Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Tập 87

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập

Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.

Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051

Tập 87 

Xin mời mở bản kinh ra, phần khoa chú quyển hạ, trang 51. Mời xem kinh văn:

  “Ư đảnh môn thượng phóng như thị đẳng hào tướng quang dĩ, xuất vi diệu âm cáo chư đại chúng:  Thiên long bát bộ, nhân phi nhân đẳng vv… Thính ngã kim nhật ư Ðao Lợi thiên cung, xưng dương tán thán Ðịa Tạng Bồ Tát ư nhân thiên trung lợi ích đẳng sự, bất tư nghị sự, siêu thánh nhân sự, chứng thập địa sự, tất cánh bất thoái A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề sự”.

 (Từ trên đảnh môn phóng ra những luồng ánh sáng như thế xong, lại nói ra những tiếng rất vi diệu mà bảo đại chúng rằng: ‘Này tám bộ chúng Trời, Rồng, người cùng phi nhơn v.v…! Lóng nghe hôm nay ta ở tại cung trời Đao Lợi tuyên bày ngợi khen những sự lợi ích trong hàng trời người, những sự không thể nghĩ bàn, những sự về nhơn hạnh lên bực Thánh, những sự chứng quả Thập Địa, những sự rốt ráo không lui sụt nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác… của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát’.)

  Phần trước chúng ta xem thấy Thế Tôn phóng quang. Câu thứ nhất là tổng kết tướng lành phóng quang ở phía trước. Tiếp theo đó đức Phật bèn nói với mọi người, Ngài dùng âm thanh vi diệu. Hàm nghĩa trong “Âm thanh vi diệu” sâu rộng vô hạn. Trong một âm có hàm chứa tất cả âm, trong mỗi một âm hàm chứa tất cả sự. Cho nên gọi nó là âm thanh vi diệu. Ngài nói với những đại chúng trong pháp hội này, bao gồm cả thiên long bát bộ, nhân và phi nhân vv… Đây đều là những đại chúng do Bồ Tát Địa Tạng giáo hóa. “Thính ngã kim nhật ư Ðao Lợi thiên cung, xưng dương tán thán Ðịa Tạng Bồ Tát.” (Lóng nghe hôm nay ta tuyên bày ngợi khen Bồ Tát Địa Tạng ở tại cung trời Đao Lợi .) Câu nói này là tổng kết từ khi bắt đầu pháp hội cho đến hiện nay, toàn bộ kinh văn mà đức Phật nói đều là tán dương khen ngợi Bồ Tát Địa Tạng. Mấy câu dưới đây là tổng kết: “Ư nhân thiên trung, lợi ích đẳng sự.” (Những sự lợi ích trong hàng trời người) Phía dưới là nói rất cụ thể, tổng kết toàn kinh. Câu này là kết danh, cũng chính là nói giáo. Chúng ta dùng bốn hạng mục: giáo, lý, hành, quả này để nói. Đây là giáo. Lần này tại Úc Châu chúng ta đã tổ chức hai mươi ngày tham học, quan sát sự phổ biến đa nguyên văn hóa ở Úc Châu hiện nay, dần dần đã thấy có thành quả rồi. Chúng ta xoay trở lại thử xem nền giáo dục của nhà Phật, thấy kinh điển Đại Thừa đích thực là tài liệu giảng dạy lý tưởng cho những ai theo đuổi, dấn thân, hướng về công việc đa nguyên văn hóa thế gian. “Ư nhân thiên trung, lợi ích đẳng sự” (Những sự lợi ích trong hàng trời người.) Nhân thiên là nói cõi trời, cõi người, cũng chính là chỉ trong lục đạo. Trong lục đạo đương nhiên là một dạng thức sinh hoạt chung đa nguyên văn hóa. Bồ Tát Địa Tạng, Thích Ca Thế Tôn làm thế nào có thể đối với hết thảy chúng sanh khác nhau, chủng loại khác nhau, dân tộc khác nhau, cách thức sống khác nhau, thậm chí là tư tưởng kiến giải khác nhau, tín ngưỡng khác nhau, có thể giúp họ xóa bỏ những thứ khác nhau đó của họ, giúp họ dung hợp thành một thể cộng đồng. Thể cộng đồng chính là nhất chân pháp giới. Thể đa nguyên khác nhau chính là thập pháp giới. Chúng sanh trong thập pháp giới cuối cùng đều quay về nhất chân pháp giới, đây là lợi ích chân thật, đây là cách chỉ dạy phương tiện khéo léo, trí tuệ cao độ của Thế Tôn. Cho nên nền giáo dục Phật pháp, đức Phật dạy chúng ta điều gì? Đây là điều chúng ta nhất định phải biết. Thứ nhất đức Phật dạy chúng ta cách làm sao chung sống giữa con người với nhau. “Lục hòa kính” chính là sự chỉ dạy của đức Phật. Nếu như chúng ta không thể chung sống được với người, thì còn bàn gì đến thành tựu nữa? Giữa con người với nhau vô cùng phức tạp. Nói lời thành thật mỗi người, mỗi chúng sanh đều là một hình thể đa nguyên văn hóa. Bởi vì mỗi người, mỗi chúng sanh trong đời quá khứ, đời đời kiếp kiếp luân hồi trong lục đạo, nên trong a-lại-da-thức hàm chứa rất nhiều chủng tử tập khí khác nhau. Há chẳng phải là một kết cấu đa nguyên văn hóa sao? Huống gì là sống chung với đại chúng? Phải làm sao chung sống, là cả một sự học vấn. Có thể xóa bỏ kỳ thị, xóa bỏ hiểu lầm, xóa bỏ ngăn cách, tôn kính lẫn nhau, quan tâm lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau, đây là sự kỳ vọng của đức Phật đối với chúng ta, đặc biệt là tu học Đại Thừa. Trong kinh thường hay chỉ dạy chúng ta: “Tâm bao thái hư, lượng chu sa giới” (Tâm lượng bao trùm hư không khắp các cõi giới) Trong cảnh giới của tất cả chúng sanh, vẫn còn vạch ra ranh giới, vậy là sai rồi, là đi ngược lại với lời giáo huấn của đức Phật, đi ngược lại sự chỉ dạy của Bồ Tát. Cho nên học Phật điều đầu tiên phải mở rộng tâm lượng, phải bao dung tất cả thì bạn mới có thể vào cửa Phật, bạn mới có thể hiểu được lời Phật dạy, vậy mới cho chúng ta lợi ích chân thật, lợi ích cho mình, lợi ích cho xã hội, lợi ích cho tất cả chúng sanh. Ý trong kinh nói là những việc này. Câu thứ hai nói “Bất tư nghị sự” (Những sự không thể nghĩ bàn) đây là tổng kết từ trên thể. Lý chỉ là một. Tại sao đủ thứ khác nhau họ có thể dung hợp thành một thể? Bởi vì lý chỉ có một. Tướng thì có đủ dạng, sự có đủ dạng, dụng có đủ dạng, nhưng lý thể chỉ có một, cho nên có thể quy về một. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói: “Một tức là nhiều, nhiều tức là một”. Họ có thể quy về một, bởi vì thể là một. Giống như biển, biển là thể, bọt nước nổi trong biển, nổi lên hàng nghìn hàng vạn bọt nước, mỗi bọt nước khác nhau, mỗi bọt nước có hình tròn nhỏ riêng biệt. Nhưng bọt nước từ đâu mà có? Đều dựa vào biển mà có. Chúng sanh mê, mê mất rồi, không biết thể là một, cho nên mới sinh ra đủ thứ hiểu lầm. Nếu như biết được thể là một thì tâm bình đẳng, thanh tịnh, từ bi tự nhiên sẽ sinh khởi. Cho dù là oan gia đối đầu cũng biết thể của chúng ta vẫn là một. Lìa khỏi lý thể rồi thì làm gì hiện tướng được? Thể là gì? Chân như bản tánh. Chân như bản tánh không thể nghĩ bàn. “Bất tư nghị sự” (Những sự không thể nghĩ bàn) là tổng kết thể.

  “Siêu thánh nhân sự, chứng thập địa sự.” (Những sự về nhơn hạnh lên bực Thánh, những sự chứng quả Thập Địa) Đây là nói về hạnh, cũng là tổng kết Tông. Tông chính là phương pháp tu học, cương lĩnh tu học của chúng ta. Đây là hạnh. “Siêu thánh nhân” (Nhân hạnh lên bậc thánh) Là nhân hạnh mà Bồ Tát tu. “Chứng thập địa” (Chứng quả thập địa) là quả. Tu nhân chứng quả. Thập địa cho dù là Bồ Tát Biệt Giáo cũng là vào nhất chân pháp giới rồi. Thoát khỏi thập pháp giới, đây là khế nhập nhất chân pháp giới. Nếu như nói Bồ Tát Tam Hiền, thì phải là Bồ Tát Tam Hiền viên giáo mới thoát khỏi thập pháp giới. Nếu như là Bồ Tát Tam Hiền Biệt Giáo thì vẫn còn ở trong thập pháp giới. Nói thập địa thì chắc chắn là thoát khỏi thập pháp giới rồi, người này là vào một, vào nhất chân pháp giới rồi. Câu sau cùng là tổng kết dụng: “Tất cánh bất thoái A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề sự” (Những sự rốt ráo không lui sụt nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác..) Cái tổng kết này, không chỉ là tổng kết những gì Thế Tôn dạy cho chúng ta trong pháp hội Địa Tạng. Nói thật ra những gì Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra trong bốn mươi chín năm, cũng có thể dùng mấy câu này để tổng kết. Đức Phật dạy cho chúng ta cũng chỉ là dạy mấy việc này. Thậm chí là những gì mà tất cả Như Lai mười phương ba đời dạy cho tất cả chúng sanh cũng không thể ra khỏi cái tổng kết này. Hiểu rõ ý nghĩa mấy câu nói ở trong đây, thì chúng ta sẽ hiểu đức Phật dạy cho chúng ta, là dạy cho chúng ta cách làm người, biết được quan hệ giữa người với người, biết làm sao chung sống với người. Thứ hai là biết được mối quan hệ giữa người với thiên nhiên. Hiện nay chúng ta gọi là môi trường tự nhiên, sinh thái của môi trường tự nhiên. Chúng ta làm thế nào chung sống với thiên nhiên, chung sống với những động vật, thực vật, đất đai núi sông này. Thiên nhiên yêu thương bảo vệ chúng ta, thì chúng ta cũng phải yêu thương bảo vệ thiên nhiên. Thiên nhiên có cống hiến đối với chúng ta. Việc ăn mặc, chỗ ở, đi lại của chúng ta đều phải dựa vào sinh vật tự nhiên. Chúng ta làm sao báo đáp thiên nhiên, có người nào nghĩ đến không? Đức Phật nghĩ đến rồi, Bồ Tát nghĩ đến rồi. Kế đến thứ ba là con người làm sao chung sống với quỷ thần? Sự chỉ dạy của nhà Phật chính là dạy những việc này. Ba phương diện này, chỉ cần một phương diện có lỗi lầm, thì sẽ gây nên phiền phức rồi. Đó chính là trong nhà Phật gọi là tạo nghiệp. Ba phương diện này xử lý rất hài hòa thì đó chính là công đức, tu tích công đức. Khi có một phương diện bị khiếm khuyết liền tạo nghiệp. Ba phương diện này muốn xử lý cho thật hài hòa, trước tiên là cần phải hiểu rõ, cần phải sáng tỏ về môi trường, chân tướng sự thật. Đức Phật giảng kinh thuyết pháp cho chúng ta chính là nói rõ về những chân tướng sự thật này, dạy chúng ta làm thế nào chung sống hài hòa với người, với vật, với sự, với trời đất quỷ thần. Cũng chính là mục tiêu mà người hiện đại theo đuổi đa nguyên văn hóa, mục tiêu này đều có ở trong Phật pháp Đại Thừa. Hy vọng mọi người cần thể hội thật kỹ kinh điển Đại Thừa. Tại sao chúng ta không thể hội được? Là do không có làm thiết thực, cho nên bạn không thể hội được. Ở trong đời sống thường ngày vẫn cứ thuận theo phiền não của mình, thuận theo tập khí của mình, vậy là không được rồi. Đừng nói bạn xem kinh văn không hiểu, xem chú giải cũng không hiểu, mà những điều tôi giảng đây bạn vẫn không hiểu. Bạn có thể thể hội được là ở bề ngoài, chỉ là ở ngoài da, chứ chưa thẩm thấu vào bên trong được một phân nào. Kinh điển nhà Phật, tôi đã nói qua với quý vị rồi, từng câu từng chữ đều sâu rộng không bờ bến. Làm sao thâm nhập? Thảy đều phải dựa vào công phu tu trì. Bạn có một phần công phu, thì bạn sẽ thấy ra được một phần, là khế nhập được một phần. Nếu không có công phu chân thật thì không được. Công phu chân thật bắt đầu làm từ đâu vậy? Bắt đầu làm từ đoạn ác tu thiện. “Siêu thánh nhân sự, chứng thập địa sự” (Những sự về nhơn hạnh lên bực Thánh, những sự chứng quả Thập Địa) là chúng ta phải làm được. “Bất tư nghị sự” (Những sự không thể nghĩ bàn) là chúng ta phải thể hội được. “Nhân thiên lợi ích đẳng sự” (Những sự lợi ích trong hàng trời người.) là chúng ta phải học tập. Bạn mới đạt được đại dụng rốt ráo viên mãn. Đó là rốt ráo không lui sụt nơi đạo Bồ-đề vô thượng. Chú giải của pháp sư Thanh Liên, quý vị hãy tự mình xem, Ngài chú giải cũng hay vô cùng. Mời xem kinh văn dưới đây:

  “Thuyết thị ngữ thời, hội trung hữu nhất Bồ Tát Ma Ha Tát, danh Quán Thế Âm, tùng tòa nhi khởi, hồ quỳ hiệp chưởng, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn, thị Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, cụ đại từ bi lân mẫn tội khổ chúng sanh ư thiên vạn ức thế giới, hóa thiên vạn ức thân, sở hữu công đức cập bất tư nghị oai thần chi lực.”

  (Lúc Đức Phật nói lời trên đó vừa dứt tiếng, trong Pháp-hội có một vị đại Bồ Tát hiệu là Quán Thế Âm từ chỗ ngồi đứng dậy, quì gối chắp tay mà bạch cùng Đức Phật rằng: ‘Bạch đức Thế-Tôn! Ngài Địa-Tạng Bồ Tát đầy đủ đức từ bi lớn, Ngài thương xót chúng sanh mắc tội khổ ở trong muôn nghìn ức thế giới, ngài hóa hiện ra nghìn ức thân bao nhiêu công đức và sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn của Ngài.)

 Chúng ta chỉ xem đến chỗ này. Đây là Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong đại hội, Bồ Tát Quán Âm cũng tham gia pháp hội này, cũng là một trong những thính chúng của pháp hội này. Ngài nghe thấy Thế Tôn hết sức tán dương Bồ Tát Địa Tạng. Sau khi nghe xong Ngài cũng đứng lên, đại biểu cho chúng Bồ Tát tán dương về Bồ Tát Địa Tạng. Pháp hội này chúng ta cần lưu ý học tập. Lúc đầu pháp hội mở đầu là như thế nào? Khi pháp hội sắp viên mãn là kết thúc như thế nào? Điều này chúng ta phải học tập. Pháp hội trong pháp thế gian trước tiên nhất định phải có diễn văn khai mạc, sau khi kết thúc hội cũng có một bài cảm tạ. Lần này chúng tôi đến Tịnh Tông Học Hội Tây Úc, tôi không biết tình hình ở nơi đó, nó vừa mới thành lập. Nhưng trên thực tế lúc chúng tôi đến thăm, duyên của nó chưa có chín muồi, vì họ thành lập quá sớm. Chí ít họ phải học ba năm, sau ba năm tiếp đó thành lập Tịnh Tông Học Hội vậy mới đúng như pháp. Pháp hội của chúng tôi mở đầu và kết thúc đều rất đột ngột. Phần trước không có giới thiệu, sau cùng cũng không có kết thúc, thành ra không có lề lối gì cả. Đây là lần đầu tiên gặp phải trong đời tham gia rất nhiều pháp hội của tôi. Bản thân họ không có kinh nghiệm, cũng chưa từng tham gia bất kỳ hoạt động pháp hội nào, cho nên họ hoàn toàn không biết gì về nghi thức này, thật sự là không biết bắt đầu từ đâu. Họ chiêu đãi chúng tôi rất nhiệt tình, chúng tôi rất cảm ơn. Hội trưởng của họ tiễn tôi ra phi trường và có đến hỏi tôi. Họ nói xin lỗi tiếp đãi không được chu đáo? Tôi nói tiếp đãi rất chu đáo, chúng tôi vô cùng cảm ơn, nhưng pháp hội không chu đáo, cần cố gắng học tập. Họ muốn tìm thời gian đến Singapore để học một ngày. Tôi trả lời, không được! Một ngày mà anh học được, thì anh là thiên tài. Thật sự muốn học được, thì ít nhất phải ở lại Singapore ba tháng. Đâu có chuyện một ngày là có thể học được? Nếu như nói lãnh đạo một đoàn thể, giúp cho một khu vực học Phật, đó là Bồ Tát phát tâm, chứ không phải làm việc bằng tình cảm được. Thật sự phải khiêm tốn học tập. Từ chỗ này thấy khi pháp hội này sắp kết thúc thì Bồ Tát Quán Thế Âm đại biểu cho chúng Bồ Tát đứng lên đọc lời cảm tạ. Mọi người đều rất quen thuộc Bồ Tát Quán Âm, danh tiếng của Ngài xếp ở hàng đầu. Rất nhiều người không biết Bồ Tát Địa Tạng, nhưng không có ai mà không biết Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán Âm đứng ra khen ngợi là có ý nghĩa rất sâu.

  “Bồ Tát bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thị Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát cụ đại từ bi” (Bồ Tát bạch với đức Phật rằng: Thưa Thế-Tôn! Ngài Địa-Tạng Bồ Tát đầy đủ đức từ bi lớn) Lời này được nói ra từ miệng Bồ Tát Quán Thế Âm. Vậy thì ai mà không tin? Chúng ta đều biết Bồ Tát Quán Thế Âm đại từ đại bi, Bồ Tát Quán Âm khen ngợi Bồ Tát Địa Tạng đại từ bi. Hơn nữa việc thực tiễn đại từ bi của Bồ Tát Địa Tạng không thua kém Bồ Tát Quán Thế Âm. “Ư thiên vạn ức thế giới” (Ở trong nghìn muôn ức thế giới). “Nghìn muôn ức” không phải là con số, nó là hình dung từ, đây là miêu tả vô lượng vô biên thế giới, nơi nào có chúng sanh thì nơi đó có Bồ Tát Địa Tạng. “Hóa thiên vạn ức thân sở hữu công đức, cập bất tư nghị uy thần chi lực.” (Ngài hóa hiện ra nghìn muôn ức thân bao nhiêu công đức và sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn của Ngài.) Hai câu nói này chính là nội dung mà Thế Tôn nói trong bộ kinh này. Công đức với phước đức chúng ta cần phải có năng lực biện biệt. Đoạn ác tu thiện, y giáo phụng hành quý vị thử nghĩ xem là phước đức hay là công đức? Nếu như bạn vẫn còn: “Tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả” thì những gì bạn tu là phước đức, không thể ra khỏi Tam Giới. Nếu như bạn tu hành lìa bốn tướng, thì đó là công đức. Trong hội Kim Cang đức Phật dạy chúng ta phải dùng: “Không tướng ngã, không tướng nhân, không tướng chúng sanh, không tướng thọ giả để tu các việc thiện.” Đó là công đức. Chúng ta thử nghĩ những việc mà chúng ta ngày nay tu là gì? Thật sự tu hành đều rơi vào bên phía phước đức này, không phải công đức. Khởi tâm động niệm vẫn còn chấp ngã, niệm niệm đều là vì ta, ta lúc nào cũng đặt lên hàng đầu. Quý vị phải biết chấp ngã là nghiệp nhân gốc rễ của luân hồi. Chỉ cần bạn có ngã thì không thể nào thoát khỏi lục đạo luân hồi. Tu thiện nghiệp lớn đi nữa, cũng chỉ là hưởng phước trong lục đạo. Hưởng hết phước rồi vẫn phải bị đọa lạc, phải hiểu được đạo lý này. Điều này ở phần trước cũng đã giảng rất rõ ràng với quý vị rồi. Lục đạo, thập pháp giới từ đâu mà có? Có ba nhân tố cơ bản tạo nên lục đạo là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bạn thảy đều có cả. Đây chính là biến nhất chân pháp giới thành lục đạo. Nếu như bạn phá sạch chấp trước, bạn vẫn còn vọng tưởng, phân biệt, thì bạn không còn lục đạo nữa, nhưng còn thập pháp giới. Pháp giới Tứ Thánh trong thập pháp giới gồm: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, bạn sống ở trong đây. Tiếp đó có thể xả sạch hết phân biệt, thì bạn thoát khỏi thập pháp giới, là vào nhất chân pháp giới rồi. Trong nhất chân pháp giới, chúng ta xem thấy trong “Kinh Hoa Nghiêm”, còn có bốn mươi mốt cấp bậc, bốn mươi mốt quả vị pháp thân đại sĩ. Bốn mươi mốt cấp bậc do đâu mà có? Hình thành như thế nào? Do vọng tưởng. Vọng tưởng chính là vô minh. Phá một phẩm vô minh thì cảnh giới của bạn sẽ được nâng lên một cấp. Bốn mươi mốt phẩm vô minh phá hết rồi, hoàn toàn không còn vọng tưởng nữa, bạn đã chứng được đại viên mãn, đó là quả vị Như Lai viên giáo. Đạo lý và chân tướng sự thật này, chúng ta phải biết. Sau khi biết rồi sau đó mới hiểu được dụng ý mà Thế Tôn dạy chúng ta lìa bốn tướng. Bốn tướng không thể không lìa, không được phép không lìa, không lìa thì không thể ra khỏi lục đạo luân hồi. Chúng ta ngày nay khởi tâm động niệm thấy cái này ưa thích, thấy cái kia chán ghét là đều tạo lục đạo luân hồi, dù hằng ngày niệm Phật A Di Đà thì vẫn là tạo lục đạo luân hồi. Bạn cho rằng bạn có thể vãng sanh à? Không thể vãng sanh. Người có thể vãng sanh thật sự đã lìa bốn tướng, tâm địa thật sự thanh tịnh, “Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”. Rất nhiều người đới nghiệp vãng sanh, người một niệm đến mười niệm lúc lâm chung vãng sanh. Nếu một niệm đến mười niệm của họ tương ưng với bốn tướng, một niệm cuối cùng lúc lâm chung vẫn là có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì không thể vãng sanh được. Trước đây Lão Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam thường nói trong một vạn người niệm Phật thì chỉ được vài ba người có thể vãng sanh mà thôi. Nguyên nhân gì vậy? Chưa đoạn dứt được ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Chúng ta muốn trong đời này thật sự vãng sanh, thì phải luyện tập khi nào? Phải luyện tập ngay bây giờ, đừng chờ đợi. Hiện nay tôi vẫn chưa có đến lâm chung, lúc đến lâm chung hãy lìa. Lúc lâm chung bạn có nắm chắc là mình lìa nổi không? Lúc bình thường phải nên làm thật. Đối với tình cảm trong thế gian, thông thường chúng ta nói kết tình phải đạm bạc, càng đạm bạc càng tốt. Niệm niệm vì chúng sanh, vì xã hội, không nên nghĩ cho mình. Nghĩ cho mình liền tạo nghiệp, liền tạo tội ngay. Người khác đều vì mình đó là việc của họ. Họ muốn tạo lục đạo luân hồi, thì ngay cả đức Phật cũng không làm gì được, huống gì ta? Việc tu hành chứng quả phải dựa vào nỗ lực của cá nhân mình, chứ không có ai giúp gì được. Phật Bồ Tát đại từ đại bi cũng không giúp gì được, đây là việc của bản thân bạn. Mười pháp giới là mười con đường bày ngay trước mắt chúng ta, bản thân bạn muốn đi con đường nào? Đức Phật nói rõ cho chúng ta biết, để tự bạn lựa chọn. Mình muốn thuận theo phiền não, thuận theo tập khí thì đại đa số là đi vào ba ác đạo. Thật sự giác ngộ, xả ly hết thảy phiền não, thuận theo lời chỉ dạy của Phật Bồ Tát thì thành tựu công đức. Nên công đức với phước đức chúng ta cần phải biện biệt, phải biết rõ ràng. “Cập bất tư nghị uy thần chi lực” (Và sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn) Đây là nói Bồ Tát Địa Tạng, Ngài đặc biệt là ở trong lục đạo, siêng năng, vất vả dạy dỗ, dùng trí tuệ và phương tiện khéo léo viên mãn giúp đỡ chúng sanh, đặc biệt là chúng sanh trong ác đạo. Xem tiếp kinh văn dưới đây:

  “Ngã văn Thế Tôn dữ thập phương vô lượng chư Phật dị khẩu đồng âm tán thán Địa Tạng Bồ Tát vân. Chánh sử quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật thuyết kỳ công đức do bất năng tận.”

  (Con đã từng nghe đức Thế-Tôn cùng vô lượng chư Phật trong mười phương, khác miệng đồng lời ngợi khen Ngài Địa-Tạng Bồ Tát. Dầu cho các Đức Phật trong thuở quá khứ, thuở hiện tại và thuở vị lai nói công đức của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát vẫn chẳng thể nói hết.)

  Chân tướng sự thật này chúng ta nghe được từ trong chính miệng Bồ Tát Quan Thế Âm nói ra. Không chỉ có một mình đức Phật Thích Ca Mâu Ni khen ngợi Bồ Tát Địa Tạng, mà vô lượng chư Phật trong mười phương khác miệng đồng lời, không có vị nào không khen ngợi Bồ Tát Địa Tạng. Và công đức của Bồ Tát Địa Tạng, tất cả chư Phật Như Lai cùng nhau khen ngợi cũng không thể nói hết. “Chánh sử quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật” (Dầu cho các Đức Phật trong thuở quá khứ, thuở hiện tại và thuở vị lai.) Chính là tất cả chư Phật ba đời trong mười phương nói về công đức của Bồ Tát Địa Tạng cũng không thể nói hết. Địa Tạng đại biểu cho điều gì? Quý vị phải biết, hiếu thảo cha mẹ, tôn kính thầy tổ. Công đức của Bồ Tát Địa Tạng chính là công đức hiếu thảo cha mẹ, tôn kính thầy tổ. Phần trước đã từng báo cáo qua với quý vị rồi. Tại sao sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ, Ngài không đem việc giáo hóa chúng sanh này phó thác cho những Bồ Tát khác, mà phải đặc biệt phó thác cho Bồ Tát Địa Tạng? Tại sao không phó thác cho Bồ Tát Quán Âm? Phần trước cũng đã nói với quý vị rồi. Nếu phó thác cho Bồ Tát Quán Âm, thì Bồ Tát Quán Âm không làm được. Phó thác cho Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền thì Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền cũng làm không được. Phó thác cho Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Địa Tạng là người hiếu kính, hiếu kính là gốc. Bồ Tát Quán Âm là người phát huy hiếu kính rạng rỡ thêm. Bạn không có gốc thì phát huy rạng rỡ từ đâu đây? Cho nên nhất định phải hiểu được đạo lý này. Sau đó bạn mới biết, chúng ta học Phật phải bắt đầu học từ đâu? Bắt đầu học từ hiếu thảo cha mẹ, tôn kính thầy tổ. Ngày nay xã hội loạn động, nguồn gốc của loạn động do đâu vậy? Do mê mất Địa Tạng, không biết hiếu thảo cha mẹ, tôn kính thầy tổ. Cho nên sự an nguy của một xã hội, sự ổn định hay loạn lạc của một xã hội, phước hay họa của một xã hội có gốc ở gia đình. Mà gốc của gia đình là ở vợ chồng. Nền giáo dục thế gian hay xuất thế gian đều hiểu đạo lý này, đều đã tốn biết bao nhiêu tâm huyết để vun bồi gốc rễ này, hy vọng mọi người giác ngộ. Hai vợ chồng kết hợp với nhau, đó không phải là chuyện của hai người, bạn phải có trách nhiệm với toàn xã hội. Vợ chồng bạn bất hòa thì gia đình bị tan vỡ. Khi gia đình tan vỡ thì xã hội sẽ loạn động, người trên toàn thế giới gặp tai ương, bị vạ lây. Ai hiểu được đạo lý này? Bạn thấy nền giáo dục của đức Phật coi trọng gia đình biết bao. Nền giáo dục Nho gia chú trọng: “Giữ vẹn luân thường, làm tròn bổn phận”. Xã hội hiện nay loạn động là do mọi người lơ là đi giáo dục gia đình. Cho nên nếu không biết nguồn gốc của tất cả loạn động, tất cả tai biến từ đâu mà ra? Thì làm sao bạn có thể ngăn ngừa được? Làm sao bạn có thể cứu vớt được? Người trong gia đình hội tụ với nhau tất nhiên là có nhân tố. Trong kinh đức Phật nói con người tụ hội với nhau có bốn loại nguyên nhân: Báo ơn, báo oán, đòi nợ, trả nợ. Ơn ơn oán oán không bao giờ dứt, đây là chân tướng sự thật. Tại sao con người phải tiếp nhận giáo dục? Tại sao phải tiếp nhận giáo huấn của thánh hiền? Vì thánh hiền hiểu rõ chân tướng sự thật. Sau khi bạn hiểu rõ rồi, bạn mới có thể hóa giải, cho dù người trong gia đình đến là để báo oán. Ở Trung Quốc tấm gương đứng đầu là vua Thuấn. Gia đình của vua Thuấn là đến để báo oán, đó không phải là báo ơn. Gia đình bất hòa, Thuấn Ngài có trí tuệ, Ngài biết giữ trọn chữ hiếu, có thể hóa giải oán kết cho gia đình có nhiều oan gia hội tụ, có thể làm cho người trong gia đình tôn trọng, yêu thương, hợp tác lẫn nhau. Trong Phật pháp gọi người này là Bồ Tát. Bồ Tát nhìn thấy oan gia trái chủ họ không tránh né, không phải vậy, mà làm sao hóa giải nó. Tránh né không thể giải quyết vấn đề, vì đời sau, đời sau nữa vẫn phải gặp nhau. Nhất định phải biết hóa giải. Cho nên mới nói oan gia nên hóa giải chứ không nên kết. Nhỏ thì người trong gia đình, phải có trí tuệ, phải có tâm nhẫn nại để hóa giải, cởi mở oán kết, bồi dưỡng ơn nghĩa, thì gia đình bạn tự nhiên hòa thuận. Hòa thuận thì gia đình này của bạn sẽ hưng vượng. Ở trong đây có đạo lý lớn. Bồ Tát Địa Tạng giáo hóa chúng sanh, lợi ích công đức của khái niệm cơ bản, khóa học cơ sở này, cho dù chư Phật Như Lai ba đời cũng khen ngợi không hết. Sau đó Bồ Tát Quán Âm lại nói:

  “Hướng giả hựu mông Thế Tôn phổ cáo đại chúng, dục xưng dương Địa Tạng lợi ích đẳng sự.”

  (Vừa rồi lại được đức Thế-Tôn bảo khắp trong đại chúng rằng đức Phật muốn tuyên nói các sự lợi ích của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát.)

  Trong chú giải nói rất hay. Ở trong từ “Hướng giả” này có nghĩa xa, có nghĩa gần. Gần chính là văn tự của phẩm này. Xa là khen ngợi văn tự của phần mở đầu phẩm, đoạn này ở trang hai mươi lăm của quyển trung.

  “Duy nguyện Thế Tôn vị hiện tại vị lai nhất thiết chúng sanh, xưng dương Địa Tạng bất tư nghị sự, lịnh thiên long bát bộ chiêm lễ hoạch phước.”

  (Cúi mong đức Thế-Tôn vì tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai mà tuyên nói những sự chẳng thể nghĩ bàn của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát, làm cho tám bộ chúng Trời, Rồng,v.v…chiêm ngưỡng lễ lạy Ngài Địa-Tạng Bồ Tát để đặng phước lành’.)

 Không những Bồ Tát Quán Âm chứng minh cho chúng ta, mà còn khải thỉnh cho chúng ta. Lời khải thỉnh của Ngài: “Vị hiện tại, vị lai nhất thiết chúng sanh.” (Vì tất cả chúng sanh thuở hiện tại và vị lai.) “Hiện tại” là người tham dự pháp hội lúc đó. “Vị lai” là bao gồm chúng ta ở trong đó. Ngày nay chúng ta đọc đến kinh điển này, nghiên cứu đoạn kinh văn này, bao gồm ở trong câu kinh văn này. Thỉnh Thế Tôn giới thiệu tiếp cho chúng ta những việc làm không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Địa Tạng. Mục đích là để cho những vị quỷ thần hộ pháp Thiên Long Bát Bộ này chiêm lễ được phước. “Chiêm lễ” là gì? Là sinh khởi tâm hiếu kính. Khi cái tâm này sinh lên liền được phước. Quỷ thần sinh tâm, thì quỷ thần được phước. Chúng ta sinh tâm thì chính chúng ta được phước. Dưới đây đây là Thế Tôn tiếp nhận lời khải thỉnh của Bồ Tát Quán Âm, thuyết pháp cho chúng sanh.

 “Phật cáo Quán Thế Âm Bồ Tát: “Nhữ ư Sa Bà thế giới hữu đại nhân duyên”

  (Đức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát: ‘Ông có nhơn duyên rất lớn với chúng sanh trong cõi Ta Bà.)

  Đức Thế Tôn nhân dịp này trước tiên có lời tán dương khen ngợi Bồ Tát Quán Âm. Bồ Tát Quán Âm có duyên rất sâu dày với thế giới này của chúng ta. “Đức Phật không độ được người không có duyên”. Cho nên chúng ta học Phật thì phải biết kết pháp duyên với tất cả chúng sanh. Ý nghĩa này chúng ta phải hiểu rõ, là kết pháp duyên, chứ không nên kết tình duyên. Kết “Tình” thì cả đời sẽ phiền phức to, đời đời kiếp kiếp trói buộc không dứt, như thế sẽ tạo vô lượng vô biên tội nghiệp, phải thọ khổ báo trường kiếp, tuyệt đối không nên làm. Nên kết pháp duyên. Pháp duyên là đem Phật pháp giới thiệu cho họ, giúp họ nhận biết Phật pháp, giúp họ hiểu rõ Phật pháp, giúp họ tu học Phật pháp, đây gọi là kết pháp duyên. Vĩnh viễn giữ tâm mình luôn thanh tịnh, bình đẳng, giác, ở trong đây tuyệt đối không sinh yêu ghét, đây chính là pháp duyên. Nếu như ở trong đây có ưa thích, có chán ghét, vậy là biến thành tình duyên rồi, vô cùng vô cùng đáng sợ. Cho nên từ xưa đến nay biết bao nhiêu đại đức tại gia, xuất gia kết duyên với tất cả chúng sanh, đã biến pháp duyên thành tình duyên, đều bị đọa lạc cả, có quá nhiều quá nhiều. Cho nên Bồ Tát Đại Thừa nếu không có định tuệ tốt, thì trái lại không bằng Tiểu Thừa. Tiểu Thừa họ không giảng kinh, không thuyết pháp, họ xa lìa đại chúng xã hội, chỉ hoàn thiện cho bản thân, họ không dễ gì đọa vào ác đạo. Bồ Tát Đại Thừa ở chung với đại chúng, gọi là “Hòa quang đồng trần”. Nếu như mình không có định tuệ, mình không trụ được vào trong niệm Phật Tam Muội, vẫn cứ thuận theo tập khí phiền não, thì không có ai không đọa lạc. Giảng kinh thuyết pháp, tu tất cả việc thiện đều biến thành phước báo hữu lậu. Cho dù chúng ta phát tâm tu thiện, nói thực ra cũng không phải là chuyện dễ dàng. Thiện đó có phải là thiện chân thật không? Nếu như quý vị đọc qua “Liễu Phàm Tứ Huấn”, tiên sinh Liễu Phàm nói rất hay: Thiện có thiện thật, có thiện giả, có thiện lớn, có thiện nhỏ, có thiện lệch, có thiện viên mãn, ông đã nói rất nhiều. Bạn biết được đâu là thiện thật? Hiện nay chúng ta nhìn thấy thế gian có rất nhiều người thật tâm muốn làm một chút việc tốt. Nhưng do không có con mắt trí tuệ, nên không biết được ruộng phước chân chánh, ngược lại họ đem tiền của sức lực đi tạo hết thảy tội lỗi. Cho dù không phải cố ý, trong tâm họ là muốn tu thiện, nhưng kết quả lại biến thành ác. Tuy họ không có tội, nhưng có lỗi, phải xem sức ảnh hưởng về sau của việc họ tạo tác. Nếu như ảnh hưởng rất nặng nề, to lớn, thì vẫn là có tội. Việc này chúng ta không thể không cẩn thận. Làm sao có thể biện biệt đây? Phương pháp duy nhất là đọc tụng kinh Đại Thừa, thì chúng ta mới có thể thấy rõ ràng mọi sự mọi vật. Hiện nay có rất nhiều người đều cho rằng xây đạo tràng là việc tốt. Ở trong kinh này Bồ Tát Địa Tạng cũng có dạy chúng ta xây đạo tràng, tu bổ đạo tràng cũ được công đức rất lớn. Nhưng bạn phải nghĩ xem “Đạo tràng”, nó có đạo hay không? Không phải nói xây một ngôi chùa như vậy gọi là đạo tràng. Chung quy lại nơi này có đạo hay không? Nếu như không có đạo, bạn xây dựng ở đó, để cho nhiều người đến tranh, đến tranh đoạt, để cho những người đó họ đến tạo tội nghiệp. Vậy bạn có lỗi lầm hay không? Việc này không thể không cẩn thận. Cho nên cả đời tôi đối với việc này tôi rất chú ý cẩn thận, không dám làm cái việc này. Sau khi bạn xây rồi, người trong đạo tràng này nhiều, mỗi người đều ở trong đây tranh quyền đoạt lợi, vậy là biến nơi đây thành nơi tạo tác tội nghiệp, không bằng không làm. Cho nên tôi thường hay khuyên mọi người in kinh bố thí, việc này không có lỗi lầm. Kinh chúng ta in, người ta cầm đi bán, bán cũng tốt. Có người mua nó thì có người đọc, việc này không có tội lỗi, chỉ có lợi ích, chứ không có tội lỗi. Chúng ta nhất định phải hiểu rõ, phải sáng tỏ. Nói thực ra những sự thật này, chúng ta hơi lưu ý một chút cũng có thể thấy rất rõ ràng. Mình phải thường xuyên soi lại, việc chúng ta tạo tác là công đức hay là tội lỗi. Trong Phật pháp nói là có đúng như pháp hay không? Đây là điểm chúng ta phải coi trọng. Tuyệt đối không được làm việc theo tình cảm. Hôm nay chúng tôi tại đạo tràng Cư Sĩ Lâm Singapore này, tôi khuyên mấy vị đồng tu phát tâm hộ trì. Đây là lần đầu tiên trong hơn bốn mươi năm học Phật của tôi. Bởi vì tôi nhìn thấy ở nơi đây, trong đạo tràng này có đạo, có học. Nơi có đạo, có học bạn hộ trì là công đức, là việc tốt. Nếu như ở nơi đây không có đạo, không có người tu học đúng như pháp, vậy người hộ trì cho nơi này là có vấn đề. Cho nên chúng ta phải thật bình tĩnh quan sát xem những gì họ nghĩ, họ nói, họ làm có tương ưng với trong kinh Phật nói hay không. Kinh điển là tiêu chuẩn. Đem tiêu chuẩn này đi đo lường thì chúng ta tự nhiên sẽ hiểu rõ ngay, không cần đi hỏi người khác. Chúng ta đời này trong mấy chục năm ngắn ngủi, gặp được cơ duyên này nên làm một chút việc tốt, đây là việc rất có ý nghĩa, rất có giá trị.  Phật ở chỗ này, đây là thuận tiện tán dương khen ngợi Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán Âm cũng có nhân duyên lớn với thế giới Ta Bà, giống như Bồ Tát Địa Tạng vậy.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *