Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 11

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 11

Xin mới xem tiếp kinh văn “Duy nguyện Thế Tôn quảng thuyết Địa Tạng Bồ-tát ma-ha-tát, nhân địa tác hà hạnh, lập hà nguyện nhi năng thành tựu bất tư nghị sự” (Cúi mong đức Thế-Tôn nói rõ nhơn địa của Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát; Ngài tu hạnh gì, lập nguyện gì mà thành tựu được sự không thể nghĩ bàn như thế?)

Đây là Bồ-tát Văn Thù nhìn thấy đại chúng đông đảo hiếm có trong pháp hội lần này, và đương nhiên Ngài biết rất rõ ràng, rất minh bạch. Nhưng phàm phu cõi trời người, Nhị Thừa, cho đến Bồ-tát Quyền Giáo, nhìn thấy sự đông đảo này đều không thể tránh khỏi có nghi hoặc, thậm chí là còn có ý niệm phỉ báng. Tổ sư đại đức căn cứ theo kinh luận nói cho chúng ta biết, nghi hoặc, phỉ báng pháp nhất định đọa địa ngục A-tỳ. Những lời nghi hoặc, phỉ báng như vậy bình thường chúng ta đều không dám nói. Tại sao vậy? Nói ra rồi thì người ta sẽ càng nghi hoặc, càng phỉ báng. Sau khi họ nghe xong sẽ nói: Anh lấy chuyện này để hù dọa người ta, chứ làm gì có tội nặng như vậy? Làm gì có địa ngục? Họ tuyệt đối không thể tiếp nhận, không thể tin. Cho nên những lời này, người tin như chúng ta phải có sự cảnh giác cao độ đối với đại chúng, trừ khi là họ đọc đến đoạn kinh văn này thì ta không thể không nói, không đọc đến đoạn kinh văn này thì chúng ta dứt khoát không nói. Phải biết tại sao không nói? Nói không những không có lợi ích, mà còn giúp người ta tạo tội nghiệp, thì việc gì phải nói? Họ đã bị đọa rất thê thảm rồi, không nên khiến cho họ đọa nặng hơn nữa, đây chính là đại từ đại bi. Cho nên ở đời trược ác, Phật, Bồ-tát không dùng thân tướng của Phật xuất hiện ở thế gian là để giảm bớt sự nghi hoặc, phỉ báng của chúng sanh. Bồ-tát Văn Thù vô cùng từ bi, giúp Thế Tôn ra giáo hóa chúng sanh, giống như hai Ngài đang biểu diễn trên sân khấu vậy, một người hỏi, một người đáp.

Tại sao Bồ-tát Địa Tạng có phước đức, nhân duyên lớn như vậy? Triệu tập được tất cả chư Phật, Bồ-tát và chúng sanh có duyên trong lục đạo tận hư không khắp pháp giới đến tham dự đại hội lần này, đây là việc không thể nghĩ bàn.

Mời xem kinh văn dưới đây:

“Phật cáo Văn Thù Sư Lợi: Thí như tam thiên đại thiên thế giới sở hữu thảo mộc tòng lâm, đạo, ma, trúc, vi, sơn thạch, vi trần, nhất vật nhất số, tác nhất Hằng hà, nhất Hằng hà sa, nhất sa nhất giới, nhất giới chi nội, nhất trần nhất kiếp, nhất kiếp chi nội sở tích trần số tận sung vi kiếp.” (Ðức Phật bảo Ngài Văn-Thù Sư-Lợi rằng: ‘Ví như bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, mè, tre, lau, đá, núi, bụi bặm trong cõi tam thiên đại thiên, cứ một vật làm một sông Hằng, rồi cứ số cát trong mỗi sông Hằng, một hột cát làm một cõi nước, rồi trong một cõi nước cứ một hột bụi nhỏ làm một kiếp, rồi bao nhiêu số bụi nhỏ chứa trong một kiếp đều đem làm kiếp cả.)

Đoạn kinh văn này là Thế Tôn nói ra cho Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi biết sự tích nhân duyên độ hóa chúng sanh của Bồ-tát Địa Tạng trước đây. Nói với Văn Thù Sư Lợi chính là nói với chúng ta. Văn Thù Sư Lợi ở đây là đại biểu cho mọi người chúng ta. Đoạn này trước tiên từ trong ví dụ, số lượng ví dụ không thể nghĩ bàn. Ví dụ này chúng ta không cần giải thích từng câu. Pháp sư Thánh Nhất có nói rõ ở trong Giảng Ký rồi, chúng ta ở đây lược bỏ bớt. Con số này không có cách gì tính được. Người thế gian không thể tính nổi, hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển, máy tính cao cấp nhất cũng không thể tính nổi.

“Địa Tạng Bồ-tát chứng thập địa quả vị dĩ lai thiên bội đa ư thượng dụ.” (Từ lúc Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát chứng quả vị thập địa Bồ Tát đến nay nghìn lần lâu hơn số kiếp tỉ dụ ở trên). Giống như con số ví dụ phía trước, chỗ này là nói Bồ-tát Địa Tạng chứng quả vị thập địa. Từ lúc chứng sơ địa đến thập địa,.hay nói cách khác, trước thập địa đó đều không tính, nếu tính thêm số đó nữa thì sẽ nhiều hơn nữa, đếm không nổi.

“Hà huống Địa Tạng Bồ-tát tại Thanh Văn, Bích Chi Phật địa” (huống là những thuở Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát còn ở bực Thanh-Văn và Bích-Chi-Phật!)

Đây là nói thời gian trước kia không tính, chỉ tính từ lúc chứng được Bồ-tát địa thượng cho đến nay, dùng con số Hằng hà sa kiếp cũng không thể tính được thời gian này. Ví dụ này nói thực ra cũng chỉ có Phật mới có thể nói ra được. Nếu chúng ta dùng ngôn ngữ văn tự để hình dung con số này, thì chúng ta cũng không thể hình dung nổi.

“Văn Thù Sư Lợi, thử Bồ-tát uy thần thệ nguyện bất khả tư nghị.” (Này Văn-Thù Sư-Lợi! Oai-thần thệ nguyện của Bồ Tát đó không thể nghĩ bàn đến được.)

Đây là tán thán Bồ-tát Địa Tạng, uy đức thần thông của Ngài, hoằng thệ của Ngài đều không thể nghĩ bàn. Nhưng quý vị nhất định phải nhớ kỹ, bổn nguyện của Bồ-tát Địa Tạng chính là bổn nguyện trong tự tánh chúng ta. Hay nói cách khác, không có bổn nguyện của Bồ-tát Địa Tạng thì chúng ta chắc chắn không thể chứng được Phật quả viên mãn. Bạn muốn hỏi tại sao? Vì trong tánh đức có khiếm khuyết thì bạn làm sao có thể viên mãn được? Pháp môn Địa Tạng là bài học đầu tiên trong Phật pháp Đại Thừa. Nếu dựa theo thứ tự này để nói thì đây là khóa học nhập môn, khóa học cơ sở, khóa học cần thiết.

“Địa ngục bất không, thệ bất thành Phật” (Địa ngục không trống, thề không thành Phật). Tại sao phát nguyện này vậy? Địa ngục là do tự tánh chúng ta biến hiện ra, không phải đến từ bên ngoài. Mười pháp giới y chánh trang nghiêm đều là do tâm địa biến hiện ra. Trong tâm của bạn còn hiện ra hiện tượng địa ngục, còn hiện ra hiện tượng lục đạo luân hồi thì bạn làm sao có thể chứng được Bồ đề viên mãn? Đây là đạo lý nhất định. Phật pháp là nói lý với bạn, lý chân thật, sự chân thật. Vậy không phát nguyện này có được không? Chúng sanh khổ nạn trong địa ngục còn phải độ thoát vô điều kiện, huống chi những người khổ nạn trước mắt chúng ta có thể không giúp đỡ, không dang tay cứu giúp sao? Có khi chúng ta nhìn thấy người và sự không như ý thì nổi giận. Phải biết đây không phải là lỗi lầm của cảnh giới bên ngoài, mà là lỗi lầm chính chúng ta. Tại sao họ tạo việc ác, tạo tác mọi việc không đúng như pháp vậy? Do bản thân ta tu chưa tốt, ta chưa có làm tấm gương tốt cho người ta, là tội nghiệp của ta. Phải tu từ chỗ này. Bạn còn muốn nổi giận đập bàn với người ta là bạn trên tội lại thêm tội. Bạn không biết chúng sanh từ đâu mà có? Chúng sanh tạo tội nghiệp là do đâu? Phật, Bồ-tát biết, Phật, Bồ-tát một lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh. Chúng ta học Phật bắt đầu học từ đâu vậy? Phải giác ngộ từ chỗ này, thật sự giác ngộ. Người ác đối với chúng ta, chúng ta nên dùng thiện ý giúp đỡ họ. Giúp đỡ mà họ không tiếp nhận cũng không có sao cả. Trong “Kinh Địa Tạng” nói rất rõ ràng, căn cơ của chúng sanh có 4 loại. Không thể tiếp nhận là càng chứng tỏ tội nghiệp của bản thân chúng ta sâu nặng, chúng ta phải tu sám hối từ chỗ này. Cho nên tự độ sau đó mới có thể độ người, đây là đạo lý nhất định.

Phật, Bồ-tát tiếp dẫn chúng sanh cũng không có pháp cố định, có khi cũng nổi giận, cũng trợn mắt, nhưng bạn phải biết, cơn nổi giận đó của các Ngài giúp chúng sanh giác ngộ, giúp chúng sanh sửa lỗi, quay đầu hướng thiện. Còn chúng ta nổi giận thì chúng sanh sinh tâm oán hận, sinh tâm báo thù, thế là bạn sai rồi! Chúng ta ngu si, Bồ-tát có trí tuệ, chúng ta phải biết đối nhân xử thế như thế nào, cho nên đặc biệt đề ra làm thầy, làm mô phạm. Phật, Bồ-tát là thầy của trời người. Khi chúng ta xuất gia, người ta vừa gặp mặt liền chào pháp sư, đều xưng bạn là thầy. Sư chính là mẫu mực, mực thước. Chúng ta khởi tâm động niệm, cử chỉ hành vi có thể làm mẫu mực cho người không? Hôm qua cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói với tôi, tôi mới biết. Cả đời tôi đối với chuyện của bất kỳ người nào từ trước đến nay không bao giờ nghe, không bao giờ hỏi. Ông nói với tôi, sau khi các đồng tu kỳ trước rời đi, họ phải dọn dẹp phòng ốc, nhìn thấy có những thứ không cần đều vứt bừa bãi trong phòng, còn nhìn thấy quả táo mới cắn xong một miếng rồi vứt bỏ. Họ thấy vậy rất buồn. Hành vi như vậy có thể làm tấm gương tốt cho người thế gian không? Chúng tôi nghe xong cũng rất buồn. Chúng tôi không trách các bạn đồng tu, chỉ biết trách mình, do bản thân chúng tôi làm không tốt, nhưng chúng tôi đang nỗ lực cải thiện. Những đạo lý này đều phải biết. Tài vật của thường trụ chúng ta phải biết quý trọng, trân trọng từng li từng tí. Trong đời tôi không xin bất cứ ai một xu nào. Tại sao vậy? Người ta kiếm tiền không dễ dàng, phải biết cảm thông với người khác. Bản thân chúng tôi dùng tiền luôn luôn tiết kiệm. Chúng ta tiết kiệm một đồng chính là đã bố thí một đồng đối với thường trụ, đối với Phật pháp, chúng ta tu phước. Bạn không tu phước, thì phước của bạn từ đâu có? Bạn hôm nay chưa đoạn vô minh, tánh đức của bạn chưa thể hiển lộ, phước báo của bạn đều là do tu mà có, nhất định không dám lãng phí. Đại đức xưa đều làm được. Bạn thấy quy củ của tòng lâm, một cây kim một sợi chỉ, một cọng cỏ, một cành cây, tuy rất nhỏ nhoi nhưng không có cái nào không quý trọng. Đây là tiết kiệm phước! Tiết kiệm phước chính là tu phước. Tất cả mọi lỗi lầm của người hiện nay, nguyên nhân căn bản chính là từ nhỏ không có người dạy, đến khi trưởng thành thì tập khí này đã hình thành rồi. Tập khí hình thành rồi thì rất khó sửa đổi. Cho nên chúng ta cần phải từng giây từng phút đề cao cảnh giác. Tại sao đọc kinh mỗi ngày? Đọc kinh chính là kiểm điểm lại mình, soi lại mình. Dựa theo lời giáo huấn của kinh điển để sửa chữa lỗi lầm, vậy thì chúng ta mới được cứu. Xử thế nên nhẫn nhường, phải nghĩ thay cho người khác, phải nghĩ thay cho sự an toàn của toàn bộ xã hội, đừng nghĩ vì cá nhân. Nghĩ cho cá nhân thì không có cái nào không phải tội lỗi, không phải nghiệp. Mình hằng ngày đang tạo tội nghiệp mà không biết, còn cho rằng mình đã tu công đức. Đây là nói xen qua chuyện khác một chút, nhưng cũng rất quan trọng.

Chúng ta xem tiếp kinh văn: “Thử Địa Tạng Bồ-tát uy thần thệ nguyện bất khả tư nghị.” (Oai thần thệ nguyện của Bồ-tát Địa Tạng đây không thể nghĩ bàn đến được.)

Chúng ta phải biết hàm nghĩa sâu xa trong câu nói này là gì? Chúng ta học tập từ chỗ nào? Xem tiếp kinh văn dưới đây:

“Nhược vị lai thế, hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân văn thị Bồ-tát danh tự, hoặc tán thán, hoặc chiêm lễ, hoặc xưng danh, hoặc cúng dường, nãi chí thái họa khắc lũ, tố tất hình tượng, thị nhân đương đắc bách phản sanh ư tam thập tam thiên, vĩnh bất đọa ác đạo.” (Về đời sau, nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào nghe danh tự của Ðịa-Tạng Bồ Tát, hoặc khen ngợi, hoặc chiêm ngưỡng vái lạy, hoặc xưng danh hiệu, hoặc cúng dường, nhẫn đến vẽ, khắc, đắp, sơn hình tượng của Ðịa-Tạng Bồ Tát, thời người đó sẽ được một trăm lần sanh lên cõi trời Ðao-Lợi, vĩnh viễn chẳng còn bị sa đọa vào chốn ác đạo)

Phật nói lời này là thật, không phải giả. Phật không có nói lời giả dối. Có rất nhiều người đọc đến kinh này, cho rằng tạo một chút tội nghiệp không có sao cả, chúng ta chỉ cần cúng dường Bồ-tát Địa Tạng thì tương lai còn được sanh lại 100 lần về cõi trời thứ ba mươi ba, vĩnh viễn không bị đọa đường ác. Đây là hiểu sai ý kinh. Sau đó lại bị đọa vào đường ác bèn phỉ báng cho rằng lời Phật Thích Ca Mâu Ni nói trong kinh không đáng tin, là giả, lừa dối chúng tôi. Phỉ báng Phật, Pháp, Tăng lại bị đọa địa ngục A-tỳ, họ không biết ý nghĩa Phật nói ở chỗ này.

“Văn thị Bồ-tát danh tự”. Ở trong chữ Văn này là có tư – tu, tam tuệ của Bồ-tát. Bạn nghe thấy danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, ý nghĩa danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng là gì? Bạn phải thật sự hiểu được mới gọi là văn danh (nghe tên). Hoàn toàn không hiểu ý nghĩa của danh hiệu là gì thì chưa có văn. Thật sự hiểu rồi, nghe thấy danh hiệu này liền tương ưng với kho báu tâm địa của mình, như vậy gọi là văn danh. Ý nghĩa của “Xưng tán” là gì vậy? Xưng tán chính là giảng giải “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện”, đây là xưng tán. Phật Thích Ca Mâu Ni xưng tán tại cung trời Đao Lợi, khuyến khích mình, khuyến khích đại chúng học tập theo Bồ-tát Địa Tạng, như vậy là xưng tán. Chiêm lễ, xưng danh, cúng dường phía sau đó là tu hành chân chánh. Chiêm lễ là chiêm ngưỡng, lễ kính, biểu hiện ở chỗ nào vậy? Biểu hiện ở đối với cha mẹ, đối với sư trưởng. Tinh thần của Bồ-tát Địa Tạng là “Hiếu thân tôn sư” (Hiếu với cha mẹ, tôn kính thầy cô), sau đó đem tâm hạnh hiếu thân tôn sư này mở rộng ra, hiếu kính tất cả chúng sanh. Đây là bổn nguyện của Địa Tạng, như vậy mới làm việc chiêm lễ được viên mãn. Có tâm khinh mạn đối với một chúng sanh nào là không phải tu hạnh Địa Tạng. Nhìn thấy chiêm lễ cứ nghĩ là thờ cúng một bức tượng Bồ-tát Địa Tạng, mỗi ngày cúi lạy mấy cái cho là xong rồi. Đâu có đơn giản như vậy! Đó là hoàn toàn hiểu sai nghĩa chân thật của Như-lai. Phật nói không sai, do bạn hiểu sai. Đây là lý do Phật ở trong tất cả kinh nhiều lần khuyến khích chúng ta phải hiểu sâu nghĩa thú. Bạn hiểu càng sâu, bạn sáng tỏ càng thấu triệt, thì bạn làm mới viên mãn. Chỉ hiểu ở bề ngoài của văn tự, thế là hoàn toàn sai rồi. Cổ đức thường nói: “Hiểu nghĩa theo câu chữ, thì oan cho ba đời chư Phật”. Đây là ba đời chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều bị oan, vì bạn giải sai, hiểu lầm lời của Phật rồi. Ngày nay có bao nhiêu người hiểu sai vậy? Bạn muốn hỏi họ tại sao hiểu sai? Họ chưa có làm được. Chỉ có khi nào làm được, thì mới có thể thể hội tinh tế, mới có thể thể hội đến chỗ sâu kín được. Bạn không làm thì làm sao được? Bạn làm được một phần thì bạn thể hội được một phần, thể hội được một phần, bạn lại làm được một phần, giải và hành bổ trợ cho nhau. Giải giúp cho hành, hành giúp cho giải, luân chuyển thâm nhập như vậy mới có thể vào đến chỗ sâu rộng được.

“Xưng danh” là xưng danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng. Ở trong đây có hai tầng công đức: Tự lợi là nhắc nhở mình, niệm niệm không rời pháp môn Địa Tạng, cũng chính là niệm niệm không rời pháp môn tâm địa, đây là đức tự lợi. Đức lợi tha là niệm niệm làm thức tỉnh chúng sanh có duyên. Nói thực ra ngày nay chúng sanh có duyên ít, quá ít. Được mấy người nghe thấy danh hiệu này liền giác ngộ? Tuy họ không giác ngộ nhưng cũng phải khiến cho họ nghe thấy, vì như vậy là đã gieo xuống hạt giống danh hiệu vào trong a-lại-da thức. Vừa qua căn tai mãi mãi là hạt giống đạo, dù đời này không được lợi ích, có lẽ nhiều đời nhiều kiếp về sau nữa nếu gặp được duyên thì hạt giống này sẽ nảy mầm. Đây là làm lợi ích lâu xa cho tất cả chúng sanh, lợi ích trong tương lai. Chúng sanh căn tánh chín mùi sẽ được lợi ích ngay hiện tại, vừa nghe xong họ liền biết tu học như thế nào.

“Cúng dường”, quý vị nhất định phải biết, trong các sự cúng dường điều quan trọng nhất là “y giáo tu hành cúng dường”. Trong hạnh nguyện Phổ Hiền nói với chúng ta rất rõ ràng, hết thảy cúng dường tài vật không bằng cúng dường pháp. Cúng dường pháp, trong “Phẩm Hạnh Nguyện” đã nêu ra 7 loại lớn: Điều thứ nhất chính là “như giáo tu hành cúng dường”. Nếu chúng ta không thể tu hành như những gì đã dạy, thì sự cúng dường đó là giả. Không phải cúng dường một chút hương hoa, trái cây, cho rằng đó là tôi hằng ngày đang cúng dường Phật, vậy đây là sai rồi. Chúng ta thấy những vị đại đức, tổ sư đại đức tu hành chân chánh, trong Phật đường của các Ngài không có gì cả, hương hoa, trái cây đều không có. Họ làm ở chỗ nào vậy? Chúng ta nhìn thấy trong Phật đường của người ta, đồ cúng chỉ có một ly nước, đốt một ngọn đèn dầu, ngoài ra chẳng có gì cả. Người ta là thật sự cúng dường, là y giáo tu hành cúng dường.

Phía sau là cúng dường mở rộng ra, nghĩa rộng của cúng dường, tạo hình tượng Bồ-tát. Vẽ tranh cũng tốt, điêu khắc cũng tốt. “Khắc lũ” chính là khắc gỗ. “Tố tất” là đắp nặn. Đắp bằng xi măng cũng được, đúc bằng kim loại cũng được. Đây là cúng dường mở rộng. Khiến cho tất cả chúng sanh có cơ duyên nghe được danh hiệu Bồ-tát, nhìn thấy hình tượng Bồ-tát, gieo thiện căn cho họ. Bản thân hành Bồ-tát đạo, Bồ-tát làm như thế nào, chúng ta làm như thế ấy, đó gọi là hành Bồ-tát đạo. Khuyến hóa tất cả chúng sanh, phước đức như vậy thì mới sanh lại 100 lần cõi trời thứ ba mươi ba vĩnh viễn không bị đọa đường ác. Bạn thử nghĩ xem, tại sao họ không bị đọa đường ác? Do không tạo nghiệp ác. Người tu hạnh Bồ-tát Địa Tạng làm sao có thể tạo nghiệp ác được? Tuy hạt giống tạo nghiệp ác trong đời quá khứ còn đó, nhưng ác duyên trong đời này đều đoạn hết rồi, họ học theo Bồ-tát, niệm Bồ-tát, là tâm Bồ-tát, là hạnh Bồ-tát, là ngôn ngữ của Bồ-tát, ở trong thập pháp giới này, những duyên trong lục đạo đều dứt hết, thì họ làm sao có thể bị đọa đường ác được? Đây là lẽ đương nhiên. Đạo lý này chúng ta nhất định phải biết rõ, phải sáng tỏ.

Xem tiếp Thế Tôn nói cho chúng ta biết nhân duyên trước kia của Bồ-tát Địa Tạng, ý nghĩa này rất sâu.

“Văn Thù Sư Lợi” (Này Văn Thù Sư Lợi).

Trong kinh Phật phàm là vừa mở đầu đã gọi tên của người đương cơ, thì kinh văn sau đó là vô cùng quan trọng, gọi tên là để nhắc cho người đó biết phía dưới có lời khai thị quan trọng, nhắc nhở họ chú ý.

“Thị Địa Tạng Bồ-tát ma-ha-tát ư quá khứ cửu viễn bất khả thuyết, bất khả thuyết kiếp. (Trong kiếp quá khứ lâu xa bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp về trước, Bồ-tát Địa Tạng ma-ha-tát)

Câu này dứt ở chỗ này là rất hay. Bất khả thuyết, bất khả thuyết kiếp, thời gian này là quá dài, quá dài, không thể nói hết.

“Tiền thân vi đại trưởng giả tử” (tiền thân làm một vị đại trưởng giả).

Người xưa có cái ý này, thân phận trước đây của ngài là vị đại trưởng giả tử. “Đại trưởng giả tử”, rất nhiều người chúng ta hiểu sai về ngài, nghĩ ngài là con trai của đại trưởng giả. Nhưng trên thực tế chữ “Tử” này là cách tôn xưng của người Trung Quốc xưa đối với người khác, như Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử. Xưng tử là tôn xưng. Đại trưởng giả tử, chữ Tử này chính là chữ Tử trong Khổng Tử, Mạnh Tử, chữ tử đó là cách xưng hô tôn kính. Nếu dùng cách nói hiện đại để nói, tử chính là tôn kính. Nếu chúng ta dùng cách nói hiện đại để nói là tôn kính đại trưởng giả, thêm chữ tôn kính này vào phía trước. Trước đây chữ tôn kính này để ở phía sau, tôn kính đại trưởng giả.

“Thời thế hữu Phật” (Đời lúc bấy giờ có đức Phật)

Vào lúc đó, thế gian này có một đức Phật.

“Hiệu viết: Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như-Lai” (Danh hiệu là: Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như-Lai)

“Sư Tử Phấn Tấn” là ví dụ. Sư tử là vua trong các loài thú. “Cụ túc vạn hạnh” là nói Bồ-tát tu hành công đức viên mãn, chứng được Phật quả vô thượng. Đây là ý nghĩa đơn giản của danh hiệu.

“Thời trưởng giả tử, kiến Phật tướng hảo, thiên phước trang nghiêm, nhân vấn bỉ Phật, tác hà hạnh nguyện, nhi đắc thử tướng” (Trưởng Giả tử thấy đức Phật tướng mạo tốt đẹp nghìn phước trang nghiêm, mới bạch hỏi đức Phật tu hạnh nguyện gì mà đặng tốt đẹp như thế?)

Đây là chỗ học tập của chúng ta. Vào lúc này vị trưởng giả tôn kính nhìn thấy Sư Tử Phấn Tấn Như-Lai “Tướng hảo” quang minh nên sinh tâm ưa thích, thỉnh giáo đức Phật tướng tốt này của Ngài do đâu mà có. Tướng hảo rất quan trọng. Chúng ta là đệ tử Phật ở trong xã hội này, nếu như không có hình ảnh tốt thì chúng ta là diệt Phật pháp. Xuất gia đâu phải chuyện dễ. Cổ đức thường nói: “Trước cửa địa ngục Tăng đạo nhiều”. Thông thường trong xã hội, người thế gian tạo nghiệp địa ngục không dễ, chứ người xuất gia tạo nghiệp địa ngục quá dễ dàng. Tại sao vậy? Khi không có hình ảnh tốt, thì bạn là người diệt Phật pháp, tội nghiệp này của bạn là đọa địa ngục A-tỳ. Tại sao vậy? Khiến cho đại chúng trong xã hội phỉ báng Phật pháp. Người ta vừa nhìn thấy hình ảnh này của bạn liền khinh chê bạn, coi thường bạn, phỉ báng bạn, vậy là có thể phỉ báng hết thảy toàn bộ Phật pháp rồi. Bạn thấy tội nghiệp này của bạn có dễ sợ không? Chư Phật, Bồ-tát là chuẩn mực tốt nhất, hình ảnh tốt nhất trong chín pháp giới. Hình ảnh của Phật có thể khiến cho trưởng giả tử, Trưởng giả tử, xưng là tử là đã được mọi người tôn kính rồi, là người có học vấn, có đức hạnh, người như vậy nhìn thấy hình ảnh của Phật còn sinh tâm tôn kính đối với Phật, còn muốn đến học tập. Bạn nói hình ảnh này tốt cỡ nào? Chúng ta ngày nay ở trong xã hội, không xuất gia thì không sao cả, bạn xuất gia rồi, bạn nhất định phải học hình ảnh của Phật, phải đầy đủ hình ảnh Bồ-tát, nếu không thì tại gia học Phật cũng được, việc gì phải tạo tội nghiệp, việc gì phải tạo nghiệp phỉ báng Phật, Pháp, Tăng này. Điều này quan trọng. Chúng tôi ngày nay giảng “Kinh Hoa Nghiêm”, “Kinh Hoa Nghiêm” rất dài, “Hoa Nghiêm” đến cuối cùng 53 lần tham vấn không những là yêu cầu người xuất gia, mà người tại gia học Phật cũng giống như người xuất gia học Phật vậy, đều phải làm nên hình ảnh tốt nhất cho đại chúng xã hội. Nếu bạn làm không được, thì bạn không phải là đệ tử Phật, mà là đội lốt đệ tử Phật, là đệ tử Phật giả, tạo vô lượng vô biên tội nghiệp, quả báo ở tam đồ, vô cùng đáng sợ. Việc này chúng ta không thể không biết. Đã học Phật rồi, thì tâm địa nhất định phải thanh tịnh, bình đẳng, giác, phải dập tắt tham sân si. Còn muốn tranh lợi với người, còn cái này tốt, cái kia không tốt là tâm luân hồi, tạo nghiệp luân hồi. Nghĩ đến tâm Phật thanh tịnh biết bao, không nhiễm mảy bụi, thường xuyên nghĩ đến chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Chân tướng là ba tâm không thể được, chư pháp vô sở hữu, cho nên ở trong ngoài đều có thể đạt được thanh tịnh. Bên trong một niệm không sinh, bên ngoài không nhiễm mảy bụi, đây là Phật, Bồ-tát, như vậy mới có thể sống được đời sống đích thực. Chúng ta thường nói là đời sống chân, thiện, mỹ, tuệ đích thực, đời sống hạnh phúc, mỹ mãn đích thực, không giả chút nào cả. Phật Bồ-tát là sống đời sống như vậy. Chúng ta sống đời sống như thế nào? Bên trong khởi tâm động niệm, bên ngoài chỗ nào cũng phan duyên, chúng ta sống là đời sống phiền não, đời sống nghiệp chướng, là sống đời sống luân hồi. Nói lời hơi khó nghe nữa là, sống đời sống trong đường ác. Chúng ta đọc đến câu này, thấy Phật đem điều này đặt ở điều thứ nhất trong nghiệp nhân của Bồ-tát Địa Tạng, là có dụng ý rất sâu. Quý vị bất luận là tại gia học Phật hay xuất gia học Phật, nhất định phải làm tấm gương tốt cho xã hội, nhất định phải có hình ảnh tốt.

“Thiên phước trang nghiêm”, không chỉ có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, chúng ta không nói đến ngàn phước trang nghiêm, chỉ nói 32 tướng tốt. 32 tướng từ đâu mà có vậy? 32 tướng là tướng phước đức. Bạn không tu phước thì bạn không thể có được tướng tốt này. Thiện gồm có hữu lậu và vô lậu. Chúng ta ngày nay không làm được việc tu thiện vô lậu, việc này quá cao, vì tập khí phiền não của chúng ta chưa có đoạn trừ. Bắt đầu học từ đâu vậy? Bắt đầu học từ thiện hữu lậu. Nhất định phải đoạn ác tu thiện. Tiêu chuẩn của pháp thế gian chúng ta có thể làm được chính là người thiện trong thế gian, chính là tấm gương tốt của người thế gian. Tướng lưỡi rộng dài của Phật là do công đức không nói dối mà thành tựu. Tư Mã Quang của Trung Quốc thời xưa, có lẽ hầu hết mọi người đều biết. Biệt hiệu của Tư Mã Quang là Quân Thật, nghĩa là quân tử, thành thật, ông thật sự làm được. Lúc về già ông tự soi lại, thấy mình cả đời không nói dối, lời nói việc làm cả đời của mình, ông nói rằng: “Không có việc gì mà không nói cho mọi người biết”, việc cả đời ông làm không có gì là mờ ám cả, không có làm việc gì mà không nói cho mọi người biết. Ông cũng là người quy y tam bảo, là hình ảnh tốt của người tại gia. Chúng ta ngày nay nói lời thành thật, học Phật kiểu gì không biết? Mỗi ngày đọc tụng đại thừa, hằng ngày phải nghiêm túc soi lại, nghiêm túc kiểm điểm, không quan tâm đọc kinh luận nhiều hay ít, chỉ cần trong đời làm được một vài câu thì suốt đời thọ dụng không có cùng tận. Phật nói với chúng ta cội rễ chính yếu của tu hành, nói thực ra chính là tịnh nghiệp tam phước. Khi triển khai tịnh nghiệp tam phước ra chính là toàn bộ Phật pháp. Phật pháp vô lượng vô biên khi cô đọng lại chính là 11 câu đó, nhất định không được xem nhẹ. Và trong 11 câu đó đem nó quy nạp tiếp nữa, nói thực ra chính là một câu hiếu dưỡng cha mẹ, chỉ một câu này. Ngàn kinh vạn luận, vô lượng vô biên pháp môn mà chư Phật Như-lai nói đều không thể ra khỏi 4 chữ này. Chúng ta nói tam học, nói lục hòa, nói lục độ, nói thập nguyện đủ dạng phương pháp tu hành đều là thực tiễn cho hiếu kính, thực tiễn trong đời sống chúng ta, thực tiễn trong việc đối nhân xử thế của chúng ta, là thật sự học Phật. Thật sự học Phật thì phải sửa đổi hình ảnh, sửa đổi tâm tính, sửa đổi hành vi, đây gọi là học Phật chân chánh. Hằng ngày đọc kinh, thậm chí là hằng ngày giảng kinh thuyết pháp mà tâm tính không sửa đổi, vẫn giữ tâm thế tục, vẫn giữ tâm luân hồi, vẫn giữ tâm tham sân si mạn thì nguy hiểm biết bao! Đây là tu giả, không phải thật. Thật sự xả niệm thanh tịnh, niệm niệm lợi ích tất cả chúng sanh, không phải vì mình. Chúng ta đọc thấy trong “Kinh Hoa Nghiêm”, nếu vì mình thì Ngài sẽ trụ vào đại Niết bàn, như thế tự tại biết bao! Vì chúng sanh thì phải tùy loại hóa thân, không từ mọi gian lao, đây là quan niệm của người thế tục chúng ta, chứ Phật Bồ-tát không có vất vả. Tại sao không có vất vả vậy? Phật, Bồ-tát vô ngã. Có ngã mới có vất vả, còn vô ngã làm gì có vất vả? Chúng ta đọc câu này thấy muôn vàn cảm khái, chúng ta làm thế nào để học được hình ảnh Phật, Bồ-tát. Nếu không nghiêm túc y giáo phụng hành thì làm sao được?

Chúng ta xem tiếp kinh văn dưới đây:

“Thời Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như-lai cáo trưởng giả tử: Dục chứng thử thân đương tu cửu viễn độ thoát nhất thiết thọ khổ chúng sanh .”( Khi ấy, đức Sư-Tử Phấn-Tấn Cụ Túc Vạn-Hạnh Như-Lai bảo Trưởng Giả tử rằng: ‘Muốn chứng được thân tướng tốt đẹp này, cần phải trải qua trong một thời gian lâu xa độ thoát tất cả chúng sanh bị khốn khổ).

Đây là nguồn gốc bổn nguyện của Bồ-tát Địa Tạng. Quý vị nhất định phải nhớ kỹ, đạo tràng hiện nay xây dựng không giống như trước đây. Trước đây làm đúng như pháp, toàn bộ tất cả chùa Phật xây dựng đều tương ưng với nghĩa thú của pháp tượng trưng. Hiện nay không đủ điều kiện. Đạo tràng chính quy vừa bước vào cửa là điện Thiên Vương, người gặp đầu tiên là Bồ-tát Di Lặc. Bồ-tát Di Lặc dạy bạn điều gì vậy? Sinh tâm bình đẳng, hiện tướng vui vẻ. Phật pháp là lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa. Bồ-tát Di Lặc là đại biểu cho từ bi làm gốc. Tứ Đại Thiên Vương là đại biểu cho phương tiện, phương tiện làm cửa, điện Thiên Vương là dạy chúng ta điều này. Bạn vào đạo tràng, mỗi ngày đều phải đi qua cửa này, hằng ngày tiếp nhận sự huân tập, hun đúc này, khiến cho bạn hồi tâm chuyển ý. Chúng ta ngày nay ai hiểu được? Ai có tâm từ bi? Ai có cửa phương tiện? Phương tiện không phải là thuận tiện cho bản thân chúng ta, thế là sai rồi, mà là thuận tiện cho tất cả chúng sanh, khiến cho họ được thuận tiện. Ta phải hành từ bi, không được điên đảo. Họ hành từ bi còn ta được thuận tiện, thế là bạn điên đảo rồi. Nhất định phải phát tâm. Tâm này chính là tâm đại Bồ đề, chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, đặc biệt là tất cả chúng sanh thọ khổ. Chúng sanh thọ khổ là chỉ chỗ nào vậy? Chỉ lục đạo, đặc biệt là chỉ tam đồ. Quý vị nên biết, chúng sanh tam đồ ở đâu vậy? Là ở xung quanh chúng ta, thậm chí là bao gồm cả chúng ta. Tâm tham là đường ngạ quỷ, sân hận là đường địa ngục, ngu si là đường súc sanh. Tâm của chúng ta là tham sân si, nói năng tham sân si, hết thảy tạo tác không có lìa khỏi tham sân si, nên nghiệp chúng ta tạo là ba đường ác. Bồ-tát Địa Tạng có năng lực, hóa thân vào ba đường ác để độ thoát chúng sanh. Chúng ta ngày nay không có năng lực này. Chúng ta không có năng lực nhưng phải độ những chúng sanh này, dù họ vẫn chưa có bước vào ba đường ác, nhưng chúng ta phải độ họ vì họ đang tạo nghiệp nhân ba đường ác này. Nên biết những chúng sanh này là chúng sanh khổ nạn, không nên cho rằng trong những người này hiện nay rất giàu sang phú quý. Người thế gian nhìn thấy họ giàu sang phú quý tột bực, nhưng trong mắt Phật nhìn thấy họ là chúng sanh đường ác. Chúng ta làm sao độ họ vậy? Trước tiên mình phải xả bỏ tham sân si. Nói vô ích, phải làm nên tấm gương để cho người ta thấy. Ta xả bỏ tham sân si, không cần tham sân si nhưng đời sống của ta cũng rất tự tại, sống cũng khá tốt, khiến cho họ soi lại từ những chỗ này, giác ngộ từ những chỗ này. Phần trước Phật nói phải xây dựng hình ảnh. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” bạn thấy pháp tượng trưng khi vừa mở đầu, trước tiên là nói đến đại địa, tâm địa, thứ hai là nói về cây báu. Ý nghĩa của cây báu là gì vậy? Là dựng nên tấm gương tốt nhất. Hết thảy chúng sanh ở thế giới này hay phương khác không có người nào không yêu thích cỏ cây hoa lá, nên Phật dùng phương pháp này để làm ví dụ. Chúng ta cần xây dựng tấm gương tốt nhất, khiến cho người ta sau khi tiếp xúc sinh tâm vui thích.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *