KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 98
Đoạn sau cùng này là nói quả báo:
“Tức ư mộng trung kiến vô biên”
(Chiêm bao thấy rõ Tôn-dung hiện)
“Vô biên” chính là vô biên thân của Bồ Tát Địa Tạng. Vô biên thân là nói hóa thân của Bồ Tát Địa Tạng. Vô biên là nhiều, vô lượng vô biên. Chúng sanh có cảm, Phật Bồ Tát liền có ứng. Ở trong mộng bạn nhìn thấy hóa thân của Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát xoa đảnh cho bạn, thọ ký cho bạn.
“Giác lai tiện đắc lợi nhĩ căn”
(Thức rồi, liền đặng trí khôn lanh.)
Cảm ứng đạo giao, sau khi tỉnh dậy rồi bạn liền thông minh, căn tánh của bạn được nhanh nhạy, những gì bạn cầu được cảm ứng.
“Ưng thị kinh giáo lịch nhĩ căn”
(Đại Thừa kinh giáo nghe qua tai)
Sau này bạn đọc kinh, nghe kinh trở lại.
“Thiên vạn sanh trung vĩnh bất vong”
(Nghìn vạn đời sau nhớ chẳng sai.)
Câu nào cũng vâng giữ, cũng nhớ kỹ, cũng có thể y giáo phụng hành. Cho nên phần trước chữ mấu chốt nhất trong tu học là “Chí tâm tư niệm”, là ở bốn chữ này. Chúng ta ngày nay dựa theo phương pháp này tu, tại sao không có hiệu quả? Là do chúng ta chưa làm được bốn chữ này. Ngày này chúng ta làm chỉ là hình thức, mở khóa thất Địa Tạng, làm giống như bộ dạng đó, nhưng thực ra trong tâm cứ nghĩ ngợi lung tung, không có thành ý. Cho nên những gì mong cầu không thể tương ưng được. Đừng nói mở khóa ba thất không tương ưng, mà ba mươi thất cũng vẫn không tương ưng. Trong kinh nói không sai, do bản thân chúng ta làm sai rồi. Nếu như tương ưng, nói lời thành thật, người xưa tế tự họ trai giới ba ngày là có cảm ứng rồi, đâu có lý nào hai mươi mốt ngày mà không có cảm ứng?
“Dĩ thị Đại Sĩ bất tư nghị,
Năng sử tư nhân hoạch thử tuệ.”
(Chính nhờ Đại Sĩ oai thần lớn
Thầm giúp người kia có huệ tài.)
Đây là nhờ oai thần không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Địa Tạng gia trì. Thực ra cũng là do mình chí tâm chiêu cảm nên. Phần trước đã nói qua với quý vị rồi, chân thành đến cực điểm thì tánh đức hiển lộ, cho nên mới có hiệu quả như vậy. Điều này ở trên lý cũng có thể nói trôi chảy được, đây là phương pháp cầu trí tuệ. Mời xem kinh văn, “Khoa Chú” quyển hạ, trang tám mươi lăm, hàng thứ ba kinh văn:
“Bần cùng chúng sanh cập tật bệnh,
Gia trạch hung suy quyến thuộc ly,
Thùy mộng chi trung tất bất an,
Cầu giả quai vi vô xứng toại”
(Chúng sanh nghèo khổ lại ốm đau,
Cửa nhà họa hoạn, người lìa nhau
Ngủ mê mộng mị không an giấc,
Cầu muốn hỏng hư chẳng được nào!)
Đoạn này là kệ tụng chuyển tai nạn. Những gì trong kinh nói, chính là những điều mà hiện nay chúng ta gặp phải. Cho nên phẩm kinh văn này, sau khi chúng ta đọc xong thấy cảm xúc sâu vô cùng. Từng câu từng chữ đều là nói tình trạng hiện thực của chúng ta. Phật Bồ Tát dạy chúng ta phương pháp tu học, làm thế nào thay đổi hoàn cảnh sống của chúng ta, chuyển đổi nghiệp chướng của chúng ta. Cho nên trong phẩm kinh này, chúng ta cũng nhìn thấy Thế Tôn vô cùng từ bi, sau khi dùng văn trường hàng nói rõ ràng cho chúng ta biết, Ngài còn dùng kệ tụng nói lại một lần nữa, chẳng qua là làm tăng thêm ấn tượng cho chúng ta học tập. Trong bài kệ này cũng là nói về sự thật tai nạn. Hiện nay chúng sanh trong thế gian này rất nhiều người nghèo khổ. Người giàu sang suy cho cùng là thiểu số. Chúng ta phải thường xuyên nghĩ đến những chúng sanh nghèo khó khổ nạn này. Bệnh tật của họ không chỉ là thân bệnh, mà còn tâm trạng bất an, trí tuệ không khai mở, đây là tâm bệnh, nó còn nghiêm trọng hơn cản thân bệnh. Thân bệnh cần phải có thuốc men để chữa trị, để điều dưỡng. Tâm bệnh cần Phật pháp, giúp chúng ta phá mê khai ngộ. Đức Phật dạy chúng ta: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh” câu nói này là chân lý. Chỉ một câu là nói rõ cội nguồn của y chánh trang nghiêm hư không pháp giới. Một câu là nói rõ, từ tâm tưởng sinh. Tâm thiện, tưởng thiện thì cảnh giới sẽ thiện. Tâm mê hoặc, tưởng tà ác thì hoàn cảnh sẽ xấu ác, đây là đức Phật nói cho chúng ta biết tình trạng chân thật, chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Thật sự sáng tỏ, giác ngộ rồi, thì họ sẽ điều chỉnh từ trong tâm địa. Đem ý nghĩ ác trước đây, xả bỏ thật sạch sẽ, hình thành một cái tâm thuần thiện, cái tâm thuần túy lợi ích tất cả chúng sanh, thì cảnh giới trước mắt của chúng ta sẽ dần dần chuyển thành tốt đẹp, hơn nữa tốc độ chuyển đổi rất nhanh, sau đó những gì mong cầu đều được mãn nguyện. Bài kệ này dưới đây là dạy cho chúng ta phương pháp tu hành.
“Chí tâm chiêm lễ Địa Tạng tượng”
(Dốc lòng chiêm lễ Địa-Tạng Ngài.)
Mấu chốt là ở “Chí tâm”. “Chiêm lễ Địa Tạng tượng” là hiếu kính. Thật tâm noi theo đức đại hiếu kính của Bồ Tát Địa Tạng.
“Nhất thiết ác sự giai tiêu diệt”
(Bao nhiêu việc ác thảy tiêu ngay.)
Vậy là tâm chuyển cảnh giới rồi, không còn bị cảnh giới chuyển nữa.
“Chí ư mộng trung tận đắc an.”
(Nhẫn đến chiêm bao đều an cả,)
Khi bạn ngủ được yên giấc.
“Y thực phong nhiêu thần quỷ hộ.”
(Quỉ Thần phò hộ, của dư xài.)
Những gì bạn mong cầu đều được mãn nguyện. Mấu chốt của sự tu hành là phải noi theo Bồ Tát Địa Tạng, học tập đức đại hiếu kính của Bồ Tát Địa Tạng, hiếu thuận tất cả chúng sanh, tôn kính tất cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh là bao gồm hết thảy người, hết thảy sự, hết thảy vật, vậy mới có thể nhanh chóng chuyển đổi trở lại được. Hàng thứ nhất trong chú giải, trang tám mươi sáu: “Y thực phong nhiêu.” (Quần áo thức ăn dồi dào dư dả.) Các bạn xem chữ “Phong” có cần sửa đổi lại không? Nó là “Y phong phong nhiêu”, có một chữ sai, là “y thực”, hãy sửa lại. Chúng ta xem tiếp bài kệ tụng dưới đây:
“Dục nhập sơn lâm cập độ hải
Độc ác cầm thú cập ác nhân
Ác thần ác quỷ tính ác phong
Nhất thiết chư nạn chư khổ não.”
(Muốn qua sông biển, đến núi rừng,
Cầm thú độc nguy, giặc đón đường,
Ác Thần, ác Quỉ, mưa gió dữ,
Nhiều nỗi gian nan khốn không lường.)
Đây là tụng lại việc ra ngoài đi du lịch, thường hay gặp phải một số tai nạn. Bạn đi du lịch, trên đất liền phải đi qua những nơi núi rừng, những nơi này đều có rắn độc, thú dữ, trộm cướp thường hay ẩn nấp. “Cập độ hải” (Và qua sông biển). Biển có sóng dữ. Thời xưa thuyền thường không lớn. Bên dưới là:
“Ác thần, ác quỷ, tính ác phong”
(Ác Thần, ác Quỉ, mưa gió dữ)
“Ác phong” là chỉ đi qua biển, rất dễ gặp phải những tai nạn này. “Ác thần, ác quỷ” sự việc này cũng thật sự có. Lần trước cư sĩ Lôi ở nơi đây đã kể cho quý vị nghe không ít câu chuyện. Đó đều là những chuyện mà đích thân ông gặp phải. Tại sao lại gặp phải những loại ác quỷ này? Tại sao người khác không gặp? Từ đó cho thấy, ở trên định luật nhân quả nói vẫn là: “Giọt nước hạt cơm đều do tiền định”. Những ác quỷ, ác thần này, bạn trong đời quá khứ không có ác duyên với họ, nên họ không gây chuyện với bạn. Đều là do trước đây hoặc là ngày nay bạn có mạo phạm đến họ, mắc lỗi với họ, họ mới đến gây chuyện với bạn. Mình không có tu trì, không có đức hạnh, nên họ không tôn trọng bạn, cho nên bạn dễ gặp phải những chuyện này. Những sự việc này thật sự có. Ở đây Đức Phật dạy chúng ta phương pháp tu hành.
“Đản đương chiêm lễ cập cúng dường,
Địa Tạng Bồ Tát Đại Sĩ tượng,
Như thị sơn lâm đại hải trung,
Ưng thị chư ác giai tiêu diệt”
(Sắp sửa ra đi đối trước tượng
Cúng dường kính lễ cùng chiêm ngưỡng.
Núi rừng biển cả có vào trong
Ác tai tiêu sạch thường an sướng.)
Trong văn trường hàng nói rõ ràng, chúng ta trong lúc trước khi chưa xuất phát đi du lịch, đọc “Kinh Địa Tạng”, niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng đủ một vạn biến. Tu học phải “Chí tâm xưng niệm”, bốn chữ này vô cùng vô cùng quan trọng. Thật tâm xưng niệm, tư duy công đức của Bồ Tát, noi theo hành nghi của Bồ Tát thì quỷ thần không những không làm não hại bạn, mà còn bảo vệ bạn. Tại sao vậy? Họ tôn kính bạn. Đây cũng là những việc mà chúng ta hiện nay thường hay gặp phải, nếu bạn thường hay đi ra ngoài du lịch, nhất định phải biết. Sau cùng tổng kết:
“Quán Âm chí tâm thính ngô thuyết,
Địa Tạng vô tận bất tư nghị,
Bách thiên vạn kiếp thuyết bất châu,
Quảng tuyên Đại Sĩ như thị lực.”
(Quán Âm lóng nghe ta nói rõ
Địa-Tạng vô lượng oai thần đó,
Trăm nghìn muôn kiếp thuật chẳng rồi,
Rộng tuyên Đại Sĩ đầy sức nọ!)
Trong phần khoa phán có ghi “Kết tụng phổ cáo lưu bố” (Kết thành kệ tụng lưu truyền rộng rãi.) Thế Tôn khuyên Bồ Tát Quán Thế Âm lưu thông bộ kinh điển này. Đương nhiên Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ đi khắp nơi giới thiệu cho mọi người biết hành nghi của Bồ Tát Địa Tạng. Tại sao vậy? Nếu như không có cơ sở của Bồ Tát Địa Tạng, thì lòng từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ không có nơi nương tựa. Lòng từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm từ đâu mà có? Nó phát huy rạng rỡ từ hiếu kính. Phật pháp Đại Thừa ở Trung Quốc xây dựng hình tượng vô cùng có đạo lý. Lấy bốn vị Bồ Tát lớn để làm tượng trưng. Cho nên bắt đầu học Đại Thừa từ đâu? Bắt đầu học từ Địa Tạng. Địa là tâm địa. Hiện nay chúng ta gọi là kiến thiết tâm lý. Kiến thiết tâm lý là căn bản. Khoa học kỹ thuật trong thế gian hiện nay thay đổi từng ngày, mỗi thành phố lớn, về vật chất họ xây dựng cao ốc, cao ốc hơn một trăm tầng, trong rất nhiều thành phố lớn chúng ta đều có thể nhìn thấy. Nhưng tại sao xã hội không thể an định? Tại sao đời sống không được hạnh phúc? Là do lơ là việc xây dựng tâm lý. Không có có tâm lý vững vàng thì con người thuận theo tập khí phiền não của mình, mọi người đều tranh danh đoạt lợi. Mạnh Phu Tử nói rất hay: “Nếu như trên dưới đều cùng nhau tranh lợi thì nước đó sẽ lâm nguy!”. Chúng ta thử xem thế giới hiện nay, đúng như câu nói này của Mạnh Phu Tử. Mọi người có tin không? Không tin. Sợ là đến cuối thế kỷ sẽ tính sổ luôn, đây là điều chúng tôi thật sự nơm nớp lo sợ. Tiêu trừ tai nạn nhất định phải dựa vào việc xây dựng tâm lý. Mỗi người đều hiểu được đạo hiếu, đều khẳng định đạo hiếu, đều có thể dùng tâm hiếu kính để đối nhân xử thế, dùng tâm đại từ đại bi giúp đỡ tất cả chúng sanh, thì tai nạn của thế gian này sẽ lập tức được hóa giải, xua tan mây mù. Cho nên chúng ta biết Bồ Tát Địa Tạng, pháp môn Địa Tạng là căn. Tôi đã giảng rất nhiều lần, Phật pháp không có gì khác, chính là một chữ “hiếu”. Và văn tự Trung Quốc nói thực ra là đã hiển bày ra sự không thể nghĩ bàn của pháp môn này. Chữ “Hiếu” của Trung Quốc là chữ hội ý. Chúng ta nhận ra được ý nghĩa của chữ này, trong chữ hiếu hàm chứa ý nghĩa gì? Tận hư không, khắp pháp giới là một thể, đây là hàm nghĩa của chữ này. Phía trên nó là chữ “lão”, bên dưới là chữ “tử”. Lão là thế hệ trước, tử là thế hệ sau. Thế hệ trước còn có thế hệ trước nữa, quá khứ vô thỉ. Thế hệ sau còn có thế hệ sau nữa, vị lai vô chung. Vô thỉ vô chung cấu thành một thể, đây là hiếu. Trong kinh Phật thường nói, hư không và pháp giới là một thể. Đức Phật dạy chúng ta tâm lượng phải “Tâm bao thái hư, lượng chu sa giới” (Tâm lượng bao trùm hư không, trọn khắp pháp giới.) Đây là ý nghĩa của chữ hiếu. “Dọc cùng ba mé, ngang khắp mười phương” cũng là ý nghĩa của chữ hiếu. Chữ này bao hàm thật sự là không thể nghĩ bàn. Cho nên việc tu học của nhà Phật khởi đầu từ đạo hiếu, cuối cùng đến thành Phật thì đạo hiếu mới viên mãn, vậy gọi là thành Phật. Bồ Tát đẳng giác vẫn còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, nên đạo hiếu vẫn còn khiếm khuyết một phần. Ai có thể thực hiện đạo hiếu được viên mãn? Chư Phật Như Lai mới thật sự thực hiện đạo hiếu được viên mãn. Sau khi Thế Tôn diệt độ, Ngài đem trọng trách giáo hóa chúng sanh giao phó cho Bồ Tát Địa Tạng, đạo lý là ở chỗ này. Ai là Bồ Tát Địa Tạng? Ai hiểu được đạo hiếu, ai có thể tu đạo hiếu, ai có thể phát huy đạo hiếu thì người đó chính là Bồ Tát Địa Tạng. Bồ Tát Địa Tạng rất nhiều. Trong kinh chúng ta đọc thấy “Đại Sĩ vô biên thân”, vô lượng vô biên đều là Bồ Tát Địa Tạng. Tâm đại từ đại bi của Bồ Tát Quán Thế Âm là sự phát huy rạng rỡ hạnh hiếu của Bồ Tát Địa Tạng. Chúng ta nói cái tâm hiếu thảo cha mẹ, tôn kính thầy tổ này, nay hiếu thuận tất cả chúng sanh, tôn kính tất cả chúng sanh vậy là biến thành Bồ Tát Quán Thế Âm rồi. “Hiếu kính” phải nương vào lý tánh. Cho nên đời sống đối nhân xử thế của chúng ta phải dùng lý trí không nên dùng tình cảm. Tình là mê, tình là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tình tạo tội nghiệp. Tình thức biến hiện ra lục đạo tam đồ. Trí tuệ biến hiện ra pháp giới tứ thánh, nhất chân pháp giới. Đó là sự khác biệt giữa tình và trí. Người thế gian chúng ta cũng thường nói phải có lý tính, phải có lý trí, không được xử sự theo tình cảm. Bồ Tát Văn Thù dạy chúng ta những điều này. Bồ Tát Phổ Hiền là thực hiện ba loại này; hiếu thảo cha mẹ, tôn kính thầy tổ, đại từ đại bi, trí tuệ thực hiện vào trong đời sống, đây chính là Bồ Tát Phổ Hiền. Đây là điểm đặc sắc của Phật pháp Trung Quốc. Lấy bốn vị Bồ Tát lớn làm bốn trụ cột cho việc dạy học của Phật pháp Đại Thừa, nó tạo thành cung điện rực rỡ huy hoàng. Bốn trụ cột này không được thiếu một trụ nào. Cho nên chúng ta phải biết bắt đầu học Phật pháp từ đâu. Thế Tôn căn dặn Bồ Tát Quán Thế Âm lưu thông, cũng chính là chỉ dạy chúng ta, đặc biệt là ở thời đại mạt pháp. Tại sao vậy? Những gì trong kinh nói toàn là sự thật trước mắt chúng ta, chúng ta không có cách giải quyết. Phải dựa vào người giác ngộ như chúng ta đi tuyên dương nói rõ cho tất cả đại chúng. Không những chúng ta phải giảng nó cho rõ ràng, mà bản thân chúng ta phải thật sự làm được, tiêu trừ được nghiệp chướng tai nạn của mình, sau đó chúng ta mới có thể giúp đỡ người khác. Những gì chúng ta giảng mới có y cứ sự thật đích thực. Những tai nạn này xảy ra, ta có thể may mắn tránh được. Tại sao ta có thể may mắn tránh được? Y giáo tu học. Tà quỷ nhập vào người là việc thường xảy ra. Người học Phật chúng ta gọi là ma dựa. Ma dựa là gì? Tức là tà mị nhập vào người. Hầu như khu vực nào chúng ta cũng nhìn thấy. Bản thân chúng ta có hay không? Cũng có, có điều không có nghiêm trọng đến như vậy. Rất nhiều đồng tu tối ngủ bị quỷ đè, rất nhiều người có kinh nghiệm này. Tôi trước đây cũng thường hay bị ma đè, trong tâm biết rất rõ, nhưng không cử động được. Sau khi học Phật thì không còn nữa. Trước đây thầy Lý nói cho chúng tôi biết là quỷ đè. Trong kinh Phật cũng có. Khi thời vận của con người bị suy, họ sẽ đến ức hiếp người. Khi thời vận của con người rất thịnh vượng thì họ không dám đến gần bạn. Khi thời vận của bạn suy, họ sẽ ức hiếp bạn, họ đến đè bạn. Chúng ta từ trong những sự thật này nhận ra được thật sự có chuyện đó, là không phải giả. Hiện nay ở trong nước, ở nước ngoài cũng có, nước Mỹ cũng có. Người Trung Quốc gọi là khả năng đặc biệt, chúng tôi ở nước Mỹ cũng nhìn thấy. Họ có con mắt thứ ba, họ có thể nhìn thấy những thứ rất kỳ lạ này, mà mắt thường của hầu hết mọi người chúng ta không thể nhìn thấy, nhưng họ có thể nhìn thấy. Họ có thể nhìn thấy loại quỷ đè này nhập vào người, họ có khả năng nhìn thấy, cũng có thể nhìn thấy trong nội tạng con người có bệnh hay không. Trước đây ở Miami tôi có gặp được mấy người Mỹ. Miami là một nơi rất kỳ lạ, rất nhiều người kỳ lạ sống ở nơi đó. Lúc đó người tiếp đãi tôi là cư sĩ Tăng Hiến Vĩ. Ở nơi đó ông có thành lập một ngôi niệm Phật xã, mời tôi đến giảng kinh. Cư sĩ Tăng đã từng học Thiền, cũng từng học Mật với một số vị Lạt Ma, ông rất hiếu kỳ, rất thích về những sự việc này, cho nên đối với loại người này ông tiếp xúc rất nhiều. Chúng tôi thường hay nghe ông kể về những chuyện này, là thật sự có. Có sợ không? Không nên sợ hãi. Có sợ cũng vô ích. Không thể nói bạn sợ họ sẽ không đến, càng sợ họ càng làm dữ. Việc gì phải sợ họ. Bạn không sợ họ, họ không hù dọa được bạn, họ dùng hết thủ thuật rồi, thì tự nhiên họ sẽ rút lui. Khi bạn thật sự sợ họ, họ cảm thấy rất hiệu quả, họ sẽ đến khống chế bạn. Bạn không sợ họ, không quan tâm họ, thì họ sẽ không cách gì khống chế bạn được. Nhất là chúng ta tu tâm thanh tịnh. Cảnh giới cao nhất là vô ngã. Đúng như trong “Kinh Kim Cang” dạy phá bốn tướng rồi, thì tất cả yêu ma quỷ quái đều không còn, không thể bám vào đâu được. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, biết những sự thật này, biết mình cần phải tu học như thế nào, để thành tựu công đức chân thật, thành tựu việc lợi ích chúng sanh của mình. Quỷ thần, ma vương cũng như vậy. Đến khi họ không có cách gì quấy nhiễu bạn, thì họ sẽ quay lại quy y hộ pháp. Chúng ta thấy vua ma Ba Tuần làm hộ pháp cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Họ muốn phá hoại Phật pháp, thực ra là tỳ-kheo thời kỳ Mạt Pháp không thể y giáo phụng hành, họ sẽ đến gây chuyện. Người có tu, có học chân chánh thì họ vẫn tôn kính hộ trì. Ma cũng hộ pháp. Đây chính là trong kinh Phật gọi là “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, ma cũng có Phật tánh. Lời Mạnh Tử nói: “Con người ai cũng có lòng trắc ẩn.” Nói vậy đều rất có đạo lý. Người ác đi nữa khi nhìn thấy người khác thọ khổ có khi cũng sinh tâm cảm thông, cũng có thể sinh tâm thương xót. Người ác còn có thể sinh tâm như vậy huống chi người thiện? Cho nên tự hành có thể cảm hóa hết thảy người ác, ác quỷ, ác thần cũng có thể được cảm hóa. Chúng ta xem kinh văn dưới đây:
“Địa Tạng danh tự nhân nhược văn,
Nãi chí kiến tượng chiêm lễ giả,
Hương hoa y phục ẩm thực phụng,
Cúng dường bách thiên thọ diệu lạc,
Nhược năng dĩ thử hồi pháp giới,
Tất cánh thành Phật siêu sanh tử”
(Như người nghe đến Địa-Tạng danh,
Thấy hình chiêm lễ hết lòng thành,
Hương hoa, ăn uống, dưng y phục,
Trăm nghìn báo đẹp hưởng điều lành.
Nếu hay đem công hồi pháp giới,
Rốt ráo thành Phật, sanh tử khỏi.)
Chúng ta đọc đoạn kinh văn này, mới biết công đức của việc tạo tượng thù thắng không thể nghĩ bàn. Nguyên nhân do đâu? Là cho tất cả chúng sanh có cơ duyên nghe danh hiệu, nhìn thấy hình tượng. Bạn cho họ cơ hội này, nên công đức này rất thù thắng. Nhưng ở trong đây có một việc chúng ta cần phải biết. Khi Phật pháp thịnh hành mới có công đức vô cùng thù thắng. Tại sao vậy? Mọi người nhận biết, nghe thấy danh hiệu, nhìn thấy hình tượng Bồ Tát Địa Tạng liền sinh lên tâm hiếu thảo cha mẹ, sinh lên tâm tôn sư trọng đạo, sinh lên tâm noi theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Đây là danh hiệu, hình tượng gợi lên niệm thiện của chúng sanh, công đức đó là quá thù thắng. Nếu như Phật pháp suy yếu, không có người tuyên dương, mọi người xem hình ảnh Phật Bồ Tát là thần tượng, là mê tín, không thể nói không có công đức, chỉ là hiện tiền không đạt được công đức này. Hiện tiền đạt được cái gì? Khiến cho tất cả chúng sanh tạo nghiệp, khiến cho đại chúng xã hội nói: các anh đề xướng mê tín, các anh lễ bái thần tượng. Tuy tạo tội nghiệp, nhưng hình tượng này vừa qua nhãn căn, danh hiệu vừa qua căn tai thì vĩnh viễn thành hạt giống đạo, công đức ở chỗ này. Nhưng họ tạo tác tội nghiệp có phải thọ báo không? Phải thọ báo. Quả báo tội nghiệp ở tam đồ. Tam đồ báo hết rồi, sau đó ra khỏi tam đồ gặp được thiện duyên, thiện căn của bạn chín muồi, nhờ cơ duyên này mà được độ, đạo lý này chúng ta phải biết. Khi nào xây tạo tượng Phật là thích nghi nhất? Sau khi kinh giáo được phổ biến tuyên dương mọi người biết. Đắp tạo hình tượng Phật Bồ Tát là đem lại chánh tri chánh kiến cho con người, công đức này là vô lượng vô biên. Vì vậy chúng ta có nghĩa vụ phải làm cơ hội giáo dục là vô cùng vô cùng quan trọng. Hiện nay ở các nơi trên thế giới, tất cả kiến trúc Phật giáo, bất kể là cổ đại hay là hiện đại, phần lớn đều biến thành điểm tham quan thông thường. Đi tham quan du lịch đều đến nơi này để viếng thăm. Nếu như ở trong những trường hợp này có thiện tri thức, bất kể là xuất gia hay tại gia, đem ý nghĩa tượng trưng của hình tượng Phật Bồ Tát giới thiệu một cách đơn giản, đây là cơ hội giáo dục. Họ đến tham quan đạo tràng, trong đạo tràng thờ cúng những vị Phật Bồ Tát này, bạn giới thiệu từng vị từng vị cho họ. Ngài biểu thị cho ý nghĩa gì, giống như giảng một tiết học cho những vị khách tham quan này vậy, khiến cho họ không đến nỗi hiểu lầm Phật pháp. Nói cho họ biết cái này tuyệt đối không phải là lễ bái thần tượng. Toàn bộ tất cả đồ trưng bày trong nhà Phật đều có ý nghĩa dạy học rất sâu ở trong đó. Không những hình tượng Phật Bồ Tát, là ngay cả tất cả kiến trúc, tất cả đồ bày biện bên trong, chúng ta nói đồ cúng như hương hoa, tràng phan, bảo cái đều là tượng trưng. Dùng danh từ giáo dục hiện nay để nói, đây là giáo cụ, là công cụ dạy học. Khiến cho sáu căn chúng ta tiếp xúc đến liền nghĩ đến nó có ý nghĩa gì, ta cần phải học tập như thế nào. Dùng những thứ này từng giây từng phút nhắc nhở chúng ta, chỉ sợ chúng ta quên mất, chỉ sợ chúng ta ở trong đời sống lại bị mê hoặc, nên dùng những phương pháp nghệ thuật này khiến cho chúng ta vừa vui thích vừa có thể nhắc nhở chúng ta. Đây là nghệ thuật dạy học cao độ, không phải mê tín. Mê tín là các do bạn hiểu lầm, hiểu sai rồi. Tại sao các bạn lại hiểu lầm? Tại sao hiểu sai vậy? Không có người nói rõ ràng chân tướng sự thật cho các bạn biết. Cho nên đại chúng xã hội hiểu lầm là có thể tha thứ được. Lỗi lầm là do chúng ta làm người đệ tử Phật, hai chúng xuất gia, tại gia chúng ta chưa có gánh vác trách nhiệm, chưa có nói rõ ràng, minh bạch sự việc này cho đại chúng xã hội biết. Tại sao nghe danh hiệu, thấy hình tượng lại được lợi ích. Rốt cuộc họ được lợi ích bao lớn chúng ta cũng phải biết rõ ràng, sáng tỏ. Hai câu sau cùng này rất hay.
“Nhược năng dĩ thử hồi pháp giới.”
(Nếu dùng công đức đó hồi hướng đến pháp giới)
Hồi hướng pháp giới. Hồi hướng pháp giới là thế nào? Nói thực ra là mở rộng tâm lượng mà thôi. Chúng sanh trong thế gian niệm niệm đều là vì lợi ích của bản thân mình, cho nên mâu thuẫn xung đột với xã hội, với những chúng sanh khác là vĩnh viễn không thể tránh khỏi. Nếu như bạn mở rộng tâm lượng thì vấn đề này được giải quyết ngay. Chúng tôi xin nêu ra ví dụ, quý vị từ trong ví dụ này suy nghĩ thật kỹ. Chúng ta sống ở trong nhà của mình khi chưa có đi ra ngoài, cũng thường hay xảy ra xung đột với hàng xóm và bạn bè thân thích của mình. Khi rời khỏi quê hương đến sống ở tỉnh khác, gặp được người của quê hương mình, thì ồ đây là đồng hương của chúng ta, thấy vô cùng thân thiết. Người đó thì không khác, khi ở quê hương thì xung đột, ra bên ngoài thì rất thân thiết, cái vòng đó được nới rộng ra một cấp rồi, đây là người quê hương chúng ta. Nếu như đi ra sống ở quốc gia khác, gặp được người nước mình, thì tình thân đó là khác nữa rồi. Người đó không phải đồng hương cũng không phải cùng tỉnh, chúng ta cùng là người một nước, nên bạn xem họ sẽ khác. Nếu như tâm lượng của bạn mở rộng, tận hư không, khắp pháp giới là một nhà, thì bất kỳ chúng sanh cõi nước chư Phật nào bạn nhìn thấy cũng rất thân thiết. Ý nghĩa của hồi hướng là ở chỗ này. Cho nên những sự hiểu lầm nhỏ, xung đột nhỏ thảy đều hóa giải hết. Chỗ vĩ đại của đức Phật là đức Phật xem tận hư không, khắp pháp giới là nhà của mình. Người nhà có hiểu lầm về Ngài, chứ Ngài không có hiểu lầm về người nhà, đây là thật chứ không phải giả. Tận hư không, khắp pháp giới là mình. Tôi nói nhà là vẫn chưa nói đến chỗ chính xác. Tận hư không, khắp pháp giới phải là mình. Đây là nói lời chân thật với bạn, hoàn toàn chính xác không giả chút nào cả. Thập pháp giới y chánh trang nghiêm chính là thân tướng của mình. Thân gì? Pháp thân. Đến khi nào chúng ta chứng được pháp thân thanh tịnh, đến ngày nào bạn bỗng nhiên giác ngộ tận hư không, khắp pháp giới là mình thì bạn chứng được pháp thân thanh tịnh. Khi bạn chứng được pháp thân thanh tịnh, thì cái thân hiện nay của bạn là thân nghiệp báo, lập tức liền biến thành báo thân viên mãn. Báo thân viên mãn là gì? Trí tuệ hiện tiền. Báo thân viên mãn là thân trí tuệ. Bạn sống ở trong trí tuệ chân thật. Chúng tôi thường nói bạn sống là đời sống trí tuệ cao độ, cái thân đó chính là báo thân. Bạn dùng tâm thương yêu của bạn giúp đỡ tất cả chúng sanh, đó là hóa thân, trăm nghìn vạn ức thân. Bạn thử xem căn tánh của chúng sanh khác nhau, chủng loại khác nhau, nguyện vọng khác nhau, bạn phải dùng phương pháp khác nhau để có thể thỏa mãn họ, để có thể chăm sóc họ, để có thể lợi ích cho họ đây chính là trăm nghìn ức hóa thân. Phẩm kinh này học đến đây là kết thúc rồi. Những gì mà trong phẩm kinh này nói, hoàn toàn là hoàn cảnh sống hiện nay của chúng ta, là chân tướng sự thật. Những phương pháp và lý luận mà đức Phật truyền trao cho chúng ta cũng chính là nhu cầu bức thiết của chúng ta. Chúng ta hiện nay sống trong môi trường sống này, mỗi ngày vắt óc suy nghĩ cũng không tìm ra được phương pháp giải quyết. Ở đây Đức Phật thảy đều nói ra cho chúng ta biết cả, bạn thấy Ngài từ bi đến cực điểm. Chín nghìn năm thời Mạt Pháp, chỉ có pháp môn này là có thể cứu độ, lời nói này là thật chứ không phải giả. Lấy pháp này làm nền tảng, là nền tảng đích thực. Chúng tôi trong lúc khai kinh đã nói với quý vị rồi. Nội dung mà trong bộ kinh này nói là phước thứ nhất trong Tam Phước của “Quán Kinh”. Từ toàn kinh mà nhìn cũng thấy đầy đủ viên mãn mười một câu trong tam phước của “Quán Kinh”. Pháp môn Tịnh Tông là lấy cái này làm cơ sở, dùng cơ sở này để niệm Phật cầu vãng sanh thì chắc chắn được sinh Tịnh Độ, hơn nữa có thể khẳng định là thượng bối vãng sanh. Trong tam bối chắc chắn là thượng bối vãng sanh. Từ bỏ cơ sở này thì chưa chắc có thể vãng sanh được. Điều đó hoàn toàn là xem cơ duyên, người thế gian gọi là xem vận may, bạn có gặp được bạn lành hay không? Cơ duyên không phải ngẫu nhiên mà có được, vẫn là do trong đời quá khứ, thiện căn phước đức chín muồi, gặp được duyên mới có tác dụng. Lúc sắp mạng chung họ mới có thể tin, có thể nguyện, có thể hành, họ mới có thể hối cải. Nếu như đặt nền móng từ “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện”, vậy thì nền móng này của bạn là quá kiên cố, vững chắc rồi.
“Nhược năng dĩ thử hồi hướng pháp giới,
Tất cánh thành Phật siêu sanh tử.”
(Nếu hay đem công hồi pháp giới,
Rốt ráo thành Phật, sanh tử khỏi.)
Câu này chúng ta có thể tiếp nhận, có thể tin, có thể khẳng định.
“Thị cố Quán Âm nhữ đương tri.
Phổ cáo Hằng sa chư quốc độ.”
(Quán Âm nên biết gắng tuyên bày,
Truyền khắp Hằng-sa nhiều nước cõi!)
Chúng ta kính mến Bồ Tát Quán Thế Âm thì cần phải noi theo Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán Thế Âm phổ biến tuyên dương “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” đến với hằng sa cõi nước, chúng ta cần phải nên học tập, phải nên tuyên dương. Nhất là chú giải của pháp sư Thanh Liên chú giải rất hay. Chúng ta học tập bộ kinh này, hoặc giả hoằng dương bộ kinh này, có bản chú giải này làm tư liệu tham khảo là đủ rồi. Trong đây có trích dẫn căn cứ kinh điển, Ngài sưu tập không ít tư liệu. Khi chúng ta khuyên người khác, thì có thể sưu tập những câu chuyện sự thật cảm ứng gần đây, giống như trong kinh nói, để càng tăng thêm niềm tin cho thính chúng hơn.
Được rồi, hôm nay chúng ta chỉ giảng đến đây.
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.