hoàn toàn giống với lão hòa thượng ở Phổ Đà Sơn hiện nay, là pháp sư Diệu Thiện. Người ta tôn xưng Ngài là Phật sống Kim Sơn. Ngài ở chùa Kim Sơn, chùa Kim Sơn Trấn Giang, cũng là điên điên khùng khùng, quanh năm suốt tháng chỉ mặc một chiếc áo rách, cả đời hoàn toàn không có tắm rửa, cả đời không tắm rửa, mặc một chiếc áo rách. Rất kỳ lạ, mùa hè Ngài cũng không nóng, mùa đông cũng không lạnh, Ngài chỉ có một bộ y phục, chứ không có gì cả. Ngài sống rất tự tại, trong truyện ký ghi chép, tôi xem cuốn “Truyện Phật Sống Kim Sơn” là trước đây ở Đài Loan, có một vị lão pháp sư Lạc Quan, do lão pháp sư Lạc Quan viết. Ở Đài Loan có hai cuốn sách kể về những chuyện này của Ngài, một cuốn là do pháp sư Chử Vân viết, một cuốn là do pháp sư Lạc Quan viết. Cuốn do pháp sư Chử Vân viết không đáng tin lắm, bởi vì pháp sư Chử Vân chưa từng gặp mặt Ngài, mới chỉ nghe kể. Pháp sư Chử Vân rất hiếm có, đi nghe ngóng khắp nơi, xin người ta kể lại chuyện về Ngài, pháp sư bèn ghi chép lại, viết thành cuốn sách này. Nhưng pháp sư Lạc Quan là người đã từng ở chung với pháp sư Diệu Thiện, họ rất quen biết nhau, cho nên cuốn do pháp sư Lạc Quan viết là tương đối đáng tin. Thầy nói người này là người rất đặc biệt. Chúng ta hiện nay gọi là Ngài có công năng đặc biệt. Ngài ăn đồ ăn rất kỳ lạ, đồ ăn dơ bẩn Ngài cũng ăn được. Khi người ta vứt vào sọt rác Ngài lượm ra để ăn, Ngài cũng không bị bệnh. Cúng dường ngân phiếu cho Ngài, Ngài cũng ăn hết, ăn hết vào bụng cả. Chúng ta biết ngân phiếu là đồ dở bẩn nhất, bao nhiêu người sờ cầm qua, Ngài ăn ăn hết toàn bộ. Cả đời Ngài không tắm rửa, cũng không thay quần áo, nhưng trên người Ngài có mùi thơm. Đã từng có lần các tín đồ ép Ngài tắm rửa một lần. Thật hiếm có! Được, các anh ép tôi, ép thì tắm vậy. Nước tắm đó có thể chữa bệnh. Những bệnh rất kỳ lạ trị không khỏi, uống nước tắm đó của Ngài thì khỏi bệnh, rất có một chút giống như Ngài Tế Công kể ở trong “Truyện Tế Công” vậy. Các Ngài là sống đời sống ở trong nhất chân pháp giới, các Ngài không phải sống đời sống phàm phu. Tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, từ bi. Chúng ta nói thực ra ba ngày không tắm rửa là khắp người thấy khó chịu. Ngài cả đời không tắm rửa mà tự tại như vậy. Chúng ta một tuần không tắm rửa thì trên người tỏa ra mùi hôi, người ta không dám lại gần. Trên người Ngài có mùi thơm, cho nên thể chất của Ngài khác với thể chất của chúng ta. Bạn muốn hỏi tại sao khác? Cái tâm đó khác nhau. Thể chất là thứ vật chất, một cái hiện tướng gần chúng ta nhất, tướng chuyển theo tâm. Cho nên mọi người hiểu rõ đạo lý này, chúng ta hiểu rõ sự thật này, mới thấy tu tâm là quan trọng. Tâm tốt thì tướng tốt, tâm tốt thì thân thể sẽ khỏe mạnh, tâm tốt là tâm vì chúng sanh, vì xã hội. Tâm không tốt là tâm vì mình. Đây là đức Phật hết lòng đắng miệng, dùng muôn nghìn lời nói chỉ dạy chúng ta. Chúng ta cần lắng lòng, cần thể hội cho được, phải y giáo phụng hành. Tu hành không có gì khác, chính là tu cho tâm tốt, tu cho tâm chân thành. Trong “Kinh Vô Lượng Thọ” đem cương lĩnh của việc tu học viết ở trên đề kinh là “Thanh tịnh, bình đẳng, giác.” Dựa theo cương lĩnh này mà tu là tốt. Thanh tịnh, bình đẳng, giác chính là tâm Phật. Chúng tôi có thêm một chữ chân thành ở phía trước chữ thanh tịnh, bình đẳng, giác, và phía sau có thêm chữ từ bi, là có lợi ích. Sợ có một số người mê hoặc, tự mình cho rằng tâm rất thanh tịnh, rất bình đẳng, rất giác rồi, mà không có tâm từ bi thì vẫn là tự tư tự lợi. Vẫn là vì mình thì không có thanh tịnh, bình đẳng, giác. Bạn tự cho là có, đó là giả chứ không phải thật. Thật sự thanh tịnh, bình đẳng, giác, thì nhất định là một mực từ bi. Chúng ta hiện nay gọi là “Tâm yêu thương”, đối với mọi người, mọi sự, mọi vật đều có tâm yêu thương viên mãn. Tâm yêu thương này chính là từ bi. Hai chữ “Bác ái” cũng là xuất hiện ở trong “Kinh Vô Lượng Thọ”. Bác ái là tình yêu thương bình đẳng, thanh tịnh. Chúng ta có thể dùng tâm yêu thương để đối xử với mọi người, mọi sự, mọi vật, thì bạn sống là đời sống của Phật Bồ Tát, bạn mới có thể đạt được viên mãn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *