Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 68

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 68

  Sau cùng tổng kết:

  “Hữu như thị đẳng, bất khả thuyết Phật”

  (Có bất khả thuyết Ðức Phật Thế-Tôn như thế.)

  Giống như những chư Phật Như Lai mà phía trước nói là vô lượng, vô biên nói không mãi không hết. Mời xem kinh văn dưới đây:

  “Thế Tôn”

  (Bạch đức Thế Tôn)

  Đây là Bồ Tát Địa Tạng xưng Phật Thích Ca Mâu Ni, xưng là “Thế Tôn”.

  “Hiện tại vị lai”

  (Hiện tại, vị lai)

  “Hiện tại”, là lúc pháp hội đang diễn ra. “Vị lai” là bao gồm thời gian hiện nay của chúng ta. Thời mạt pháp chúng ta đây các Ngài gọi là vị lai.

  “Hiện tại vị lai nhất thiết chúng sanh”

  (Hết thảy chúng sanh trong thời hiện tại và vị lai)

  Là bao gồm chúng ta ở trong đó. Trong tám chữ này là có chúng ta, toàn bộ tất cả chúng sanh đều ở trong đó.

  “Nhược thiên, nhược nhân, nhược nam, nhược nữ.”

  (Hoặc là Trời, hoặc là người, hoặc người nam, hoặc người nữ)

  Hai câu này là bao gồm tất cả chúng sanh trong lục đạo.

  “Đản niệm đắc nhất Phật danh hiệu, công đức vô lượng, hà huống đa danh”

  (Chỉ niệm được danh hiệu của một Ðức Phật thôi, sẽ được vô lượng công đức, huống nữa là niệm được nhiều danh hiệu.)

  Đây là duyên phận, nếu như có cơ duyên gặp được Phật pháp, trong đời này bạn có thể niệm được một câu danh hiệu, thì công đức là không thể nghĩ bàn. Đúng như lời Thế Tôn nói trong “Kinh Pháp Hoa”: “Vừa xưng nam mô Phật, đều đã thành Phật đạo”, đó là trong đời chỉ niệm một câu, chỉ niệm được một tiếng nam mô Phật. Nhiều đời nhiều kiếp sau, khi câu Phật hiệu này khởi tác dụng, có thể gặp được Phật, tu hành chứng quả. Đây là hạt giống của câu Phật hiệu này gieo vào trong a-lại-da thức, gọi là hạt giống Kim Cang, vĩnh viễn không bị hư hoại. Đến khi nào gặp duyên khởi hiện hành? Do nhân duyên của mỗi người khác nhau. Tuy nói là nhân duyên khác nhau, nhưng trong đây vẫn có một nguyên lý. Nguyên lý này là thích thiện, mến đức, người này nhà Phật chúng ta gọi là có thiện căn. Người có thiện căn sẽ dễ dàng gặp được cơ hội này. Thiện cảm ứng với thiện, ác giao cảm với ác. Bạn sẽ gặp được thiện duyên, gặp được cơ hội này. Huống chi nhà Phật thường nói: “Ở trong cửa Phật, không bỏ người nào”. Bạn có thiện căn, thì Phật Bồ Tát sẽ thường xuyên quan sát bạn, thường xuyên quan tâm bạn. Thiện căn của bạn chín muồi, thì Phật Bồ Tát sẽ đến giúp đỡ bạn, đạo lý nó là như vậy. Bạn niệm nhiều danh hiệu Phật, thì thiện căn của bạn sẽ càng sâu dày hơn, tương lai bạn gặp cơ hội được độ sẽ càng nhiều hơn. Nói như vậy, có phải chúng ta cần niệm thật nhiều danh hiệu Phật không? Mỗi ngày đi lễ sám vạn Phật. Ở Đài Loan, những nơi khác tôi cũng không quen biết lắm, mỗi khi đến tết âm lịch thì mỗi đạo tràng, đạo tràng chùa miếu đều là lễ sám vạn Phật. Có lợi ích không? Đương nhiên có lợi ích, lợi ích đúng như chỗ này nói. Ở trong đây chúng ta nhất định phải hiểu, Thế Tôn đặc biệt khuyến khích chúng ta, người thiện căn chín muồi chuyên niệm Phật A Di Đà. Còn lễ sám vạn Phật dành cho người nào lễ vậy? Người sơ học vừa mới tiếp xúc Phật pháp, vẫn còn chưa biết gì về Phật pháp, chợt nhớ chợt quên, niềm tin trôi dạt bất định, không có gốc rễ, người như vậy để cho họ niệm nhiều tiếng Phật hiệu, sẽ có lợi ích. Người đã có tín ngưỡng, đã sáng tỏ, thì không cần phải tạo thêm phiền phức này nữa, bạn chỉ niệm A Di Đà Phật. Danh hiệu của Phật A Di Đà là danh hiệu của chư Phật. Trong “Kinh Vô Lượng Thọ”, trong “Kinh Di Đà” không thường hay nói “Danh hiệu chư Phật”, vì danh hiệu chư Phật chính là Phật A Di Đà. Ý này chính là nói, bạn niệm câu A Di Đà Phật này, là bạn đã niệm toàn bộ tất cả danh hiệu chư Phật mười phương ba đời rồi. Ngài là danh hiệu chung của tất cả chư Phật, công đức này là không thể nghĩ bàn. Cho nên chúng ta học đến chỗ này đừng nên nghĩ rằng, hiện nay tôi niệm A Di Đà Phật thấy không được, mới niệm có một vị Phật, bây giờ tôi phải mau mau đi niệm vạn Phật. Thế là bạn  phá hoại mất công phu của mình rồi. Cho nên ở chỗ này Bồ Tát Địa Tạng hết lòng đắng miệng là để độ chúng sanh tội nghiệp cực nặng, bình thường đối với Phật pháp là hoàn toàn không thể tiếp nhận, hoàn toàn không có tín ngưỡng, là nói đối với họ. Chúng ta xem hết toàn kinh, mục đích của Bồ Tát Địa Tạng độ họ đều là giúp họ được sanh cõi trời người, chứ không phải độ họ thành Phật. Tại sao vậy? Họ vẫn còn cách thành Phật một khoảng cách rất lớn. Có thể từ ba ác đạo sanh đến cõi trời người để thọ báo đã là thành tựu rất lớn rồi. Sau đó từ cõi trời người ra sức dụng công thêm. Sau khi về cõi trời người, vậy mới khuyên họ niệm Phật, khuyên họ chuyên tu Tịnh Độ cầu nguyện vãng sanh, thì công đức mới viên mãn. Bồ Tát ở chỗ này khuyên chúng ta cũng là giống như lời Bồ Tát Đại Thế Chí nói trong “Kinh Lăng Nghiêm”: “Nhớ Phật niệm Phật thì hiện tiền, tương lai chắc chắc thấy Phật.” Chúng ta niệm Phật A Di Đà, thì hiện tiền tương lai chắc chắn thấy Phật. Ở đây Ngài dạy tất cả đại chúng trời người, là tương lai chắc chắn thấy Phật. Trước mắt có khó khăn, tương lai nhất định sẽ thấy Phật.

  “Thị chúng sanh đẳng”

  (Những chúng sanh đó)

  Đây là chỉ những chúng sanh niệm danh hiệu Phật này.

  “Sanh thời, tử thời, tự đắc đại lợi, chung bất đọa ác đạo”

  (Lúc sanh lúc tử đặng nhiều phước lợi, không còn phải đọa vào ác đạo nữa.)

  Có rất nhiều đồng tu sau khi đọc xong đoạn văn này đều khó tránh khỏi hoài nghi. Thế gian đâu có chuyện gì dễ dàng như vậy? Tội nghiệp cả đời, niệm mấy tiếng danh hiệu Phật là có thể không đọa ác đạo sao? Người niệm Phật nhiều, người xưa thường nói: “Người vãng sanh ít”, người niệm Phật đọa ác đạo vẫn rất nhiều? Trong ngạn ngữ thường nói: “Trước cửa địa ngục có rất nhiều tăng nhân”. Bạn nói những tăng nhân đó lẽ nào trong đời họ không có niệm Phật bao giờ sao? Không biết họ đã niệm bao nhiêu tiếng Phật hiệu rồi. Tại sao vẫn bị đọa địa ngục? Đó không phải là hoàn toàn trái ngược lại với “Chung bất đọa ác đạo” (Không còn phải đọa vào ác đạo nữa.) mà chỗ này nói hay sao? Mấu chốt là ở chữ “Niệm”. Niệm bằng miệng không được, không có tác dụng. Bạn thấy chữ niệm này, chữ niệm là chữ hội ý. Văn tự Trung Quốc tràn đầy trí tuệ. Chữ niệm này là có ý nghĩa gì? Là kim tâm. Kim là hiện tại. Trong tâm bạn hiện nay thật sự có Phật. Trong miệng niệm Phật mà trong tâm không có Phật, như thế thì có tác dụng gì chứ? Đó là người xưa nói: “Gào rát cổ họng cũng uổng công”, niệm nhiều đi nữa cũng uổng công! Phải là trong tâm bạn thật sự có Phật, vậy là khởi tác dụng rồi. “Sinh thời, tử thời, tự đắc đại lợi, chung bất đọa ác đạo.” (Lúc sanh lúc tử đặng nhiều phước lợi, không còn phải đọa vào ác đạo nữa.) Trong tâm bạn thật sự có Phật, cho nên không phải trong miệng có Phật. Trong miệng có Phật, cái đó gọi là “Vừa qua căn tai vĩnh viễn thành hạt giống đạo”, chứ hiện nay không được lợi ích. Đáng đọa địa ngục vẫn phải đọa địa ngục, chứ không được lợi ích. Nếu như trong tâm bạn thật sự có Phật, thì hiện nay bạn được lợi ích ngay. Từ đó cho thấy, chữ niệm này không phải chỉ miệng niệm, là chỉ cho trong tâm bạn thật sự có Phật. Bồ Tát Địa Tạng dạy chúng ta: “Nhớ Phật niệm Phật” cũng là mang ý nghĩa này. Nhớ là thường xuyên nghĩ đến, thường xuyên tư duy. Chữ Niệm người bình thường chúng ta gọi là nhớ mong, thường xuyên nhớ Phật ở trong tâm. Nghĩ đến tướng tốt của Phật, nghĩ đến công đức của Phật, nghĩ đến sự giữ tâm của Phật. Có thể nghĩ được như vậy thì đương nhiên bạn sẽ một lòng một dạ học tập, noi theo đức Phật. Học được một phần, vài phần, đó chính là lợi ích lớn, vậy thì không đọa ác đạo. Hạnh của đức Phật biểu hiện ra bên ngoài, chính là sáu ba-la-mật. Đức Phật ưa thích bố thí, còn chúng ta ưa thích tham lam keo kiệt. Chúng ta niệm Phật, đó là niệm thí. Nhà Phật có sáu cách niệm. Sáu cách niệm chính là dạy chúng ta giữ tâm, thường giữ tâm bố thí. “Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm thiên, niệm giới, niệm thí” đây là niệm Phật đích thực. Cho nên mọi người dứt khoát không nên hiểu lầm niệm Phật chỉ có niệm ngoài miệng mà tâm không niệm. Miệng niệm Di Đà, mà trong tâm vẫn còn lưu luyến thế giới Sa Bà, vẫn còn tình chấp sâu nặng, vậy là quá đỗi sai lầm!

  Xem tiếp đoạn này dưới đây:

 “Nhược hữu lâm mạng chung nhân, gia trung quyến thuộc nãi chí nhất nhân, vị thị bệnh nhân cao thanh niệm nhất Phật danh. Thị mạng chung nhân trừ ngũ Vô Gián tội, dư nghiệp báo đẳng tất đắc tiêu diệt.”

  (Như có người nào sắp mạng chung, hàng thân quyến trong nhà nhẫn đến một người vì người bịnh sắp chết đó mà niệm lớn tiếng danh hiệu của một Ðức Phật, thời người chết đó, trừ năm tội lớn vô gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch cả.)

  Đây là nói lợi ích của niệm Phật lúc lâm chung. “Gia trung quyến thuộc” (Hàng thân quyến trong nhà) trong nhà không có người tin Phật. Nếu như gặp một người tin Phật, hãy nhắc nhở họ niệm danh hiệu một vị Phật. Người bệnh này sau khi nghe được Phật hiệu, phải giác ngộ, phải sám hối, mới có thể trừ được năm tội Vô Gián. Nếu như người này nghe thấy tiếng Phật hiệu này không có cảm giác, không có ý sám hối. Tại sao vậy? Lúc còn sống họ hoàn toàn không tin Phật pháp, không chịu niệm Phật. Đó chính là “Vừa qua căn tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo”, lợi ích của họ là ở chỗ này. Nếu họ tạo năm tội nghiệp Vô Gián, họ có bị đọa địa ngục Vô Gián hay không? Vẫn phải đọa lạc. Cái niệm Phật này có lợi ích đối với họ hay không? Có lợi ích rất lớn. Lợi ích lớn này không phải khởi tác dụng ở trong đời này, đó là sau khi họ thọ tội nghiệp địa ngục xong, sau đó gặp được pháp duyên thù thắng này sẽ khởi tác dụng, cho nên lợi ích này là ở về sau. Nếu như người này là người học Phật, biết Phật pháp, dù tạo tội nghiệp cực nặng, lúc lâm chung có người nhắc nhở họ, qua lời nhắc nhở này họ bèn hối hận, họ thật sự sinh tâm hổ thẹn, sinh tâm sám hối, đoạn ác tu thiện. Hiện nay họ nằm trên giường bệnh sắp chết rồi, làm sao đoạn ác tu thiện? Đoạn ác chính là thiện, một niệm sám hối này chính là thiện, thật sự có thể trừ được năm tội Vô Gián. Nếu như sức sám hối này mạnh, họ có thể sinh về cõi trời, có thể giúp họ sinh cõi trời Đao Lợi, có thể sinh về cõi trời người để hưởng phước. Những sự và lý này chúng ta đều phải biết rõ ràng, minh bạch, sau đó đọc xong mới không đến nỗi nghi hoặc, nó quả thật có hiệu quả này. Nếu như người mang tội nghiệp rất nhẹ, thì tội nghiệp đương nhiên được tiêu trừ. Tiêu trừ xong chắc chắn sinh cõi trời người. Trong chú giải của pháp sư Thanh Liên, trong đoạn này Ngài chú giải rất nhiều, cũng có trích dẫn ra một số nhân duyên công án. Ở chỗ này chúng ta nhắc qua một cách sơ lược, đặc biệt nhấn mạnh. Mọi người xem hàng thứ nhất trang một trăm năm mươi. “Lãm Thiên Thai Thập Nghi Luận” Đây là trước tác của đại sư Trí Giả. “Sơ tâm Bồ Tát vị đắc vô sanh nhẫn, yếu tu thường bất ly Phật” (Bồ Tát sơ phát tâm chưa chứng được vô sanh nhẫn, cần phải thường không xa lìa Phật) Câu nói này vô cùng quan trọng. Đại sư Trí Giả, theo truyền thuyết ở trong “Truyện Ký” Ngài là Phật Thích Ca Mâu Ni tái lai. Câu nói này cũng như đích thân Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra vậy. Bồ Tát sơ phát tâm. Bồ Tát sơ phát tâm, thông thường chỉ Bồ Tát quả vị Thập Tín của Đại Thừa. Từ sơ tín đến thập tín đều gọi là Bồ Tát sơ phát tâm, chưa chứng được vô sanh nhẫn, chưa có đạt được vô sanh pháp nhẫn. Câu này nói thực ra là Bồ Tát quả vị Tam Hiền của Biệt Giáo, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng ở trong Biệt Giáo đều chưa có chứng được vô sanh pháp nhẫn. Ở địa vị này phải thường xuyên gần gũi Phật Đà. Lời khai thị này của Đại sư Thiên Thai chính là khuyên chúng ta nhất định phải cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, gần gũi Phật A Di Đà, thì chúng ta mới có thể không bị thối chuyển, mới có thể giữ vững thường tinh tấn. Từ đó cho thấy, nếu thật sự muốn tu học có thành tựu, phước của chúng ta mỏng nên sinh vào thời trước và sau khi đức Phật ra đời. Sinh vào thời sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, và trước khi đức Phật Di Lặc chưa có ra đời, nên chúng ta không nhìn thấy Phật. May mà thế gian còn có đệ tử của Phật, chúng ta có thể gần gũi những vị thiện tri thức này. Thiện tri thức, thầy tốt, cũng là có thể gặp chứ không thể mong cầu. Có duyên gặp được rồi thì cần phải thường đừng rời khỏi, điều này rất quan trọng, trừ khi bạn đã khai ngộ, chứng được vô sanh pháp nhẫn, thế thì không cần nữa. Giống như ở trong “Lục Tổ Đàn Kinh” chúng ta xem thấy đại sư Vĩnh Gia, Ngài đi gặp Lục Tổ, Lục Tổ ấn chứng cho Ngài. Sau khi ấn chứng xong Ngài lập tức liền muốn đi ngay. Lục Tổ giữ Ngài ở lại một ngày, Ngài ở lại đạo tràng Tào Khê chỉ một đêm, gọi là “Nhất Túc Giác”. Ngài thì được. Chúng ta hãy thử xem những người khác, có rất nhiều người gần gũi đại sư Huệ Năng mười năm, hai chục năm, ba chục năm, có người gần gũi cả đời, mãi cho đến khi Đại Sư viên tịch, mới rời khỏi đạo tràng này, đây Không phải là người bình thường, cũng là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Tại sao có một số người kiến tánh, vội vàng nhanh chóng rời khỏi vậy? Đó là họ thị hiện cho chúng ta thấy, họ có năng lực đi độ hóa chúng sanh, giáo hóa chúng sanh quan trọng. Còn một loại là thị hiện cho chúng ta thấy, khuyên chúng ta phải thường xuyên gần gũi thiện tri thức. Đã đại triệt đại ngộ rồi vẫn phải gần gũi, huống chi chúng ta chưa có kiến tánh? Cho nên hai loại biểu diễn này đại biểu cho hai loại ý nghĩa. Hai loại ý nghĩa này phải xem duyên phận. Nếu như bạn có duyên độ chúng sanh thì bạn phải nên đi độ chúng sanh. Bạn không có duyên phận này, thì không được rời khỏi thầy. Ở cạnh thầy để giúp đỡ cho hàng hậu học, và người mới đến học, giúp đỡ thầy, giống như làm trợ giáo cho thầy vậy, không rời khỏi thầy. Cho nên hai loại thị hiện này có hai loại ý nghĩa. Câu dưới đây là câu nói trong “Đại Trí Độ Luận”, câu này nói rất hay: “Cụ phọc phàm phu hữu đại bi tâm, nguyện sanh ác thế cứu khổ chúng sanh, vô hữu thị xứ” (Phàm phu còn bị trói buộc có tâm đại bi, nguyện sanh vào đời ác trược để cứu khổ chúng sanh, là không có chuyện này!) Lời này là do đức Phật nói. Cụ phọc phàm phu (Phàm phu còn bị trói buộc) là phiền não chưa đoạn, bạn vẫn còn kiến tư phiền não. Hay nói cách khác, bạn vẫn còn thị phi, nhân ngã, bạn vẫn còn tham, sân, si, mạn. Ở trong cảnh giới này, tuy có tâm đại từ bi, phát nguyện muốn sanh vào đời ngũ trược ác thế để cứu độ những chúng sanh khổ nạn, có được không? Không được. “Vô hữu thị xứ” là không có đạo lý này. Bạn tự mình độ mình còn độ không nổi, thì bạn có năng lực gì để độ người khác? Chúng tôi cũng đã từng nhìn thấy, có một số người xuất gia phát tâm, họ không cầu sinh Tịnh Độ, họ phát tâm, tôi đời sau vẫn muốn làm pháp sư, tôi vẫn muốn đến nơi đây để độ chúng sanh. Chúng ta quan sát thật kỹ vị pháp sư này, thấy danh vọng lợi dưỡng ông vẫn không buông xả như cũ, vẫn cứ đang tranh quyền đoạt lợi. Đó đúng như lời trong Đại Luận nói, họ hy vọng đời sau vẫn vào trong cõi người để làm pháp sư. Đời sau có được sanh vào cõi người hay không? Là rất có vấn đề. Thật sự đời sau không bị mất thân người, chúng ta căn cứ theo lời dạy của Phật trong kinh điển, chí ít ngũ giới, thập thiện bạn phải đạt được tám mươi phần trăm mới được, bạn đời sau có thể được thân người, không bị mất thân người. Nếu như ngũ giới, thập thiện bạn chỉ đạt được sáu mươi phần trăm thì cũng chưa chắc, không đáng tin cậy. Bạn tự mình suy nghĩ xem, ngũ giới, thập thiện bạn có đạt tiêu chuẩn tám chục phần trăm hay không, thì đời sau mới có hy vọng được thân người. Nếu như ngũ giới thập thiện bạn đạt được hơn chín chục phần trăm, thì nhất định bạn có phần nắm chắc không bị mất thân người. Đây là điểm chúng ta cần phải tự mình biết rõ ràng, rành rẽ. Nếu như mình không có năng lực này, mình thật sự là kẻ phàm phu nghiệp chướng sinh tử, thế thì phải nhớ kỹ, lời đại sư chỉ dạy ở chỗ này, câu sau cùng hàng thứ hai của Tiểu Chú: “Tự thị tận khí bình sanh sở học, chuyên tầm Tịnh Độ giáo môn, thập dư niên lai vị thường tạm xả.” (Tự buông bỏ hết những gì mình đã học cả đời này, chuyên tìm giáo môn Tịnh Độ, hơn mười năm nay, chưa từng tạm rời bỏ.) Đây chính là cầu tự độ, đây là người học Phật. Những gì cả đời học rộng nghe nhiều, đến lúc này thật sự giác ngộ rồi, thật sự hiểu rõ rồi, biết rằng những pháp môn mà bạn tu học đó, đến lúc lâm chung cũng không thể áp dụng được. Bạn phải giác ngộ cho thật sớm, đem tất cả những gì bạn tu học xả bỏ hết, chuyên tu Tịnh Độ cầu nguyện vãng sanh. Ngày nay ở Singapore, đây là nhân duyên hiếm có. Nói về mặt không gian thì toàn thế giới chỉ có một nơi này, nói về mặt thời gian thì mấy trăm năm mới có một cơ hội như thế này. Xây dựng thôn Di Đà, niệm Phật đường, cơ hội này là hy hữu khó gặp. Có thể xây dựng được ở nơi đây cái đạo tràng này, bạn phải thật sự giác ngộ, buông xả vạn duyên, bước vào niệm Phật đường này thật thà niệm Phật, thế là bạn đi làm Phật rồi. Niệm Phật đường này là nơi bảo vệ tiễn đưa phàm phu một đời thành Phật. Loại nhân duyên hiếm có này, không phải người bình thường nào ở trong đời cũng có thể gặp được đâu. Chúng tôi giảng kinh thuyết pháp là đem lợi ích công đức này nói cho rõ ràng, minh bạch, khuyên mọi người xả bỏ lục đạo, xả bỏ thập pháp giới đi làm Phật. Mục đích của giảng kinh thuyết pháp là ở chỗ này, khuyên người ta làm Phật. Xem tiếp đoạn kinh văn này dưới đây:

  “Thị ngũ Vô Gián tội tuy chí cực trọng, động kinh ức kiếp liễu bất đắc xuất, thừa tư lâm mạng chung thời, tha nhân vị kỳ xưng niệm Phật danh, ư thị tội trung diệc tiệm tiêu diệt.”

  (Năm tội lớn vô gián kia dầu rất nặng nề đáng lẽ trải qua ức kiếp hẳn không ra khỏi đặng quả khổ, nhưng bởi lúc lâm chung, nhờ người khác vì đó mà xưng niệm danh hiệu của Phật cho nên những tội nặng đó cũng lần lần tiêu sạch.)

  Chú giải này rất hay, vừa mở đầu đã đưa ra “Nghi vấn”. Mọi người nghe xong câu nói này sẽ sinh nghi hoặc. “Vô gián nghiệp trọng, hà đắc nhất nhân xưng nhất Phật danh, tức đắc tiêu diệt da.” (Tội nghiệp vô gián nặng như thế, làm sao một người xưng một câu danh hiệu Phật liền được tiêu diệt) Thật sự là có thể khiến người ta hoài nghi. Từ khi chúng tôi giảng kinh này cho đến chỗ này, quý vị sẽ hiểu được, có thể diệt tội là do bạn chuyển ý nghĩ, thì tội liền diệt ngay. Không chuyển ý nghĩ, thì tức là: “Vừa qua căn tai, vĩnh viễn thành hạt giống đạo”. Đây là câu sau cùng ở hàng thứ nhất, trang một trăm năm mươi mốt trong chú giải, là trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói: “Hoa Nghiêm kinh vân: ‘Thiết văn Như Lai danh cập dữ sở thuyết pháp, bất sanh tín giải, diệt năng thành chủng.’” (Nếu nghe danh hiệu của Như Lai và pháp Ngài nói ra mà không sanh lòng tin và hiểu thì vẫn có thể gieo được hạt giống thành Phật.) Lợi ích này là ở chỗ này. Hay nói cách khác, vẫn phải bị đọa. Thiện tri thức nhắc nhở bạn, bạn tự mình phải giác ngộ, phải quay đầu. Sự giác ngộ vào lúc này chính là cùng với thiện tri thức nhất tâm xưng niệm, đây là sám hối thật sự. Trong tâm bạn một niệm sau cùng này là Phật, không có gì khác, buông xả vạn duyên, nhất tâm xưng niệm. Được! Cái này diệt tội. Nếu như xưng niệm A Di Đà Phật, khuyên họ vãng sanh, dù trong đời này tạo năm tội nghiệp Vô Gián cũng có thể vãng sanh, đây là đại thiện. Tại sao cả đời tạo tội nghiệp cực nặng, lúc lâm chung niệm Phật A Di Đà vẫn có thể vãng sanh? Trong kinh đức Phật thường nói, sau khi con người chết sẽ đi đầu thai, đi thọ sanh là nghiệp lực đang làm chủ. Nghiệp lực, trong đời bạn tạo tác có nghiệp thiện, có nghiệp ác. Nghiệp ác nào làm chủ khiến bạn đi đầu thai? Nghiệp nào mạnh sẽ dẫn dắt trước. Trong a-lại-da thức của bạn có vô lượng vô biên nghiệp lực, nghiệp lực nào mạnh nhất sẽ dắt bạn đi đầu thai trước. Nếu như trong thời khắc mấu chốt này, sức niệm Phật A Di Đà của bạn mạnh nhất, thế chẳng phải là đi sanh về thế giới Cực Lạc trước rồi sao? Đạo lý nó là như vậy, nhưng bạn thiện tri thức đến trợ niệm, giúp bạn niệm Phật, bạn không quan tâm, bạn vẫn ham muốn hưởng thụ thế gian, vẫn không chịu buông xả ân oán, vậy thì vô phương, bạn đã đi vào ác đạo rồi. Con người sau khi chết rồi sẽ đi về cõi nào là ở một niệm sau cùng này. Niệm sau cùng này ai có thể có phần nắm chắc? Thật sự không có phần nắm chắc. Cho nên con người lúc lâm chung đây là việc lớn đích thực. Sau khi bạn chết rồi sẽ đi về đâu? Cách đi của bạn như thế nào? Đây là việc lớn. Cho nên đức Phật dạy chúng ta, chúng ta ở trong đời phải tu thiện, phải tu phước, phải tích lũy công đức. Làm những việc tốt này là vì cái gì? Là vì lúc lâm chung có phước báo. Phước báo này chính là lúc lâm chung đầu óc sáng suốt, không mê hoặc, không điên đảo, lúc lâm chung có thiện tri thức giúp đỡ, đây là phước báo lớn. Nếu như người không có phước báo, lúc lâm chung sẽ mê hoặc điên đảo, đầu óc không sáng suốt. Vậy thì rất phiền phức! Cho dù gặp phải thiện tri thức cũng không được, họ đầu óc không sáng suốt, mê hoặc điên đảo chắc chắn bị đọa ác đạo. Cho nên việc này là phải có điều kiện. Diệt tội là thật chứ không phải giả. Họ cần phải có đầy đủ ba điều kiện. Có đầy đủ ba điều kiện này thì được, là không có khác gì so với trong kinh nói. Điều kiện thứ nhất là đầu óc sáng suốt, không bị mê hoặc chút nào cả. Thứ hai là gặp được bạn lành nhắc nhở, nhắc nhở họ, đây là điều kiện thứ hai. Điều kiện thứ ba là họ nghe được lời nhắc nhở của bạn lành, lập tức liền có thể sám hối, có thể buông xả tất cả cùng với bạn lành niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Họ phải có đầy đủ ba điều kiện này. Bạn lành nhắc nhở họ, nếu như họ chẳng thèm quan tâm, hoặc là nửa tin nửa ngờ, là hỏng rồi. Thế thì lợi ích của họ không phải ở hiện tiền, nghĩa là “Vừa qua căn tai vĩnh viễn thành hạt giống đạo.” Lợi ích là ở sau này, trong đời này vẫn phải trôi lăn theo nghiệp, là việc rất đáng sợ. Thời khắc này, mỗi người chúng ta đều phải trải qua, không ai có thể tránh khỏi được. Cho nên người thông minh thì trong đời này, phải biết lo tính cho thời khắc này. Lúc còn sống chúng ta thọ những khổ nạn này chẳng có sao cả, thời gian ngắn. Nếu như trong thời khắc này có sai lầm, bạn đọa ác đạo, thì thời gian thọ khổ đó sẽ rất dài. Đây là điểm chúng ta cần phải nhận thức rõ ràng, cần phải có sự cảnh giác cao độ. Phải chăm chỉ nỗ lực đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức ngay trong đời sống hiện tiền. Sao gọi là thiện? Sao gọi là ác? Cái gì là công? Cái gì là đức? Phải hiểu cho thật rõ ràng, minh bạch. Dứt khoát không nên xem tạo tác tội nghiệp là công đức, như thế bạn sẽ chắc chắn đi về địa ngục rồi. Đây là điều chúng ta nhất định phải hiểu rõ ràng, sáng tỏ, mới có thể được độ trong đời này, đời này mới không sống uổng phí.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *