KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 15
Xin mời mở bản kinh ra, phẩm thứ hai: Phân Thân Tập Hội, bắt đầu xem từ đoạn thứ hai:
“Nhĩ thời Thế Tôn thư kim sắc tý ma bách thiên vạn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết vô lượng a-tăng-kỳ thế giới chư phân thân Địa Tạng Bồ-tát ma-ha-tát đảnh” (Bấy giờ Thế Tôn giơ tay sắc vàng xoa đảnh của hóa thân Địa Tạng đại Bồ-tát trong trăm nghìn muôn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết, vô lượng vô số thế giới.)
Lần trước giảng đến chỗ này. Ý nghĩa ở trong đây rất sâu. Từ trong lời khai thị của Thế Tôn, chúng ta liền biết, phân thân của Bồ-tát Địa Tạng thật sự là vô lượng vô biên. Tại sao Bồ-tát phải dùng nhiều phân thân như vậy? Chúng ta phải nghĩ đến vấn đề này. Tất nhiên là chúng sanh tạo tác ác nghiệp trong tất cả mười phương thế giới quá nhiều quá nhiều rồi, nên Bồ-tát Địa Tạng mới phải dùng phân thân để độ hóa. Đây là biểu thị ý nghĩa này, người tạo tác ác nghiệp vô lượng vô biên.
Thế Tôn nói tiếp:
“Nhi tác thị ngôn: Ngô ư ngũ trược ác thế giáo hóa như thị cang cường chúng sanh, lệnh tâm điều phục xả tà quy chánh, thập hữu nhất nhị thượng ác tập tại.” (Mà dạy rằng: Ta ở trong đời ác ngũ trược giáo hóa những chúng sanh cang cường như thế, làm cho lòng chúng nó điều phục bỏ tà về chánh; nhưng trong mười phần vẫn còn một hai phần chúng sanh quen theo tánh ác.)
Phật an ủi Bồ-tát Địa Tạng. Bồ-tát Địa Tạng từ bi đến cực điểm, cùng chung một đạo lý, Phật Thích Ca Mâu Ni cũng là từ bi đến cực điểm. Bồ-tát phân thân vô lượng vô biên, Phật lại có khác gì đâu? Chúng ta xem thấy trong “Kinh Phạm Võng” trăm ngàn ức hóa thân [của] Phật Thích Ca Mâu Ni. Bồ-tát Địa Tạng cũng giống như Thế Tôn vậy, chúng ta bèn liên tưởng đến, hết thảy chư Phật Như-lai không có vị nào không như vậy. Sự thật này nói với chúng ta rằng, số lượng Phật, Bồ-tát còn nhiều hơn cả số lượng chúng sanh tạo tội nghiệp. Tâm đại từ đại bi này, chúng ta không thể tìm ra ngôn từ nào để tán thán được. Nhưng chúng sanh thật sự là ương ngạnh khó giáo hóa, tập khí quá nặng. Phật, Bồ-tát giáo hóa chúng sanh, dạy họ bỏ tà về chánh, “Thập hữu nhất nhị thượng ác tập khí tại” (Nhưng trong mười phần vẫn còn một hai phần chúng sanh quen theo tánh ác.) Hay nói cách khác, Phật Bồ-tát độ thoát được bảy – tám phần, số người được độ thoát như vậy chẳng phải rất nhiều sao? Bảy – tám phần. Quí vị nên biết, số người nói ở đây là chúng sanh căn cơ chín muồi, người căn cơ chưa chín muồi thì không nói, [đây] là chỉ chúng sanh căn cơ chín muồi. Cũng chính là nói thiện căn, phước đức của họ chín muồi rồi, Phật, Bồ-tát đến tạo tăng thượng duyên cho họ, là có ý nghĩa này. Phần lớn những người này đều có thể tiếp nhận Phật pháp y giáo phụng hành, nhưng vẫn còn một hai phần, số ít người tập khí ác vẫn còn. Chúng ta xem thấy trong “Kinh Hoa Nghiêm” có mười loại chúng, trong đó liệt kê ra mười loại lớn đến nghe kinh trong những đoàn thể nhỏ, chúng ta có thể nhận biết được. Trên thực tế trong đạo tràng của chúng ta cũng có thể nhận thấy được. Nếu họ không có thiện căn phước đức, chúng ta giảng kinh ở đây họ làm sao có thể đến nghe được? Họ nghe cũng rất chăm chú, dường như tu hành cũng rất cố gắng, nhưng một lát thì tập khí xấu lại nổi lên. Những người này là thuộc vào “một hai phần” này. Loại người này đời này có thể được độ hay không vậy? Không thể được độ, chỉ là gieo thiện căn mà thôi, nên Phật giao phó loại chúng sanh này cho Bồ-tát Địa Tạng, Phật vẫn chưa có độ hết những người căn tánh chưa chín muồi này, muốn Bồ-tát Địa Tạng độ tiếp cho đến khi Phật Di Lặc ra đời.
Chúng ta xem tiếp đoạn kinh văn này dưới đây:
“Ngô diệc phân thân thiên bách ức quảng thiết phương tiện” (Muốn độ chúng đó, Ta cũng phân nghìn trăm ức thân lập ra nhiều phương chước.)
Phật Thích Ca Mâu Ni ở đây đã nói ra rồi, phía trước là nói tổng quát, chỗ này là nói tỉ mỉ, phân căn tánh chúng sanh ra thành bốn loại. Ba loại phía trước trong bốn loại này đều được độ, loại sau cùng là “một hai phần” này. [Phật] nói cụ thể ra cho chúng ta:
“Hoặc hữu lợi căn, văn tức tín thọ” (Trong chúng sanh đó, hoặc có người căn tánh sáng lẹ nghe pháp của Ta thời liền tín nhận.)
Đây là người căn tánh thượng thượng, vừa tiếp xúc Phật pháp họ liền tin, liền tiếp nhận, y giáo phụng hành ngay, nên họ được độ rồi. Đây là chúng sanh được độ vào thời Chánh Pháp.
Loại thứ hai:
“Hoặc hữu thiện quả, cần khuyến thành tựu” (Hoặc có người phải ân cần khuyên bảo mới thành tựu, được thiện quả.)
Thiện căn phước đức cũng khá là sâu dày, nhưng cũng không bằng hạng người phía trước đó. Nếu như chúng ta phân chia theo ba thời kỳ pháp vận của Phật, thì đây là nhóm người được độ vào thời tượng pháp, căn tánh họ sáng lẹ hơn nhiều so với chúng ta hiện nay.
“Hoặc hữu ám độn, cửu hóa phương quy.” (Hoặc có kẻ ám độn, giáo hóa thật lâu mới có thể quay về.)
Đây là người căn tánh ám độn. “Ám” là không có trí tuệ. “Độn” là căn tánh không lanh lợi. Đối với loại chúng sanh này, Phật không từ bỏ. “Cửu hóa” nghĩa là dùng thời gian rất dài để giúp đỡ họ. Chúng ta thường nói, thâm nhập một môn, trường kỳ huân tu, họ từ từ mới có thể giác ngộ được. Đây là thuộc vào nhóm chúng sanh thời kỳ mạt pháp.
“Hoặc hữu nghiệp trọng bất sanh kính ngưỡng” (Hoặc có kẻ vì tội nghiệp quá nặng nên chẳng đem lòng kính tin ngưỡng mộ.)
Đây không phải chỉ người bên ngoài, mà là chỉ tứ chúng đệ tử trong cửa Phật chúng ta, thậm chí là cũng xuất gia, cũng thọ giới, cũng làm pháp sư, cũng làm trụ trì rồi, nhưng đối với Phật pháp không có lòng kính tin ngưỡng mộ. Tuy nhìn thấy tượng Phật cũng đảnh lễ, cũng bái lạy mà tuyệt đối không chịu y giáo phụng hành, đây chính là không có lòng kính tin ngưỡng mộ. Có lòng kính tin ngưỡng mộ thì chắc chắn là y giáo phụng hành, còn họ không chịu làm. Phật dạy chúng ta không tham, nhưng vẫn cứ tham không bỏ; Phật dạy chúng ta không si, nhưng vẫn cứ ngu si như thường, loại này chính là không sinh lòng kính tin ngưỡng mộ. Tại sao không có lòng kính tin ngưỡng mộ? Nghiệp chướng nặng. Lời Phật dạy tuy họ có nghe, họ cũng biết nói, nhưng họ có hoài nghi, họ coi trọng lợi ích trước mắt, lợi ích trước mắt không không chịu từ bỏ, không chịu buông xả, cũng tranh danh đoạt lợi giống như người thế gian vậy, lỗi lầm là ở chỗ này. Chúng sanh loại này, như vừa rồi có nói, thuộc vào “một hai phần” sau cùng. Họ tiếp xúc Phật pháp, gieo các thiện căn trong Phật pháp, nhưng đời này không thể thành tựu. Đây là nhóm sau khi pháp của Thế Tôn diệt rồi, đến vị Phật kế tiếp là Di Lặc thành Phật…
Khi nào Bồ-tát Di Lặc thành Phật vậy? Trong “Kinh Di Lặc Hạ Sanh” nói cho chúng ta biết, là năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm sau thì Phật Di Lặc mới ra đời. Cách tính thời gian này như thế nào vậy? Trên thực tế quý vị tính xem, không khó, có thể tính ra được. Bồ-tát Di Lặc hiện nay ở cung trời Đâu Suất, một ngày ở cung trời Đâu Suất là 400 năm nhân gian. Tuổi thọ của thiên nhân cung trời Đâu Suất rất dài. Một năm cũng có 365 ngày, dựa theo cách tính này. Tuổi thọ của Tứ Vương thiên là 500 tuổi, tuổi thọ của Đao Lợi thiên là một ngàn tuổi, tuổi thọ của Dạ Ma thiên là hai ngàn tuổi, tuổi thọ của Đâu Suất thiên là bốn ngàn tuổi. Thọ bốn ngàn tuổi, một ngày của họ là 400 năm nhân gian chúng ta, bạn cứ như vậy mà tính ra, đại khái là năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm. Con số này do người trước đây tính ra, có chính xác hay không không sao cả, bạn tự mình có thể tính được. Sau một thời gian dài như vậy thì Phật Di Lặc mới xuất hiện ở thế gian. Thời gian không có Phật ở khoảng giữa đó là rất dài rất dài, chúng sanh khổ nạn trong khoảng thời gian này Thế Tôn bèn giao phó cho Bồ-tát Địa Tạng đại diện cho Phật đến độ hóa. Nên khi Phật không còn trụ thế, thì Bồ-tát Địa Tạng là người đại diện cho Phật Đà. Vì thế chúng ta xem thấy ở trong pháp hội, Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền đều vô cùng cung kính đối với Bồ-tát Địa Tạng, bởi vì Bồ-tát Địa Tạng là đại diện của Phật Đà. Chúng ta xem thấy lễ tiết, ngôn từ của các ngài không giống như trong những kinh điển khác, các ngài rất cung kính.
“Như thị đẳng bối chúng sanh các các sai biệt, phân thân độ thoát.” (Ta phân ra nhiều thân độ thoát những hạng chúng sanh mỗi mỗi sai khác như thế.)
Ân đức của chư Phật Bồ-tát đối với chúng sanh lớn lao như vậy, thế gian không có gì bằng. Ai có thể sánh bằng? Trong mỗi niệm không từ bỏ chúng sanh, căn cơ chín muồi cũng độ, chưa chín muồi vẫn cứ độ. Căn cơ chưa chín muồi thì giúp họ chín muồi, nếu đã chín muồi rồi thì nhất định được độ. Thời kỳ mạt pháp chúng sanh căn cơ chín muồi chính là Tịnh Độ. Người có thể thật sự tin theo những gì [pháp môn] Tịnh Độ dạy, thật thà niệm Phật cầu nguyện vãng sanh thì đó là những người căn cơ chín muồi thời kỳ mạt pháp, sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc liền bất thối thành Phật, căn cơ chín muồi. Thời kỳ mạt pháp chúng sanh căn tánh chưa chín muồi là những người nào vậy? Người không thể tiếp nhận những gì Tịnh Độ dạy. Chúng ta ngày nay nhìn thấy người học Thiền, học Mật, học những pháp môn khác, chúng ta biết rất rõ. Tại sao vậy? Họ trong đời này chắc chắn không có năng lực tự mình đoạn phiền não. Những pháp môn lớn khác cũng không ngoại lệ. Kiến tư phiền não đoạn rồi mới có thể thoát khỏi lục đạo luân hồi, thoát khỏi lục đạo [nhưng vẫn] ở thập pháp giới. Thập pháp giới vẫn còn ở trong cái vòng lớn, vẫn là có giới hạn. Cần phải đoạn tiếp trần sa phiền não, tiến thêm một bước phá một phẩm vô minh nữa mới thoát khỏi thập pháp giới, chứng được pháp thân, vãng sanh về nhất chân pháp giới. Phần lớn nhất chân pháp giới đều là ở thế giới Hoa Tạng như trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói. Khó, sự việc này quá khó, quá khó rồi! Đừng nói đoạn kiến tư phiền não, mà một phẩm kiến hoặc cũng không dễ dàng, được mấy người có thể phá nổi thân kiến của mình, có thể không nghĩ đến sự hưởng thụ của cái thân này? Sau khi phá cửa ải này xong, thì mới phá được một phần kiến hoặc, 88 phẩm bạn mới phá được một phẩm, là tuyệt đối không có ý niệm vì sự hưởng thụ của cái thân này mà khởi tâm động niệm, [thì] bạn mới phá được một phẩm thân kiến, [trong] 88 phẩm phá được một phẩm, không có tác dụng. Chúng ta từ chỗ này mới biết, tu những pháp môn khác thật sự phải là người lợi căn, thiện quả như Phật nói mới được. Chúng ta lợi căn, thiện quả đều không có, vẫn còn một chút thiện căn, phước đức, nhân duyên như thế này, nghe được giáo lý Tịnh Độ, một lòng một dạ, thành thật niệm Phật, như vậy mới có thể có một chút thành tựu.
Đoạn kinh văn này dưới đây là nói về phổ hiện sắc thân. Đúng như lời trong “Kinh Lăng Nghiêm” nói, cần dùng thân gì độ hóa thì Phật, Bồ-tát liền hiện thân ấy. Phật, Bồ-tát ở thế gian, phàm phu mắt thường chúng ta không thể nhận biết. Nói thật ra ở thế gian có rất nhiều, rất nhiều, ở trong tầng lớp thấp hèn của xã hội đều có Phật Bồ-tát, chúng ta không có tâm cảnh giác cao nên thường hay đắc tội với Phật Bồ-tát, khinh mạn Phật, Bồ-tát, coi thường Phật Bồ-tát, tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp mà mình không biết, nhưng Phật, Bồ-tát tuyệt đối không trách tội bạn. Người hiểu rõ những sự thật này thì nhất định không dám sinh tâm khinh mạn đối với tất cả chúng sanh. Sở dĩ chư Phật, Bồ-tát thị hiện như vậy, ý nghĩa quan trọng chính là để dạy chúng ta tu hạnh Phổ Hiền “Lễ kính chư Phật”, luôn chân thành cung kính đối với mọi người, mọi sự, mọi vật để đoạn trừ phiền não cống cao ngã mạn của mình. Mọi người trong lịch sử ai cũng biết hai vị Hàn Sơn, Thập Đắc ở chùa Quốc Thanh là hóa thân của Văn Thù, Phổ Hiền. Các Ngài ở trong chùa làm việc gì vậy? Làm công việc lặt vặt như chẻ củi, gánh nước, nấu cơm dưới bếp. Có ai xem trọng các Ngài? Phong Can là Phật A-Di-Đà tái lai, Ngài làm gì trong chùa vậy? Giã gạo, làm công việc nặng nhọc trong nhà bếp, phục vụ đại chúng. Ở trong tự viện không có người nào xem trọng Ngài. Sự thật này đến sau này mọi người biết rồi, mới biết hóa ra là Phật, Bồ-tát chăm sóc chúng ta, mà chúng ta hằng ngày cứ đắc tội với các Ngài, hối hận không kịp rồi. Đạo tràng chúng ta lẽ nào không có Phật, Bồ-tát sao? Có lẽ Phật, Bồ-tát làm việc ở trong nhà bếp, nhưng các bạn không biết, hằng ngày còn chê bai các Ngài nữa. Nên phải biết quả thật hóa thân của Phật, Bồ-tát thật sự là luôn luôn ở xung quanh chúng ta. Chỗ này nêu ra mấy ví dụ để nói:
“Hoặc hiện nam tử thân, hoặc hiện nữ nhân thân, hoặc hiện thiên long thân, hoặc hiện thần quỉ thân” (Hoặc hiện ra thân trai, hoặc hiện ra thân gái, hoặc hiện ra thân Trời, Rồng, hoặc hiện ra thân Quỉ, Thần.)
Những vị này mắt thường chúng ta không thể nhìn thấy, chúng ta không nhìn thấy họ, nhưng họ nhìn thấy chúng ta, họ ở xung quanh chúng ta, vẫn có thể ảnh hưởng chúng ta. Trước đây lão cư sĩ Chu Kính Trụ kể tôi nghe nhân duyên học Phật của ông, là do ban đêm ông nhìn thấy quỉ nên mới tin. Ông là người học khoa học, làm quan cũng rất lớn, đối với những chuyện này ông cho rằng mê tín, không tin. Ông tiếp xúc rất nhiều, nhưng toàn là nghe người khác kể, coi như nghe kể chuyện thôi, nên bán tín bán nghi. Làm sao cụ sinh khởi niềm tin chân chánh vậy? Cụ kể tôi nghe. Thời kỳ kháng chiến Cụ ở Trùng Khánh, buổi tối chơi bài mạt chược với những người bạn, đại khái đến một hai giờ khuya mới trở về nhà. Vào thời đó là đi bộ chứ không có xe, đèn đường rất xa mới có một cái, đại khái khoảng chừng hai mươi nến, trên đường trời tối om như mực. Trên đường ông đi về nhà, quãng đường cũng khá dài, cũng không có cảm thấy gì. Ông nói thấy có một người đi ở phía trước, không quá xa, là một người nữ. Lúc ban đầu ông cũng không để ý, đi được một lúc thì bỗng nhiên ông nghĩ đến, sao cô này một mình đi trong đêm khuya như thế này? Ông vừa nghĩ vậy thì thấy sởn tóc gáy, nhìn lại người nữ đó thì thấy có nửa thân trên mà không có chân, lúc này ông mới hoảng sợ. Vì nhân duyên này ông mới đến học Phật, thật sự học Phật rồi. Sau khi học Phật, ông nói có lẽ là Quan Âm Bồ-tát hóa thân. “Hoặc hiện thần quỉ thân” (Hoặc hiện ra thân Quỉ Thần) Nếu không phải do chính mắt mình nhìn thấy, đích thân gặp phải, thì cho dù người nào nói thì ông cũng bán tín bán nghi, giống như nghe kể chuyện, do thấy như vậy ông mới bước vào cửa Phật.
Kinh văn phía dưới: “Hoặc hiện sơn, lâm, xuyên, nguyên, hà, trì, tuyền, tỉnh, lợi cập ư nhân tất giai độ thoát” (Hoặc hiện ra rừng, núi, sông, ngòi, ao, rạch, suối, làm lợi ích cho mọi người, để rồi độ họ được giải thoát.)
Đây là hiện thân vô tình. Khi bạn đi dạo chơi, hiện nay khắp các nơi mọi người đều đề xướng đi tham quan du lịch, bạn đi du ngoạn nhìn thấy những cảnh sắc núi sông, cây cối hoa cỏ này, nếu sau khi nhìn thấy liền có cảm ngộ, thì đó đều là do chư Phật Bồ-tát biến hiện. Tại sao người khác nhìn thấy không khai ngộ, còn bạn nhìn thấy thì khai ngộ? Cho nên một người khai ngộ không nhất định là do nhân duyên gì. Phàm cái gì giúp bạn khai ngộ, bất kể là người, là sự hay là vật, thì không có cái nào không phải do Phật, Bồ-tát gia trì. Sau đó bạn mới biết Phật, Bồ-tát không những thị hiện thân hữu tình ở xung quanh bạn, mà còn thị hiện thân vô tình nữa. Chúng ta nói năng, thân thể tạo tác, khởi tâm động niệm, thậm chí là chính mình không biết, mình là ngu tối, ngu si, tối tăm, chậm lụt, chính mình còn không biết, chứ Phật, Bồ-tát biết rất rõ ràng, rất minh bạch. Cổ nhân có nói rằng: “trên đầu ba thước có thần linh”. Lời nói này không hề giả dối. Số lượng quỉ thần nhiều, số lượng Phật, Bồ-tát còn nhiều hơn nữa, đều là đại từ đại bi, niệm niệm không ngoài việc cảm hóa chúng ta, khiến cho chúng ta quay đầu là bờ, sớm thoát khỏi sáu nẻo luân hồi, không tạo tác tất cả tội nghiệp nữa. Phàm là những gì lợi ích cho chúng sanh, đặc biệt là có lợi cho chúng sanh khai ngộ, lợi cho chúng sanh giải thoát, chúng ta biết đều là do Phật, Bồ-tát gia trì. Phật, Bồ-tát không có nơi nào mà không hiện thân.
“Hoặc hiện thiên đế thân, hoặc hiện phạm vương thân.” (Hoặc hiện ra thân Thiên Đế, hoặc hiện ra thân trời Phạm Vương).
Chúng ta đọc đến câu này thì không nên xem thường tín đồ tôn giáo khác. Chúng ta đối với hết thảy mọi tín đồ tôn giáo đều phải cung kính, Phải có tâm cung kính, có thái độ cung kính không có khác gì đối với Phật, Bồ-tát. Tại sao vậy? Hạng chúng sanh đó Phật không độ họ được, vì họ tin vào thượng đế, nên Phật, Bồ-tát bèn hiện ra thân thượng đế để độ họ, chẳng phải là sự việc giống nhau sao? Không có gì khác biệt cả, chẳng qua họ đi đường vòng mà thôi, trước tiên phải sanh thiên sau đó mới học Phật. Chúng ta hiện nay đã học Phật, vậy là thù thắng hơn họ nhiều rồi, họ phải đi đường vòng. Họ không cung kính đối với chúng ta là phải rồi, vì họ không hiểu mà. Họ có thành kiến, có chấp trước, họ bài xích. Chúng ta đối với họ không thể không cung kính. Chúng ta biết trên trời hay cõi nhân gian, Phật, Bồ-tát hóa thân vô lượng vô biên. “Thiên Đế” người Trung Quốc gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế, là được Đạo Giáo sùng bái. Phương Tây có một số tôn giáo gọi là thượng đế, đại khái đều là vua trời Đao Lợi. “Phạm Vương” Đại Phạm Thiên Vương, ở Ấn Độ có một số tôn giáo họ sùng bái Đại Phạm Thiên.
“Hoặc hiện Chuyển Luân Vương thân” (Hoặc hiện ra thân vua Chuyển Luân).
Phước báo của vua Chuyển Luân rất lớn. Đây là thuộc về cõi người. Phước báo lớn nhất của cõi người là vua Chuyển Luân. Thời cận đại của chúng ta, trong một số bài báo khoa học viễn tưởng thường hay đưa tin có vật thể bay không xác định ngoài hành tinh xuất hiện trên trái đất chúng ta, có rất nhiều bài báo dạng này. Thậm chí là còn nói có người ngoài hành tinh. Luân bảo của Luân Vương, nói thực ra vô cùng giống đĩa bay, đây là công cụ giao thông cũng là vũ khí của họ. Những người này mặc dù là có lái đĩa bay đến trái đất chúng ta, họ có phải là vua Chuyển Luân không? Chưa chắc. Là người do vua Chuyển Luân phái đến nơi đây để tuần tra xem, chắc chắn không phải vua Chuyển Luân. Làm sao biết vậy? Vua Chuyển Luân từ bi, đối với tất cả chúng sanh nhất định không làm tổn hại. Cho nên chúng ta nếu như xem nó là công cụ giao thông của Luân Vương, thì họ nhất định là sứ giả của Luân Vương. Là giống như chúng ta hiện nay phái người đi thám hiểm ngoài vũ trụ vậy. Người Mỹ thám hiểm vũ trụ rồi, người Nga cũng đi rồi, tuyệt đối không phải là tổng thống Mỹ, hay tổng thống Nga, không phải, là phái người đi. Đây là điều chúng ta có thể tưởng tượng được. Hiện thân vua Chuyển Luân.
“Hoặc hiện cư sĩ thân, hoặc hiện quốc vương thân, hoặc hiện tể phụ thân” (Hoặc hiện ra thân Cư Sĩ, hoặc hiện ra thân Quốc Vương, hoặc hiện ra thân Tể Phụ)
Tể Phụ là làm quan, tức là đại thần. Chúng ta gọi là đại thần, hiện nay gọi là tổng lý, thủ tướng, bộ trưởng, ở đây gọi là Tể phụ.
“Hoặc hiện quan thuộc thân” (Hoặc hiện ra thân các hàng quan thuộc)
Đây chính là cán bộ quan chức thông thường. Đây là thân phận của người tại gia.
“Hoặc hiện Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ư-bà-tắc, Ưu bà di thân” (Hoặc hiện ra thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di)
Đây là thị hiện thân phận học Phật. Bởi vì ở đây có Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, phía trước có cư sĩ, ở trong đây có sự khác biệt. Chữ cư sĩ đó không nhất định là học Phật, họ là những người tại gia có học vấn, có đạo đức, không có ra làm quan, chỗ này có một chút khác biệt như vậy.
“Nãi chí Thanh Văn, La-hán, Bích Chi Phật, Bồ-tát đẳng thân nhi dĩ hóa độ, phi đãn Phật thân độc hiện kỳ tiền.” (Nhẫn đến hiện ra những thân Thanh-Văn, La-Hán, Bích-Chi Phật và Bồ-tát để hóa độ chúng sanh chớ chẳng phải chỉ có thân Phật hiện ra trước chúng thôi đâu.”
Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện lần này, là dùng thân Phật thị hiện. Phật Thích Ca Mâu Ni ngoài dùng thân Phật thị hiện ra, còn thị hiện đủ dạng thân khác nhau, trăm ngàn muôn ức ứng hóa thân, đều ở thế gian chúng ta. Chúng ta muốn hỏi, Phật Thích Ca Mâu Ni hiện nay có còn hay không? Đương nhiên còn, nhưng không phải dùng thân Phật xuất hiện. Phàm phu chúng ta cho rằng Phật Thích Ca Mâu Ni đã diệt độ rồi, diệt độ là thân tướng Phật diệt độ. Nếu như Ngài là hiện ra thân người nam, thân người nữ, thân Trời Rồng, thân Quỉ Thần, thân Cư Sĩ, thân Tể Quan, thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, chúng ta làm sao biết được? Có mọi lúc, mọi nơi. Ở trong lịch sử chúng ta chỉ biết Trí Giả Đại Sư là Phật Thích Ca Mâu Ni tái lai, Ngài hiện là thân Tỳ-kheo. Đây là thân phận để lộ ra cho mọi người biết, còn thân phận hoàn toàn không để lộ ra thì quá nhiều quá nhiều rồi. Thân phận để lộ ra chỉ là một vài phần vạn mà thôi, tuyệt đại đa số là không để lộ thân phận. Nếu thân phận thường hay để lộ sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự hoằng truyền Phật giáo, bất lợi cho việc giáo hóa chúng sanh, chỉ thỉnh thoảng lộ ra một chút, điều này chúng ta nhất định phải biết. Cho nên đối với tất cả mọi người phải thường giữ tâm cung kính, thái độ của chúng ta phải thường giữ tâm hoan hỷ, phải hiểu được đạo lý này. Chư Phật, Bồ-tát không vị nào là không như vậy.
Xem tiếp kinh văn phía dưới:
“Nhữ quán: Ngô lũy kiếp cần khổ độ thoát như thị đẳng nan hóa cang cường tội khổ chúng sanh.” (Địa Tạng! Ông xem Ta đã trải qua bao số kiếp nhọc nhằn độ thoát những chúng sanh cang cường đầy tội khổ khó khai hóa như thế.)
Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện làm gương cho Bồ-tát thấy, dạy Bồ-tát. Bồ-tát phá một phẩm vô minh chứng một phần pháp thân liền có năng lực biến hóa ra trăm ngàn muôn ức hóa thân. Cần phải học Phật, quảng độ chúng sanh. Bồ-tát viên giáo sơ trụ, Bồ-tát biệt giáo sơ địa là có thể tùy loại hóa thân. Chúng ta ở trong “Kinh Lăng Nghiêm” xem thấy Bồ-tát Quan Thế Âm, quý vị nhất định phải biết, trong “Kinh Lăng Nghiêm” nói Quan Âm Bồ-tát là Bồ-tát sơ trụ, không phải Bồ-tát Đẳng Giác. Ngài kể quá trình tu hành của mình, đem lý luận và phương pháp căn cứ để tu hành ra báo cáo cho mọi người biết. Công phu của Ngài là phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo. Phá một phẩm vô minh, sau khi kiến tánh xong Ngài liền có năng lực biến hóa ra 32 ứng thân. Nên chúng ta ở trên hội Lăng Nghiêm xem thấy Quan Âm là Bồ-tát sơ trụ, là phát tâm trụ, tâm Bồ đề vừa mới phát ra, liền có năng lực lớn như vậy. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” xem thấy Bồ-tát Quan Thế Âm, chỗ này sau này sẽ nói đến 53 lần tham vấn của Thiện Tài Đồng Tử, tham vấn Bồ-tát Quan Thế Âm. Bồ-tát Quan Thế Âm là đại biểu cho quả vị Thất Hồi Hướng, là Bồ-tát Thất Hồi Hướng. Phẩm Phổ Môn trong “Kinh Pháp Hoa” là Bồ-tát Quan Âm Đẳng Giác. Bồ-tát giống như Phổ Hiền trong “Hoa Nghiêm” nói vậy, có đạo tiền, có đạo vị. Đạo tiền là trước khi chứng Đẳng Giác, có thể nói từ quả vị sơ tín đến Pháp Vân Địa gọi là đạo tiền. Đẳng Giác là đạo vị. Sau khi thành Phật, lái ngược thuyền từ, dùng lại thân Bồ-tát để độ hóa chúng sanh, đó là như Thế Tôn chỗ này nói không nhất định là hiện thân gì. Họ có năng lực cảm ứng đạo giao với tất cả chúng sanh trong tận hư không khắp pháp giới, chúng sanh có cảm họ liền có ứng. Cảm của chúng sanh có hiển, có ẩn. Hiển là gì vậy? Có tâm cầu Phật, Bồ-tát. Ẩn là gì vậy? Cái ý niệm mình cầu Phật, Bồ-tát đó ngay cả mình cũng không biết. Điều này rất kỳ lạ, tại sao mình cầu Phật Bồ-tát đến giúp đỡ mà mình vẫn không biết? Nói thực ra là thiện căn, phước đức của mình chín muồi rồi, mà mình không biết, đã chín muồi rồi mà không biết. Nhưng sự chín muồi này của bạn cảm động chư Phật, Bồ-tát, nên chư Phật, Bồ-tát nhất định ứng hóa đến làm tăng thượng duyên cho bạn, đến giúp đỡ bạn, đến thành tựu cho bạn. Bạn không tìm các Ngài, các Ngài đến tìm bạn. Trong “Kinh Vô Lượng Thọ” nói: “Làm người bạn không mời của tất cả chúng sanh”. Bạn không thỉnh Ngài, Ngài cũng tự đến.
Bên dưới đây là chuyện Thế Tôn giao phó cho Ngài.
“Kỳ hữu vị điều phục giả tùy nghiệp báo ứng, nhược đọa ác thú thọ đại khổ thời, nhữ đương ức niệm ngô tại Đao Lợi Thiên cung ân cần phó chúc, lệnh Sa Bà thế giới chí Di Lặc xuất thế dĩ lai chúng sanh tất sử giải thoát vĩnh ly chư khổ, ngộ Phật thọ ký.” (Ngoài ra những kẻ chưa điều phục được, thời phải theo nghiệp thọ báo. Nếu khi chúng nó có bị đọa vào đường dữ chịu nhiều sự thống khổ, thời ông nên nghĩ nhớ Ta ở cung Trời Đao Lợi ân cần phó chúc đây mà gắng độ chúng sanh, làm cho chúng sanh trong cõi Ta Bà này đến lúc Phật Di Lặc ra đời, đều đặng giải thoát khỏi hẳn các điều khổ, gặp Phật, được đức Phật thọ ký.)
Phật Thích Ca Mâu Ni tại cung trời Đao Lợi, đem việc độ hóa chúng sanh ủy thác cho Bồ-tát Địa Tạng rất rõ ràng, minh bạch như vậy. Những người đã từng ở trong thời gian giáo hóa của Thế Tôn, kể cả thời kỳ mạt pháp, cũng chính là nói ở trong thời pháp vận mười hai ngàn năm của Phật Thích Ca Mâu Ni, đã từng nghe danh hiệu Phật, đã từng thấy tượng Phật; Phật còn tại thế nhìn thấy Phật, Phật không còn tại thế thì thấy qua hình ảnh của Phật, tượng điêu khắc cũng được, ảnh vẽ cũng được, hoặc giả nghe qua danh hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni, thấy qua Tam Bảo trên hình tượng, bất kể Tam Bảo này là thật hay là giả, là có tu hay là không tu cũng không có sao cả, chỉ cần bạn tiếp xúc qua là đã gieo thiện căn rồi. Tuy gieo thiện căn rồi, nhưng tập khí nghiệp ác của họ rất nặng. Người có thiện căn sâu dày thì sẽ sinh một chút tâm cung kính, nhưng không chịu y giáo phụng hành. Người thiện căn mỏng, có một số người không những không sinh tâm cung kính, trái lại còn sinh tâm phỉ báng. Quí vị nên biết, chúng ta mới học Phật bị một chút phỉ báng thì có đáng gì đâu. Chư Phật Như-lai ứng hóa ở thế gian này bị gặp chuyện phỉ báng quá nhiều quá nhiều rồi. Phật không có để nó ở trong tâm, đây là điểm chúng ta cần phải học tập. Bị gặp phải mọi thứ phỉ báng, làm nhục, chúng ta thấy chúng sanh tạo tội nghiệp thì phải sinh tâm thương xót. Bạn làm sao có thể trách họ được? Làm sao có thể quở trách họ chứ? Nếu như sau đó sinh một niệm báo thù, thế là bạn hoàn toàn sai rồi. Bạn phải biết họ ngu si, họ không có trí tuệ, tập khí phiền não của họ quá nặng, tạo tác nghiệp ác, thương xót còn không hết, chứ đâu thể quở trách được? Đây là chư Phật, Bồ-tát thị hiện cho chúng ta thấy, dạy chúng ta nên học tập như thế nào. Nhưng người tạo tội nghiệp nhất định đọa địa ngục.
“Nhược đọa ác thú thọ đại khổ thời” (Nếu khi chúng nó có bị đọa vào đường dữ chịu nhiều sự thống khổ.)
Đây chính là đọa địa ngục, tạo tội nghiệp ở trong Phật pháp. Phía dưới đây là lời dặn dò của Thế Tôn:
“Nhữ đương ức niệm.” (Thời ông nên nghĩ nhớ).
Nhữ là chỉ Bồ-tát Địa Tạng, lời này là nói đối với Bồ-tát Địa Tạng, ông phải nên nghĩ đến. “Ngô” là Phật Thích Ca Mâu Ni tự xưng hô. Thế Tôn ở cung trời Đao Lợi hôm nay ân cần căn dặn, đem sự việc này giao phó cho ông.
“Lệnh Sa-Bà thế giới chí Di Lặc xuất thế dĩ lai chúng sanh.” (làm cho chúng sanh trong cõi Ta Bà này đến lúc Phật Di Lặc ra đời)
Đây không phải là chúng sanh thông thường, họ đều là những chúng sanh gặp được Phật pháp tạo tội nghiệp ở trong Tam Bảo, đây là điểm chúng ta nhất định phải hiểu cho rõ ràng, cũng chính là “một hai phần” mà phía trước đã nói. Số lượng ở trong “một hai phần” là quá nhiều quá nhiều rồi, cho đến trước khi Phật Di Lặc ra đời, khoảng thời gian này là 56 ức bảy ngàn vạn năm, đây là con số cổ nhân nói.
“Tất sử giải thoát, vĩnh ly chư khổ, ngộ Phật thọ ký” (đều đặng giải thoát khỏi hẳn các điều khổ, gặp Phật, được đức Phật thọ ký)
Bồ-tát Địa Tạng dùng pháp môn gì vậy? Xin thưa với quý vị, đều là dùng pháp môn niệm Phật. Thời kỳ mạt pháp tập khí nghiệp chướng của chúng sanh rất nặng, tu những pháp môn khác chắc chắn không thể thành tựu. Tuy nói là pháp môn bình đẳng không có cao thấp, nhưng căn tánh chúng sanh không giống nhau, tập nhiễm khác nhau, tu học những pháp môn khác khó! Pháp môn niệm Phật dễ dàng. Chúng ta ở phần trước xem thấy Thánh Nữ Bà La Môn, phía sau nói là Quang Mục Nữ, đều tu pháp môn niệm Phật. Chỉ có pháp môn niệm Phật vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc mới thật sự giải thoát, vĩnh viễn thoát khỏi các nỗi thống khổ, gặp được Phật A-Di-Đà thọ ký cho bạn. Những điều này đều là sự thật.
“Nhĩ thời, chư thế giới phân thân Địa Tạng Bồ-tát cộng phục nhất hình, thế lệ ai luyến.” (Bấy giờ, những hóa thân Địa Tạng Bồ-tát ở các thế giới hiệp chung lại một hình, rơi lệ thương cảm)
Đây là nói Bồ-tát Địa Tạng tiếp nhận sự giao phó của Phật Thích Ca Mâu Ni và tình hình cảm động lúc đó. Vô lượng phân thân có thể hợp thành một thân.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.