KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 70
Mời xem kinh văn:
“Nhĩ thời Ðịa Tạng Bồ Tát ma ha tát, thừa Phật oai thần tùng tọa nhi khởi, hồ quỵ hiệp chưởng.”
(Lúc đó Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát ma-ha-tát nương oai thần của đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, quì gối chắp tay bạch cùng đức Phật rằng:)
“Nhĩ thời” là Bồ Tát Địa Tạng ở phía trước đã nói rõ với chúng ta lợi ích công đức của niệm Phật. Sau khi nói xong, vào lúc này, biết được niệm Phật, còn phải biết niệm pháp. Ở trong đoạn kinh văn này, chúng ta phải đặc biệt chú trọng bốn chữ “Thừa Phật oai thần” này. Đây là Bồ Tát dạy hàng hậu học chúng ta phải khiêm tốn, phải học khiêm tốn cung kính. Tuy mình đã vào cảnh giới này rồi, cũng không dám nói mình có năng lực có thể giảng kinh thuyết pháp cho đại chúng, mà phải nói nhờ oai lực của đức Phật gia trì, tôi mới có thể làm được, nếu không có Phật lực gia trì thì tôi vẫn không thể làm được, phải luôn có ý khiêm tốn cung kính ở trong đó, đây là điểm chúng ta cần phải học tập. Mời xem kinh văn, phần khoa chú quyển hạ, trang thứ nhất.
Phẩm Thứ Mười So Sánh Nhơn Duyên Công Đức Của Sự Bố Thí
“Nhĩ thời Ðịa Tạng Bồ Tát ma ha tát, thừa Phật oai thần tùng tọa nhi khởi, hồ quỵ hiệp chưởng.”
(Lúc đó Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát ma-ha-tát nương oai thần của đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, quì gối chắp tay.)
Phàm phu trong lục đạo tập khí phiền não sâu nặng. Đức Phật nói cho chúng ta biết, gốc rễ phiền não có sáu loại: Tham, sân, si, mạn, tiếp đó còn có nghi, ác kiến. Mạn là ngạo mạn. Tập khí ngạo mạn, tất cả chúng sanh thảy đều có đủ. Có người nào không ngạo mạn đâu? Có ta. Ta lúc nào cũng mạnh hơn người khác một chút, đây chính là tâm ngạo mạn. Quý vị học qua Pháp Tướng Duy Thức, bạn đã biết Mạt-na-thức. Bốn phiền não lớn thường đi với nhau. Ngã mạn. Cho dù nghèo hèn đến cực điểm, làm ăn mày, ăn mày là nghèo hèn cực điểm trong xã hội. Nghèo là không có của cải. Hèn là không có địa vị. Họ vẫn rất ngạo mạn. Nhìn thấy người giàu sang đi qua trước mặt họ vẫn hứ một tiếng! Có gì tài giỏi đâu. Chẳng qua có mấy đồng tiền hôi thối mà thôi. Bạn thấy! Vẫn là ngạo mạn. Phiền não này không thể không đoạn dứt. Nếu như không đoạn dứt thì sẽ có chướng ngại lớn cho việc tu học của chúng ta. Chúng ta xem thấy ở trong kinh văn, Bồ Tát Địa Tạng là nhân vật cấp bậc nào? Ngài tự nguyện giữ mình ở địa vị Bồ Tát đẳng giác. Nếu như muốn nói thành Phật thì Ngài đã thành Phật từ lâu rồi. Chúng ta xem thấy ở trong phẩm tựa, học trò của Ngài có bao nhiêu người đều đã thành Phật rồi, còn Thầy hiện nay vẫn đang làm Bồ Tát. Làm Bồ Tát thì làm việc bổn phận của Bồ Tát, vẫn khiêm tốn đối với Phật như thường, vẫn nói Ngài nương nhờ oai thần của Phật gia trì, đây là điểm chúng ta cần phải học tập. Mình có thành tựu, có trí tuệ, có năng lực đi nữa, cũng không được phép ngạo mạn. Phải biểu hiện ra đức khiêm tốn, cung kính từ trong nội tâm, bạn mới có thể đoạn phiền não. Nếu như bạn không lưu ý ở chỗ này, cho rằng tôi có những sở trường mà người khác không có. Người thế gian hiện nay gọi là đáng tự hào, thế là hỏng rồi! Đáng tự hào, nói hơi khó nghe một chút là “Đáng đọa lạc, đáng đi vào Tam Đồ” chẳng phải là cái ý này hay sao? Cho nên chúng ta nhất định phải hiểu rõ chân tướng sự thật. Chỗ nào cũng có thể nhìn thấy những kinh văn như thế này, mỗi lần đọc đến đều phải đề cao sự giác ngộ của mình. Dưới đây chúng ta xem Bồ Tát Địa Tạng thỉnh pháp:
“Bạch Phật ngôn! Thế Tôn, ngã quán nghiệp đạo chúng sanh, giảo lượng bố thí hữu khinh hữu trọng, hữu nhất sanh thọ phước, hữu thập sanh thọ phước, hữu bách sanh thiên sanh thọ đại phước lợi giả. Thị sự vân hà, duy nguyện Thế Tôn vị ngã thuyết chi.”
(Bạch cùng đức Phật rằng:Bạch đức Thế-Tôn! Con xem xét chúng sanh trong nghiệp đạo so sánh về sự bố thí có nhẹ có nặng. Có người hưởng phước trong một đời, có người hưởng phước trong mười đời, hoặc đến hưởng phước lợi lớn trong trăm đời, nghìn đời. Những sự ấy tại làm sao thế? Cúi xin đức Thế-Tôn dạy cho’.)
Sự việc này Bồ Tát Địa Tạng đâu có lý nào không biết? Một bên hỏi một bên đáp như vậy là nói cho chúng ta nghe, để chúng ta giác ngộ. “Nghiệp đạo chúng sanh” (Chúng sanh trong nghiệp đạo) chính là chỉ chúng sanh trong lục đạo. Trong chúng sanh lục đạo đặc biệt là chỉ hai cõi trời, người. Ở trong hai cõi trời người, lại đặc biệt chỉ riêng cõi người. Pháp hội này là mở ra ở nhân gian, là giảng cho nhân gian. Pháp hội này là ở cung trời Đao Lợi, trời Dục Giới. “Giảo lượng bố thí”. “Giảo lượng” là so sánh, đánh giá. So sánh, đánh giá sự bố thí. “Hữu khinh hữu trọng” (Có nhẹ có nặng). Dưới đây là nêu ra ví dụ để nói “Hữu nhất sanh thọ phước” (Có người hưởng phước trong một đời) Đây là nhẹ. “Hữu thập sanh thọ phước” (Có người hưởng phước trong mười đời) Đây là tương đối nặng. “Hữu bách sanh thiên sanh thọ đại phước lợi giả.” (Hoặc đến hưởng phước lợi lớn trong trăm đời, nghìn đời.) Sự bố thí này là rất nặng. Đây là do nguyên nhân gì? Thỉnh Phật nói rõ cho chúng ta biết. Bố thí thông thường nói ba loại: Bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Tài là nói tiền của. Trong tiền của lại chia ra thành nội tài và ngoại tài. Ngoại tài là vật ở ngoài thân, đều là thuộc về ngoại tài, là vật ngoài thân. Nội tài là nói thân thể của chúng ta, ví dụ chúng ta dùng trí tuệ, dùng sức lực, dùng kỹ năng, để phục vụ cho đại chúng xã hội, đây gọi là bố thí nội tài. Công đức của bố thí nội tài vượt hơn ngoại tài. Ngày nay tại đạo tràng này, người phát tâm làm thiện nguyện rất nhiều. Những người làm thiện nguyện này đều là thuộc về bố thí nội tài. Ở Cư Sĩ Lâm mỗi ngày quý vị đều nhìn thấy, phước báo của họ là rất lớn. Bạn thấy có rất nhiều vị cư sĩ lớn tuổi giúp rửa rau, nhặt rau, rửa chén, rửa đĩa ở dưới nhà ăn, họ làm chăm chỉ như vậy, chịu trách nhiệm như vậy, làm rất sạch sẽ cho bạn, để cúng dường đại chúng, là bố thí nội tài. Dường như đời này tuy đời sống của họ rất vất vả, nhưng phước báo đời sau sẽ ngoài sức tưởng tượng. Phước báo này của họ, tuyệt đối không phải hưởng phước một đời, nhất là những người đến nơi đây để ăn cơm, người đến Cư Sĩ Lâm ăn cơm quá nhiều. Nếu như những người ăn cơm này, tương lai thật sự có được vài người vãng sanh làm Phật. Bạn thử nghĩ xem phước báo của họ bao lớn? Họ cúng dường Phật rồi. Ở trong kinh đức Phật nói cho chúng ta biết, dùng một bát cơm cúng dường lên một vị Bích Chi Phật, sẽ được quả báo chín mươi mốt kiếp không bị nghèo cùng. Nếu như họ ở nơi đây cúng dường, ở trong đây có mấy người thật sự vãng sanh bất thối làm Phật rồi, thì phước báo họ được sẽ hơn hẳn phước cúng dường lên vị Bích Chi Phật. Người thông suốt, hiểu rõ về những sự và lý này có thể thấy ra được, chứ người bình thường không thể thấy ra. Ở trong niệm Phật đường, đặc biệt là người niệm Phật vào buổi tối, các bạn mỗi tuần có ba mươi sáu giờ niệm Phật, thì những người làm thiện nguyện này cũng là không ngủ không nghỉ, vẫn tràn đầy tinh thần chăm sóc đại chúng ở nơi đây. Buổi tối cung cấp đồ điểm tâm, thức uống cho các bạn, chăm sóc rất chu đáo, tu như vậy thì phước rất lớn! Cúng dường cả nội tài lẫn ngoại tài. Tự mình đến làm thiện nguyện, đến phục vụ là bố thí nội tài. Họ lại còn mang rất nhiều thức ăn đến cung cấp cho mọi người thọ dụng buổi rối nữa là bố thí ngoại tài, bố thí cả nội tài lẫn ngoại tài, đây là tu phước. Trong kinh đức Phật nói cho chúng ta biết, phước báo của bố thí tài không bằng bố thí pháp. Công đức của bố thí pháp là quá lớn quá lớn. Nhưng ở trong cửa Phật ba loại bố thí tài, pháp và vô úy là liên hệ với nhau, là không thể tách rời. Người thế gian bố thí là tách rời ba cái này ra. Ba cái này trong cửa Phật là hợp chung với nhau, ở trong tài có pháp, ở trong pháp có vô úy. Họ cúng dường cho mọi người, bố thí cho mọi người, mọi người mỗi ngày ở nơi đây, nghiên cứu kinh điển, tư duy, niệm Phật, đó là pháp. Cho nên sự cúng dường, bố thí này của họ là đối với pháp. Cúng dường Phật, bố thí pháp, cho nên họ thảy đều đầy đủ. Việc tu học Phật pháp, sự khế nhập Phật pháp, khiến cho người ta có thể dứt sanh tử, ra khỏi tam giới, đoạn phiền não, thành Phật đạo, đây là bố thí đại vô úy. Cho nên sự bố thí này lợi ích sẽ rất lớn, thù thắng vô cùng. “Thọ phước” chính là người thế gian chúng ta gọi là hưởng phước. Đây là điều mà tất cả chúng sanh đều mong có được. Có người nào không mong hưởng phước đâu? Những người làm việc thiện nguyện này, họ xem công việc thiện nguyện là sự hưởng phước của họ. Tu phước với hưởng phước hợp chung với nhau, tu phước chính là hưởng phước, hưởng phước chính là tu phước, nên phước báo này của họ sẽ kéo dài mãi không dứt, là không phải hưởng một đời thôi. Người hưởng phước một đời, phần lớn là do đời trước tu phước, đời này hưởng phước nhưng không chịu tu phước tiếp nữa, loại người này rất nhiều. Chúng ta nhìn thấy người giàu sang ở thế gian, đại đức xưa nói những người này tuyệt đại đa số đều là do phước báo tu ở trong cửa Phật đời trước. Nhưng ngày nay khi họ hưởng phước, thì họ không chịu tu phước nữa. Không chịu tu phước nữa, thì phước báo này của họ một đời hưởng hết rồi thì sẽ không còn. Người có phước báo lớn, có thể hưởng thụ được cả đời, đến lúc chết họ vẫn còn phước báo. Nếu như người phước báo kém hơn một chút, đến lúc già thì thật đáng thương, phước báo hưởng hết rồi. Lúc về già không có người chăm sóc, khổ không thể tả. Đó là gì? Đó là người phước báo mỏng. Những hiện tượng này đều bày ngay trước mắt chúng ta. Nếu như người này trong một đời không có bệnh khổ, không có già khổ, chứng minh phước báo của họ tu rất tốt, cả đời hưởng phước. Nếu như lúc họ chết, có hiện ra tướng lành, như vậy thì họ không chỉ hưởng phước một đời, đời sau vẫn hưởng phước. Họ ra đi rất an lành, ra đi rất tự tại, rất sáng suốt, không có mê hoặc chút nào cả, thì đoán chắc họ đời sau vẫn là hưởng phước báo trời người, phước báo này không chỉ có một đời. Nếu như mười đời, trăm đời, nghìn đời, thì chắc chắn là họ tu bố thí lớn đối với xã hội, đối với tất cả chúng sanh, mới có phước báo lớn như vậy. Chúng ta nhìn thấy đế vương, nhìn thấy những danh gia vọng tộc thời cổ đại, họ có thể truyền được rất nhiều đời mà gia đạo không bị suy, đó là tổ tiên họ tu phước báo lớn, cho nên con cháu đời đời đều hưởng thụ không hết. Nếu như là người trăm đời, nghìn đời tạo phước bố thí thì càng lớn hơn nữa. Người mười đời hưởng phước, thời xưa chúng ta nhìn thấy đế vương và những danh gia vọng tộc thì trong lịch sử có ghi chép. Nhưng người hưởng phước một trăm đời, một nghìn đời thì khác. Ở Trung Quốc chúng ta chỉ nhìn thấy Khổng Lão Phu Tử, đúng là phước lớn một trăm đời. Ngài đã làm những việc bố thí gì vậy? Dạy học. Dùng tâm chân thành giáo hóa chúng sanh. Bạn thấy Khổng Lão Phu Tử truyền đến hiện nay là hơn bảy mươi đời. Con cháu của Ngài vẫn được người trong thiên hạ tôn kính, tôn kính tổ tiên của họ. Nghe nói là con cháu của Khổng Lão Phu Tử thì người ta đều nhìn với ánh mắt khác, đặc biệt lễ kính. Tiên sinh Khổng Đức Thành đến nước Mỹ, được nước Mỹ đối xử trọng thị. Nguyên nhân là do người Mỹ nghe nói ông là con cháu của Khổng Lão Phu Tử, đây là một trăm đời hưởng phước. Ở trong cửa Phật chư Phật Bồ Tát các Ngài tu bố thí, đó là phước báo lớn vô lượng vô biên, một trăm đời, một nghìn đời. Việc đức Phật tu là gì? Đức Phật cũng là tu bố thí, bố thí pháp. Sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện thành đạo, bốn mươi chín năm giảng kinh thuyết pháp cho tất cả chúng sanh, là tu bố thí pháp. Ở trong bố thí pháp có bố thí tài hay không? Có tài. Nhưng không có ngoại tài, là bố thí nội tài. Ngài phải bỏ tinh thần và cả thể lực, hao tổn tinh thần và thể lực của mình, là bố thí nội tài. Cho nên Ngài có bố thí tài. Chỉ dạy tất cả chúng sanh là bố thí pháp. Khiến tất cả chúng sanh khai ngộ, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui là bố thí vô úy. Giống như trong kinh nói, sau khi bạn khai ngộ, liền xa lìa sợ hãi, điên đảo, vọng tưởng, đó là thuộc về bố thí vô úy. Cả đời thành tâm thành ý, chuyên đi làm cái việc này, cho nên họ được phước báo là trăm đời, nghìn đời, được phước báo và lợi ích lớn. Chúng ta phải biết. Đối tượng của bố thí, trong kinh đức Phật gọi là ruộng phước. Bố thí là gieo phước. Bạn phải nhận thức được cái nào là ruộng phước? Phải tìm ruộng phước để gieo phước, thế thì phước báo này của bạn là vô lượng vô biên, bạn mãi mãi hưởng không hết. Thật sự hiểu rõ đạo lý này thì nhất định phải chăm chỉ nỗ lực làm, đừng sợ vất vả, cũng đừng sợ tôi tuổi tác cao rồi, thể lực suy yếu rồi, muốn làm một chút việc tốt cho xã hội mà không được! Nghĩ vậy là họ thật sự không làm được. Tại sao vậy? Trong tâm họ đã nghĩ là không được rồi, thì đương nhiên họ sẽ không làm được. Nếu như bạn cảm thấy được, thì bạn sẽ không già yếu. Bạn cảm thấy không được, hằng ngày cứ nghĩ mình già, nghĩ bệnh, nghĩ thể lực suy yếu. Phật pháp nói tướng chuyển theo tâm, thì đương nhiên bạn sẽ suy thoái thôi. Nếu như bạn có dũng khí, thật sự giác ngộ, nghĩ ta không già, không bệnh, không suy yếu, kết duyên với tất cả chúng sanh, tu bố thí rộng lớn, là được! Chứ không phải không được, vẫn làm rất viên mãn như thường. Là ở bản thân bạn có giác ngộ hay không và có chịu phát tâm hay không thôi. Ngày nay ruộng phước đích thực, ruộng phước hàng đầu, ruộng phước thù thắng vô song là gì vậy? Hằng ngày chúng tôi luôn nghĩ đến “Thôn Di Đà”, “Niệm Phật đường” đây là ruộng phước vô thượng. Bởi vì nó giúp tất cả chúng sanh thành Phật. Tôi biết được đạo lý này, biết được sự thật này, nhưng không có duyên, là do sức của mình không làm nổi, cho nên chỉ có thường xuyên nhắc nhở mà thôi, đã nói hơn ba mươi năm rồi. Không ngờ rằng gặp được Bồ Tát Lý Mộc Nguyên ở nơi này, ông nghe và hiểu được, ông làm thật rồi. Ông làm rồi, tôi có tâm vui mừng hay không? Không có. Tại sao không có tâm vui mừng vậy? Tôi nghĩ rằng là ông chỉ nghe vậy thôi, chỉ nghe vậy thôi chứ có làm thành công hay không thì rất khó nói. Nếu như tôi vui mừng, ông làm không thành công, thì chẳng phải là tôi thất vọng rồi sao? Cho nên tôi không có hy vọng, thì tôi sẽ không có thất vọng. Ông làm thành công rồi. Rất tốt! Ông làm không thành công, vốn dĩ tôi không có hy vọng mà. Tâm của chúng ta mãi mãi duy trì bình tĩnh, thanh tịnh. Nhưng họ chăm chỉ nỗ lực làm, chúng ta phải giúp đỡ họ, cũng trợ giúp họ, hy vọng thúc đẩy thành công. Cho nên chúng ta trước tiên làm thí nghiệm, mở niệm Phật đường ở Cư Sĩ Lâm làm thí nghiệm. Thí nghiệm này khiến cho chúng ta nảy sinh niềm tin, mọi người đều sinh niềm tin. Không thông qua thí nghiệm này, thì bạn sẽ không có niềm tin này, vậy sẽ rất khó thành tựu, việc này rất khó thành tựu. Cho nên thông qua thí nghiệm này, tuy thời gian của thí nghiệm này không dài, niệm Phật đường của chúng ta đến hiện nay vẫn chưa đến ba tháng. Trong thời gian ngắn như vậy, khiến cho đồng tu ở bên đây từ trên xuống dưới, từ những vị chủ tịch hội đồng quản trị, lãnh đạo của Cư Sĩ Lâm, mỗi ngày đều đến niệm Phật. Thậm chí những người đến làm việc thiện nguyện, người nào cũng tràn đầy niềm tin, việc này là không thể nghĩ bàn, cái này không phải do sức người, là do Phật lực gia trì. Cho nên tôi thường nói, lời tôi nói là chân thật, niệm Phật đường này có Phật niệm Phật ở trong đó, có Bồ Tát niệm Phật ở trong đó, các vị thiện thần hộ pháp thì quá nhiều quá nhiều rồi. Có người nói với tôi, có người nhìn thấy thần hộ pháp cũng xếp hàng, đó là thật chứ không phải giả. Cho nên mỗi người khi bước vào niệm Phật đường, họ cảm nhận khác nhau, thấy bầu không khí khác nhau. Người nước ngoài nói là từ trường khác nhau. Sau khi bước vào sẽ sinh tâm hoan hỷ, sau khi bước vào sẽ sinh khởi niềm tin. Ví dụ nói niệm Phật bốn mươi tám giờ, hai ngày hai đêm không ngủ không nghỉ, có rất nhiều người nói thể lực này không chịu nổi. Cuối cùng sau khi bước vào họ có thể chịu được, niệm được hai ngày hai đêm như vậy họ tự mình có niềm tin, rất tốt, tôi cũng được! Đây là Phật lực gia trì, là thiện căn, phước đức, nhân duyên của mình chín muồi. Lời trong “Kinh Di Đà” nói: “Không thể ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà có thể được sanh về cõi ấy.” Lại được chư Phật Như Lai gia trì, điều này chúng ta phải biết. Chúng ta vô cùng may mắn, trước đây người tu hành nhiều, đạo tràng đúng như pháp nhiều, Phật Bồ Tát đi chăm sóc khắp nơi, hiện nay không có, chỉ còn lại một cái, nên tất cả Phật Bồ Tát đều gia trì cho một người, cho một đạo tràng này. Bạn nói xem, việc này là không thể nghĩ bàn. Cho nên nhất định phải tự mình phát tâm, phải tự mình có niềm tin làm đúng như lý như pháp. Quả đúng như lời nhà Phật nói, nghĩ gì được nấy, “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”, chỉ cần việc bạn làm là có lợi ích chân thật. Mục đích của chúng ta, là cầu mong chánh pháp trụ lâu ở thế gian, tất cả chúng sanh đều có thể đạt được lợi ích chân thật, thì chúng ta vui vẻ sẵn lòng hy sinh dâng hiến. Cũng có một số đồng tu rất quan tâm đến tôi. Họ nói: “Pháp sư, tuổi tác cao như vậy rồi. Mỗi ngày đều giảng kinh, mỗi ngày đều không nghỉ ngơi, vậy là rất mệt!” Tôi vô cùng cảm ơn những người này đã quan tâm. Họ khuyên tôi giảm bớt thời gian giảng kinh, mỗi ngày giảng một giờ rưởi đồng hồ thôi, không nên giảng hai giờ. Mỗi tuần giảng nhiều nhất là năm ngày, nghỉ ngơi hai ngày. Là có ý tốt, tôi rất cảm ơn. Nhưng bạn phải biết, nếu như thời gian giảng kinh của chúng ta, giảm bớt nửa giờ, thì bộ “Kinh Hoa Nghiêm” này e rằng phải giảng đến mười lăm năm. Tôi hiện nay nghĩ mười năm cũng chưa chắc có thể giảng xong. Vậy giảm bớt nửa giờ đồng hồ nữa, thì e rằng sẽ kéo dài đến hai mươi năm, vậy thì nguy to! Nói cho dễ hiểu, mọi người phải vô lượng thọ. Tôi luôn hy vọng bộ kinh này có thể hoàn thành sớm, viên mãn sớm. Tôi hiện nay mỗi ngày giảng hai giờ đồng hồ, mà không có cảm thấy mệt, cảm thấy rất hoan hỷ. Cho nên với tình trạng này hiện nay thì được, có thể duy trì, không cần phải giảm bớt thời gian. Ngạn ngữ thế gian cũng thường nói: “Người gặp chuyện vui thì tinh thần phấn chấn”. Giảng kinh là chuyện vui, việc tốt lành, không phải là chuyện khổ. Người bình thường cho rằng, giống như dạy học ở trường là việc khổ, đó có thể là việc khổ. Nhưng giảng kinh là việc vui, khác với dạy học ở nhà trường thông thường, giảng kinh là công việc vô cùng vui sướng. Việc vui sướng nếu đem nó giảm bớt, thì tôi nghĩ người nào cũng không muốn. Việc khổ giảm bớt thì tốt, còn việc vui sướng thì không nên giảm bớt. Đây là nói rõ ruộng phước. Ruộng phước đích thực là lợi ích chúng sanh. Năm xưa tôi khuyên người ta tu phước, tôi đều khuyên người ta phát tâm lưu thông Phật Pháp. Phương pháp lưu thông Phật Pháp là in kinh, thời quá khứ chỉ có in kinh bố thí. In kinh bố thí là có đầy đủ ba loại bố thí tài, pháp và vô úy, là việc tốt. Kế tiếp là tôi thường hay khuyên mọi người chăm sóc người bệnh khổ. Có một số bệnh nhân và người sống rất nghèo khổ, chúng ta bố thí cho họ, bố thí thuốc men, chữa trị cứu giúp nghèo khổ. Việc thứ ba là tôi khuyên mọi người phóng sanh. Phóng sanh là bố thí vô úy. Đây là điều mà tôi giảng kinh thuyết pháp rất nhiều năm nay thường hay khuyên nhắc quý vị. Đây là ruộng phước đích thực, tuyệt đối không có sai lầm, không có di hại. Tôi không có khuyên người ta xây đạo tràng. Xây đạo tràng chưa chắc là ruộng phước đích thực. Nếu như đạo tràng này, không phải nơi tu học, hoằng dương chánh pháp, thì ruộng phước này là giả, không phải thật. Chúng ta gieo vào ruộng phước này là gieo sai rồi. Đạo tràng chánh pháp không dễ gì gặp được, rất khó rất khó gặp được, thật sự là chỉ có thể gặp chứ không thể mong cầu được. Gặp được đạo tràng chánh pháp, chúng ta phải ra sức tu bố thí cúng dường. Bố thí cúng dường nhất định phải đúng như pháp. Cư sĩ Lý gần đây tìm được mảnh đất này, chúng tôi muốn xây dựng “Thôn Di Đà”. Ông đến hỏi tôi, có nên xây theo kiểu cung điện hay không? Tôi bèn nói với ông, không nên. Xây theo kiến trúc kiểu cung điện tốn tiền quá nhiều, mà chưa chắc thích hợp. Tôi nói, chúng ta xây theo kiến trúc hiện đại, thoát ra khỏi hình tượng chùa miếu, chúng ta đề xướng giáo dục Phật giáo, cho nên chọn lối kiến trúc hiện đại. Hôm qua họ đem bản thiết kế đến cho tôi xem. Niệm Phật đường có hình tròn, trên đỉnh có một bức tượng Phật. Tôi nói với họ không cần tượng Phật, không nên đem Phật lên đó phơi nắng, phơi mưa, vậy là không cung kính, tượng Phật đó cần phải bỏ đi, làm theo kiến trúc hiện đại, tiết kiệm tiền, dùng đúng vậy mới quan trọng. Việc chủ yếu là phải thành tựu công phu niệm Phật của mọi người, hy vọng mọi người đến nơi đây để niệm Phật, có thể được công phu thành khối, có thể được nhất tâm bất loạn. Được công phu thành khối thì chắc chắn vãng sanh, đây mới gọi là ruộng phước đích thực, ruộng phước chân thật. Phần trường học của họ chúng tôi tiếp nhận, sửa sang lại một chút là có thể làm viện Phật Học, giải và hạnh tương ưng, điều này rất quan trọng. Mỗi ngày người niệm Phật phải nghe kinh, không nghe kinh thì niệm khoảng ba ngày là giải đãi rồi. Nghe kinh là mỗi ngày khuyên họ, mỗi ngày khích lệ họ. Chúng ta ở đó giám sát, không được để họ thối chuyển, giảng kinh mỗi ngày là vì sự việc này, giúp họ dũng mãnh tinh tấn, đây là ruộng phước đích thực. Chúng tôi ở bên cạnh nhìn thấy rất rõ ràng, rất minh bạch, không được phép lãng phí một xu nào cả, mới có thể thành tựu được tấm lòng bố thí của thí chủ, không được phép chà đạp. Nhà Phật thường nói: “Trước cửa địa ngục nhiều tăng sĩ”. Ai đọa địa ngục? Người xuất gia đọa địa ngục. Tại sao đọa địa ngục? Không biết tiết kiệm, không biết cung kính, lãng phí tiền của bố thí của thí chủ. Ở trong đây là tạo rất nhiều tội nghiệp. Bản thân bạn tu trì có công phu gì? Bạn có được nhất tâm không? Có công phu thành khối hay không? Nếu như không có, không có thì. Hay nói cách khác, thế giới Tây Phương Cực Lạc, bạn vẫn phải đặt dấu hỏi ở chỗ đó, bạn chưa chắc có thể đi được. Nếu bạn không đi được, thì những thọ dụng này của bạn, đây chính là trong cửa Phật thường nói: “Một hạt cơm thí chủ, nặng như núi Tu Di, đời nay không liễu đạo, mang lông đội sừng trả.” Cho nên nhất định phải biết tiết kiệm, phải biết tu phước, phải biết tiếc phước, có thể tiết kiệm thì nhất định phải tiết kiệm, việc cần dùng nhất định phải dùng, việc cần dùng tuyệt đối không được hà tiện. Tu phước như vậy đó chính là trăm đời, nghìn đời được hưởng phước lợi lớn. Chỉ có người thật sự hiểu rõ lý của đức Phật nói, hiểu rõ chân tướng sự thật, mới biết mình cần phải tu phước như thế nào, làm thế nào mới được phước lợi lớn. Chỗ này nói “Phước lợi lớn” là không phải phước lợi của cõi trời người. Phước lợi ở cõi trời người không lớn. Về thế giới Tây Phương Cực Lạc làm Phật, làm Bồ Tát, phước lợi đó mới lớn. Phước lợi của chúng sanh trong lục đạo, các bạn đọc qua “Kinh Vô Lượng Thọ”, phước lợi lớn nhất của chúng sanh trong lục đạo là Đại Phạm Thiên Vương. Đại Phạm Thiên Vương nếu so với người hạ hạ phẩm vãng sanh cõi phàm thánh đồng cư độ nơi thế giới Tây Phương Cực Lạc thì kém rất xa. Phước của người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc lớn giống như Đại Phạm Thiên Vương, còn phước của Đại Phạm Thiên Vương thì giống như người nghèo cùng của thế gian chúng ta vậy, không thể sánh bằng. Đây mới đích thực là phước lợi lớn. Chúng ta chịu giúp người khác thành Phật, bản thân chúng ta thành Phật là nhất định có phần nắm chắc. Thật sự giúp người khác thành Phật thì nhất định phải làm tăng thượng duyên tốt cho mọi người. Chúng ta biết những người niệm Phật này, họ có thiện căn, có phước đức, nhưng thiếu nhân duyên. Cho dù có thiện căn, phước đức mà không có nhân duyên thì đời này vẫn không thể thành tựu được. Họ niệm Phật ở nhà hay niệm Phật ở những đạo tràng khác, họ bị quấy nhiễu, tâm họ không thể định lại được. Chúng tôi thường hay nghe đồng tu nói, niệm Phật ở nhà, thì con cháu ở nhà thường hay đến kiếm chuyện, bạn bè thường hay gọi điện thoại đến quấy nhiễu, tâm không thể định lại được. Chúng ta có cái niệm Phật đường này, sau khi bước vào, trong niệm Phật đường không có điện thoại, không lắp điện thoại, trong các phòng nghỉ thảy đều không có điện thoại, tâm của bạn mới định được, không có người nào đến tìm bạn, không bị quấy nhiễu. Đây là chúng ta cung cấp cho họ nhân duyên tu học, cung cấp cho họ môi trường tu học. Cư sĩ Lý có can đảm, tôi rất khâm phục ông. Tương lai người vào cư trú trong làng Di Đà, không phải trả một xu nào cả. Phải có điều kiện gì? “Chịu niệm Phật”, chỉ có một điều kiện như vậy. Già trẻ nam nữ đều được cả, chỉ cần chịu niệm Phật, là có thể sống ở nơi này. Làng Di Đà cúng dường cho bạn suốt đời, mãi cho đến lúc tiễn bạn vãng sanh. Toàn thế giới ngày nay có bao nhiêu chính phủ làm những sự nghiệp phúc lợi cũng không thể sánh bằng làng Di Đà. Tuy những viện dưỡng lão, làng nghỉ hưu ở nước ngoài này làm rất tốt, nhưng vẫn có rất nhiều hạn chế. Thủ tục xin vào vẫn rất phiền phức. Tương lai thủ tục xin vào làng Di Đà của chúng ta chỉ có một điều là “Bạn chịu niệm Phật”, là bạn có thể bước vào. Người ngoại quốc chỉ cần lấy được thẻ lưu trú hợp pháp của Singapore là có thể nuôi bạn suốt đời. Bạn không cần lo lắng gì cả, quần áo, ăn uống, chỗ ở, đi lại đều cúng dường. Cư sĩ Lý muốn thiết kế đồng phục, vào làng Di Đà thì phải thay y phục của làng Di Đà, y phục trước đây của bạn thảy đều không cần nữa. Trong đời sống tứ sự cúng dường thảy đều chăm sóc đầy đủ, đây là bố thí lớn. Tiền từ đâu mà có vậy? Tôi vẫn không hiểu, vẫn không biết. Cư sĩ Lý có niềm tin rằng chúng ta không có phước báo, nhưng Phật A Di Đà có phước báo. Chúng ta làm việc thay cho Phật A Di Đà, thì đương nhiên Phật A Di Đà sẽ quan tâm, niềm tin được thiế lập từ chỗ này. Đức Phật có phước báo, chúng ta là phục vụ thay cho Phật A Di Đà, ông chủ phía sau là Phật A Di Đà, vậy thì sợ cái gì? Cứ yên tâm làm, làm hết lòng hết sức thì chắc chắn làm thành công, chắc chắn làm được viên mãn. Đặc biệt là trong khoảng thời gian gần đây ở Cư Sĩ Lâm, chúng ta nhìn thấy càng bố thí càng được nhiều. Không phải nói bố thí sẽ giảm bớt, bố thí sẽ bị thiếu hụt, không phải, càng thí càng được nhiều, đem lại cho chúng ta niềm tin vô hạn. Cho nên ruộng phước nhất định phải nhận thức rõ ràng. Cái nào là ruộng phước chân thực? Loại ruộng phước nào nhất định được chư Phật Bồ Tát hộ niệm, long thiên thiện thần phù hộ. Hiện nay đạo tràng này cư sĩ Lý cũng đã nói với tôi rất rõ ràng. Chúng tôi làm một cái đạo tràng mẫu, làm một cái điển hình cho thế gian. Sau khi làm thành công rồi, hy vọng người các nơi khác đến nơi đây để tham học. Cho nên nơi đây hoan nghênh tất cả người niệm Phật các nơi trên toàn thế giới đều đến nơi đây để niệm Phật. Thông thường đến bên này thì hải quan Singapore sẽ cho bạn thời gian từ một tháng đến ba tháng, bạn có thể ở tại nơi đây niệm Phật một khoảng thời gian, đem kinh nghiệm và cách làm ở nơi này về, hy vọng tương lai ở các nơi trên toàn thế giới đều có niệm Phật đường như thế này, đều có xây dựng làng Di Đà như thế này, thật sự có thể tiêu trừ tai nạn cho xã hội, cho thế gian, cho tất cả chúng sanh, mang lại bình yên, hòa bình, thịnh vượng. Cho nên việc bố thí này, loại tu phước này thật sự là được trăm đời, nghìn đời hưởng phước lợi lớn. Chúng ta vô cùng may mắn gặp được cái duyên này, chúng ta tu một chút tùy hỷ công đức, không nên xem nhẹ chút tùy hỷ công đức này, một chút tùy hỷ công đức này là không thể nghĩ bàn. Chúng ta biết trân quý cái duyên này, thì đời này của chúng ta không có luống qua, đời này sống có ý nghĩa, có giá trị. Viện Phật học phải cải tổ, phải chiêu sinh, phải mở rộng, cách nghĩ này là chính xác. Bởi vì tương lai những khu vực khác, nếu xây dựng làng Di Đà như thế này nữa, thì nguồn nhân lực của chúng ta không đủ, nên nhất định phải bồi dưỡng rất nhiều nhân tài, giúp các nơi xây dựng làng Di Đà, thúc đẩy sự hoằng dương truyền bá Tịnh Tông. Cho nên việc chiêu sinh, cư sĩ Lý đã bàn bạc với tôi, là không giới hạn chỉ có người Trung Quốc, mà người xuất gia, tại gia ở các nơi trên toàn thế giới, chúng ta đều thâu nhận. Có rất nhiều cư sĩ chủ trì đạo tràng chánh pháp. Cư Sĩ Lâm nơi đây là do cư sĩ chủ trì, Tịnh Tông Học hội ở nơi đây cũng là do cư sĩ chủ trì. Trước đây tôi gần gũi cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Liên Xã Phật giáo Đài Trung, thư viện Từ Quang Đài Trung, đều là do cư sĩ làm chủ trì. Cho nên chúng ta không nên có tâm phân biệt, dứt khoát không nên cho rằng người xuất gia cao hơn người tại gia một bậc, là sai rồi. Cao, thì phải xem công phu tu hành của bạn là cao hay thấp, chứ không ở trên hình tướng, điểm này chúng ta phải biết rõ. Sự việc này đầu năm Dân Quốc, trong lời giáo huấn tại học viện China đại sư Âu Dương Cánh Vô đã có bài nói chuyện rất dài chỉ dạy về sự việc này. Thường thường người xuất gia tự tôn tự đại cuối cùng bị đọa lạc, tạo rất nhiều tội nghiệp. Người tại gia lúc nào cũng khiêm tốn, trái lại được vãng sanh Tịnh Độ bất thối thành Phật, rất đáng để chúng ta cảnh giác. Đại sư Âu Dương đặc biệt nhấn mạnh một câu nói “Phật Pháp là đạo làm thầy”. Cho nên Ngài đề ra: “Phật giáo không phải tôn giáo, không phải triết học, nhưng nó cần thiết cho đời nay.” Sư nói Phật Pháp là đạo làm thầy. Trong đạo làm thầy thì thầy giáo là lớn nhất, và đặc biệt đề xướng tôn sư trọng đạo. Thầy có người là tại gia. Người tại gia họ là thầy của ta, ta học với họ, thì thầy là lớn nhất. Tuyệt đối không được nói thân phận của tôi là người xuất gia, thầy là thân phận tại gia, nên tôi phải lớn hơn thầy, vậy là sai rồi. Cư sĩ tại gia là thầy của chúng ta, thì chúng ta cũng phải xưng họ là hòa thượng. Hòa thượng là tiếng Phạn. Ý nghĩa là thân giáo sư. Pháp của tôi là do thầy ấy truyền cho tôi, là thầy ấy chỉ dạy tôi, người này là thân giáo sư của tôi. Thân giáo sư gọi là hòa thượng. Hòa thượng thì không phân biệt già trẻ nam nữ, không phân biệt tại gia hay xuất gia. A-Xà-Lê là thân phận thầy giáo. Ngôn hạnh của thầy có thể làm tấm gương cho tôi, tôi cần phải học tập theo thầy. Cho nên A-Xà-Lê cũng không phân biệt tại gia hay xuất gia. Hiện nay có rất nhiều thượng sư Mật Tông A-xà-Lê là người tại gia. Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ là A-Xà-Lê của Mật Tông, người xuất gia tu học với Ngài cũng phải đảnh lễ ba lạy, nhiễu quanh bên phải ba vòng. Năm xưa Phật Đà còn tại thế, cư sĩ Duy Ma là người tại gia. Bạn thấy khi Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên gặp cư sĩ Duy Ma, các Ngài hành lễ không có khác gì so với gặp đức Phật, cũng là đảnh lễ ba lạy, nhiễu bên phải ba vòng, hành lễ thầy trò, chẳng hề xem người đó là người tại gia. Chúng ta nhất định phải điều chỉnh quan niệm này lại. Trong Phật Pháp thì thầy là lớn nhất. Nếu như là cư sĩ, thậm chí là nữ cư sĩ tại gia, họ giảng kinh thuyết pháp, họ dạy học, chúng ta cũng phải xem họ giống như Phật Đà vậy, không được phép có mảy may tâm phân biệt, không được phép có tâm khinh mạn, vậy chúng ta mới có được thành tựu. Được rồi , hôm nay thời gian đã hết. Chúng ta chỉ giảng đến đây.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.