KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
Tập 20
Mời xem kinh văn.
“Dĩ thị đẳng bối, ngô đương ưu niệm” (Vì thế nên ta phải lo nghĩ đến những chúng sanh đó)
Điều mà Thế Tôn lo nghĩ chính là sự việc này. Trong tâm Thế Tôn không có lo nghĩ gì khác, chỉ lo nghĩ cho tất cả chúng sanh tội khổ trong tận hư không khắp pháp giới. Ngài không nhắm vào một người nào. Phần trước chúng ta xem thấy, phần trước xem thấy Phu Nhân Ma Gia, bà dường như vẫn biểu thị có một chút tình chấp, đặc biệt lưu luyến chúng sanh cõi Diêm Phù Đề. Và khi Bồ-tát Địa Tạng thuyết pháp cho bà nghe thì tâm lượng đó được mở rộng rồi, đều là làm tấm gương cho chúng ta thấy. Ma Gia phu nhân làm có đúng hay không? Đúng. Làm đúng như thế nào? Chúng ta giúp đỡ chúng sanh bắt đầu giúp từ chỗ gần. Không thể nói chỗ gần không quan tâm, đi quan tâm chỗ xa, không có đạo lý này, không hợp lý, không hợp pháp. Giúp người nhất định phải giúp từ chỗ gần, từ gần đến xa. Những chỗ nào là gần vậy? Người nhà bạn là chỗ gần. Muốn độ chúng sanh trước tiên phải độ người trong nhà của mình. Tại sao không độ nổi người trong nhà vậy? Là do mình chưa làm tốt, mình làm không đúng như pháp, nên người trong nhà bạn không tin. Bản thân bạn làm đúng như pháp thì người nhà bạn sẽ sinh tâm cung kính đối với bạn, khâm phục bạn, muốn học theo bạn, nghe lời bạn. Cho nên bản thân bạn phải làm đúng như pháp. Mình phải làm nên tấm gương tốt để cho người trong nhà thấy. Sau đó bạn làm cho bạn bè thân thích, cho những người bạn quen biết thấy, dần dần từng bước mở rộng ra. Ma Gia phu nhân dạy chúng ta kỹ xảo độ chúng sanh, cònPhật, Bồ-tát là nói với chúng ta từ góc độ toàn diện, họ thảy đều là thiện tri thức, đều là nhằm chỉ dạy chúng ta, mà tạo nên đủ dạng thị hiện,các Ngài biểu diễn cho chúng ta thấy. Nói thực ra, làm thế nào phát huy Phật pháp rạng rỡ, khiến tất cả chúng sanh sinh tâm vui vẻ tiếp nhận vậy? “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” đây là kịch bản tốt nhất, có thể đem nó lên sân khấu, có thể làm nó thành phim truyền hình dài tập, quay nó thành phim ảnh, thì không có người nào không thích, không có người nào không yêu mến, phương tiện thiện xảo lợi ích tất cả chúng sanh. Nhưng muốn làm việc này, nói thực ra, là cần phải phát triển theo phương hướng này,người biên kịch, người đạo diễn, diễn viên trước tiên phải đến giảng đường đểhọc, chúng ta đem kinh này thảy đều giảng rõ ràng, giảng minh bạch từ đầu đến cuối, mọi người đều phát tâm làm Bồ-tát Địa Tạng, mọi người đều phát tâm để xây dựng sự nghiệp Địa Tạng, sau đó bộ phim này nhất định thành công, mới có thể quay thành công. Hiện nay cũng có một số bộ phim, phim dài tập của Phật giáo tôi xem thử thấy chưa đạt yêu cầu. Nguyên nhân gì vậy? Đạo diễn, diễn viên không hiểu Phật pháp, nên cái hiệu quả này, đương nhiên sẽ kém rất nhiều. Nhất định diễn viên, đạo diễn, phải thật sự hiểu được giáo nghĩa, hiểu sâu nghĩa thú, họ viết kịch bản, kỹ xảodiễn xuất, mới có thể thể hiện ra trí tuệ cao độ, mới có thể thật sự đạt đến mức phương tiện thiện xảo. Chúng ta có cái tâm này, cũng có cái nguyện này, mà duyên không đầy đủ. Ngày nay do không có nhóm diễn viên, đạo diễn truyền hình, điện ảnh này đến cùng nhau học Phật với chúng ta, nên hiện nay vẫn không thể làm được chuyện này. Nếu như có được nhóm người này, nhân duyên chín muồi rồi, thì chúng sanh có phước báo lớn. Chúng sanh trên toàn thế giới có phước báo lớn. Cả bộ “Kinh Hoa Nghiêm” cũng có thể đem lên sân khấu. “Kinh Hoa Nghiêm” tuy chúng ta chưa có giảng bao nhiêu, chỉ mới giảng một chút xíu, mà các bạn nghe thấy cũng rất có ý nghĩa, mọi thứ đều có thể đem lên sân khấu. Ở trong đời sống thường ngày, mọi thứ chúng ta đều làm nên tấm gươngtrong đời sống, cho nên học Phật, Bồ-tát chính là học biểu diễn. Chúng ta không đi vào sân khấu của những diễn viên này, chúng ta ngày nay ở trong sân khấu xã hội này, phải biết mình làm sao diễn vở kịch này cho hoàn hảo, khiến cho những chúng sanh chưa được giải thoát nhìn thấy vở kịch này họ có thể cảm ngộ, họ có thể cảm động, họ có thể giác ngộ, vậy là đạt được mục đích hoằng pháp lợi sinh rồi. Chúng ta thử xem điều Phật lo nghĩ là gì? Điều chúng ta ngày nay lo nghĩ là gì? Điều chúng ta lo nghĩ là sai, là giả. Điều chúng ta lo nghĩ là cái thân của mình, tính mạng gia đình mình, là giả không phải thật. Thân là vô thường. Vật ngoài thân thì càng không thể được, nhất định phải hiểu đạo lý này, thấu rõ chân tướng sự thật. Chư Phật Bồ-tát hết thảy đều chân thật, chúng ta phải hoàn toàn tin tưởng, nghiêm túc học tập, y giáo phụng hành. Xem tiếp câu phía sau này:
“Nhữ ký tất thị vãng nguyện, lũy kiếp trùng thệ quảng độ tội bối,Ngô phục hà lự” (Đời trước ông trót đã lập nguyện trải qua nhiều kiếp phát thệ rộng lớn độ hết cả hàng chúng sanh bị tội khổ, thời Ta còn lo gì!)
Thế Tôn nghe thấy Bồ-tát Địa Tạng báo cáo, cũng vô cùng hoan hỷ. Nói ông đã:
“Tất thị vãng nguyện” (Thảy đều là nguyện của đời trước)
Bồ-tát Địa Tạng phát nguyện độ chúng sanh, không phải ở hôm nay, vô lượng kiếp trước Ngài đã phát cái nguyện này, đời đời kiếp kiếp thực hiện nguyện vọng của Ngài, hơn nữa nhiều lần phát nguyện lại. Giống như chúng ta mỗi ngày niệm Tứ Hoằng Thệ Nguyện: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.” Chúng ta là mỗi ngày niệm Tứ Hoằng Thệ Nguyện, chứ không phải phát. Nếu như thật sự phát, thì tưởng tượng nổi không? Nếu như thật sự phát nguyện này, thì bạn không phải phàm phu rồi. Không phải phàm phu, là gì vậy? Bạn là Bồ-tát Phát Tâm Trụ. Chúng ta thử xem trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói Bồ-tát phát tâm trụ là địa vị gì? Sơ trụ viên giáo. Bạn đã thoát khỏi lục đạo, thoát khỏi thập pháp giới. Thật sự phát tứ hoằng thệ nguyện rồi, liền thoát khỏi ngay. Không những không ở trong lục đạo, bạn cũng không ở trong thập pháp giới, vừa phát liền thoát khỏi ngay. Hằng ngày niệm, không được, niệm không thể thoát khỏi, phải thật sự phát [nguyện]. Chúng ta quan sát thật kỹ, Tứ Hoằng Thệ Nguyện có phải bổn nguyện của Địa Tạng không? Phải, không sai tí nào cả. Hôm nay ở cung trời Đao Lợi, Bồ-tát Địa Tạng lại phát nguyện, tiếp nhận lời giao phó của Thế Tôn, giúp những chúng sanh khổ nạn này. Thế Tôn ở chỗ này, nó lời này cũng là tán thán Bồ-tát: “Lũy kiếp trùng thệ” Chữ này đọc trọng cũng được, đọc trùng cũng được, đều đượccả. Trọng là Ngài phát thệ nguyện rất nặng. Trùng là Ngài nhiều lần phát cái thệ nguyện này, có hai loại âm đọc, hai loại ý nghĩa đều được cả. Phật nhìn thấy Ngài ngay đó nhận lấy [trách nhiệm này], cũng thấy rất an ủi rồi, không còn lo nghĩ nữa, không còn bận tâm nữa. Thực ra toàn là biểu diễn cho chúng ta thấy. Quý vị phải biết, Phật Thích Ca Mâu Ni cũng hóa thân làm Bồ-tát Địa Tạng. Tại sao không dùng thân Phật để xuất hiện ở thế gian này tiếp tục thuyết pháp cho chúng ta? Không được, những chúng sanh này tánh thức vô định. Nếu như thấy Phật trụ lâu ở thế gian, quý vị nên biết, chúng sanh sẽ buông lung, lười biếng, không cần vội, hôm nay không nghe kinh, ngày mai Ngài vẫn còn giảng, năm nay không học, vài năm sau hãy học cũng không muộn, Ngài vẫn cứ đang giảng. Nếu như nói là Phật sắp phải diệt độ, vậy liền lật đật, gấp rút học. Tại sao? Không học sẽ không còn cơ hội,họ bèn khẩn trương ngay. Cho nên Phật thị hiện diệt độ, thị hiện trụ thế đều là phương tiện thiện xảo,chúng ta phải hiểu ý nghĩa này, cầu học cũng lại như vậy. Tôi trước đây cầu học ở Đài Trung, thời gian ngắn, tôi được lợi ích nhiều hơn bạn học thông thường. Nguyên nhân gì vậy? Chúng tôi là người nơi khác đến, đến Đài Trung làm khách, thời gian rất ngắn, nên gấp rút học, chăm chỉ học, sợ ngày nào đó không còn cơ hội học nữa.Người sống ở thành phố Đài Trung, họ không có quan niệm này, nghĩ thầy Lý sẽ thường sống ở thành phố Đài Trung, năm nay không được vẫn còn năm sau, năm sau không được vẫn còn năm sau nữa, cái tâm đó vĩnh viễn là lười biếng, mãi đến khi thầy Lý vãng sanh rồi, cũng học chưa thành. Thầy Lý đã sống ở Đài Trung 38 năm,tâm trạng này khác nhau. Chúng tôi làm khách, nên tâm trạng rất khẩn trương, phải nắm cơ hội nàycho thật chắc,biết một khi mất cơ hội thì không dễ dàng có lại được nữa. Phật, Bồ-tát thị hiện ở thế gian này, dùng thân phận Phật xuất hiện, cũng là cái ý nghĩa này, không thể thường trụ. Thường trụ thì chúng sanh về sau sẽ lười biếng, Phật dạy học sẽ không linh, cho nên không thể thị hiện thường trụ được. Mời xem đoạn kinh văn này dưới đây, đoạn kinh văn nàyThế Tôn một bên hỏi một bên đáp với Bồ-tát Địa Tạng, bên cạnh lại có thêm một vị Bồ-tát khác nữa bước vào:
“Thuyết thị ngữ thời, hội trung hữu nhất Bồ-tát Ma-Ha-Tát” (Khi đức Phật dạy lời như thế xong, trong pháp hội có vị đại Bồ-tát)
Những vị Bồ-tát này đều là Bồ-tát đẳng giác, đều không phải Bồ-tát phổ thông.
“Danh Định Tự Tại Vương” (hiệu là Định Tự Tại Vương)
Từ danh hiệu này của Ngài, chúng ta biết Ngài được đại tự tại ở trong Thiền Định. Ở trong Phật pháp thường nói: “Định Na Già thường tại, không lúc nào không định”
“Bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Địa Tạng Bồ-tát lũy kiếp dĩ lai các phát hà nguyện, kim mông Thế Tôn ân cần tán thán? Duy nguyện Thế Tôn lược nhi thuyết chi.”(Ra bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Từ nhiều kiếp đến nay, Ngài Địa Tạng Bồ-tát đã phát thệ nguyện gì, mà nay được đức Thế Tôn ân cần khen ngợi như thế? Cúi mong đức Thế Tôn lược nói cho.”)
Thế Tôn ở trong đại hội khen ngợi Bồ-tát Địa Tạng, Bồ-tát Định Tự Tại Vương đâu có lý nào không biết. Biết rõ mà vẫn hỏi. Bởi vì Ngài biết, hội này khi kết tập kinh tạng, nhất định sẽ được truyền lâu xa. Người không có tham gia pháp hội này, nhìn thấy thái độ của Phật Thích Ca Mâu Ni đối với Bồ-tát, khen ngợi đối với Bồ-tát, sẽ luôn khó tránh khỏi nghi ngờ. Rốt cuộc Bồ-tát có những nguyện nào, những đức hạnh nào mà được Thế Tôn tán thán như vậy? Nhưng người không tham gia pháp hội đi hỏi ở đâu bây giờ? Sau này mặc dù được biết những thông tin này, nhưng không biết hỏi ở đâu. Bồ-tát Định Tự Tại Vương từ bi, Ngài biết, Ngài hỏi thay chúng ta, để cho Thế Tôn nói rõ cho chúng ta biết, nhằm trừ bỏ nghi hoặc cho chúng ta. Cho nên loại câu hỏi này ở trong Phật pháp gọi là câu hỏi lợi lạc hữu tình, cũng đáng để chúng ta học tập. Chúng ta có khi bản thân không có nghi hoặc, nhưng nghĩ đến ngườikhác có nghi hoặc thì cũng phải đặt câu hỏi. Đặc biệt là hiện nay, chúng ta lợi dụng phương pháp khoa học kỹ thuật, giảng kinh, diễn thuyết đều ghi hình, ghi âm để lưu thông, cho nên người nghe không nhất định là ở hiện trường, có thể người nghe ở ngoài hiện trường còn nhiều hơn, không cách nào thống kê được. Họ có nghi vấn đi hỏi ở đâu bây giờ? Cho nên hỏi vì lợi lạc hữu tình, chúng ta cần phải học tập. Mời xem kinh văn:
“Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Định Tự Tại Vương Bồ-tát: Đế thính! Đế thính! Thiện tư niệm chi, ngô đương vi nhữ phân biệt giải thuyết.” (Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ngài định tự tại vương Bồ-tát: “Lóng nghe! Lóng nghe! Phải khéo suy xét đó, Ta sẽ vì ông mà giải bày rõ ràng.)
Bồ-tát hỏi, Thế Tôn nhất định giải đáp, vả lại Thế Tôn biết, lời giải đáp này có thể lợi ích cho rất nhiều vô lượng vô biên đại chúng không có mặt ở hiện trường. Trước khi chưa khai thị, mấy câu nói này là nhằm khuyên răn Bồ-tát, nói thực ra chính là khuyên răn đại chúng chúng ta hiện nay.
“Đế thính! Đế thính! Thiện tư niệm chi.” (Lóng nghe! Lóng nghe! Phải khéo suy xét đó)
Tám chữ này quan trọng, chúng ta có thể nghe hiểu được ý của Phật hay không mấu chốt là ở tám chữ này. Trong kệ khai kinh nói rằng: “Nguyện giải Như-lai chân thật nghĩa” Nếu như không có tám chữ này thì rất khó hiểu nghĩa chân thật của đức Như-lai. Đế là gì? “Đế” là chân thành, dùng tâm chân thành để nghe. Sao gọi là chân thành? Lìa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, đây gọi là đế thính (Lóng nghe). Hay nói cách khác, khi nghe pháp trong tâm không được phép có vọng niệm, đây gọi là đế thính.
“Thiện tư niệm chi” (Phải khéo suy xét đó)
Thiện tư chính là chỗ ngộ. Sau khi nghe xong có chỗ ngộ. Nhà Phật chúng ta nói khai ngộ, nghe pháp khai ngộ. Lóng nghe mới có thể khai ngộ. Sau khi nghộ rồi phải “Niệm chi”(suy xét). Niệm là hành, không lúc nào quên. Ở trong tám chữ đã bao gồm tín, nguyện, hạnh, đều ở trong đó cả. Đây là tâm thái nghe pháp cần phải có. Không có cái tâm này, không có thái độ này, thì đúng như cái gọi là: Nghe cũng như chưa nghe, nghe mà cũng như không.Cách nghe pháp như vậy là cũng như chưa có nghe, thế thì uổng công rồi.
“Nãi vãng quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ na-do-tha bất khả thuyết kiếp.” (Vô lượng vô số na-do-tha bất khả thuyết kiếp về thuở trước.)
Đây là trước tiên nói chuyện xưa của Bồ-tát Địa Tạng. Giới thiệuvị Bồ-tát này với chúng ta, để chúng ta nhận biết Bồ-tát Địa Tạng, hiểu rõ Bồ-tát Địa Tạng, sau đó chúng ta mới tin Ngài, chúng ta mới muốn học tập theo Ngài. Đây là muốn nói rõ nhân duyên tu học trước đây của Bồ-tát Địa Tạng, sự tích của Bồ-tát Địa Tạng trong vô lượng kiếp vĩnh viễn nói không hết. Chỉ có thể nêu ra sơ lược mấy ví dụ ở trong tất cả sự tích này thôi. Đây là Phật Thích Ca Mâu Ni nói cho chúng ta biết một ví dụ lúc sơ phát tâm của Bồ-tát Địa Tạng, cái thời gian này quá lâu, quá lâu rồi. Chúng ta ngày nay quen gọi là con số thiên văn.
“Nhĩ thời hữu Phật” (Lúc đó, có đức Phật ra đời)
Vào thời đại đó, đây là kiếp lâu xa về trước. Vào lúc đó có một đức Phật:
“Hiệu Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như-Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.” (Hiệu Là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như-Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.)
Mười cái danh hiệu này, ở trong nhà Phật nói là thông hiệu của chư Phật, mười danh hiệu này hiển thị trí tuệ, đức năng trên quả địa Phật. Thành Phật rồi, đây là chứng quả, trí tuệ, đức năng vô lượng vô biên, cũng là khen ngợi, tuyên thuyết không hết. Phật đem vô lượng vô biên trí tuệ, đức năng trên quả địa quy nạp thành mười loại lớn, dùng mười cái danh hiệu này để biểu thị. Mười danh hiệu này, chúng ta nói sơ lược qua một chút. “Nhất Thiết Trí Thành Tựu” là biệt hiệu của Phật, tất cả trí tuệ thành tựu rồi.
Từ “Như-lai” trở xuống mười cái này là thông hiệu. Mỗi một vị Phật đều có mười danh hiệu này. Đây là chỗ quý vị đồng tu phải nhớ kỹ, phải biết, đừng sinh ra hiểu lầm. Bởi vì có rất nhiều người nói là Phật. Hỏi vị Phật nào lớn nhất? Họ bảo Phật Như-lai lớn nhất. Đây đều là quan niệm sai lầm, xem tiểu thuyết nhiều rồi!Tôn Ngộ Không không thể nhảy ra khỏi bàn tay của Phật Tổ Như-lai. Mỗi một vị Phật đều xưng là Như-lai. Cho nên Như-lai là thông hiệu. Cách giải thích chữ “Như-lai” như thế nào? Cách giải thích đơn giản nhất là Phật nay cũng như Phật xưa tái lai vậy, cho nên gọi là Như-lai. Phật Phật đạo đồng. Thành Phật rồi thì mọi thứ đều bình đẳng, hoàn toàn giống nhau. Bồ-tát với Bồ-tát chưa chắc giống nhau, không hoàn toàn giống nhau. Phật với Phật là hoàn toàn giống nhau. Cho nên nói là Phật nay cũng như Phật xưa tái lai. Ý nghĩa đó nếu nói sâu một chút, trong “Kinh Kim Cang” có cách giải thích: “Như-lai giả, chư pháp như nghĩa” (Như-lai tức là nghĩa như của các pháp) Cách giải thích này hay. Nghĩa như của các pháp. Chữ như này nghĩa là gì vậy? Như chính là chân như bản tánh, toàn bộ tất cả các pháp thảy đều tương ưng với chân như bản tánh, đây gọi là Như-lai, cái ý nghĩa này nói vô cùng vô cùng viên mãn, là nói từ trên lý. Nói như Phật xưa tái lai là nói từ trên sự. Ngoài ra còn rất nhiều ý nghĩa nữa, chúng tôi tỉnh lược bớt.
“Ứng Cúng”. Cúng là cúng dường. Trong tất cả mọi người Phật là người thiện chân thật cứu cánh viên mãn, là người có đức năng lớn, trí tuệ lớn cứu cánh viên mãn, là vị thầy tốt, tấm gương tốt của chúng ta, là người đáng được chúng ta cúng dường. Chúng ta cúng dường Ngài, vậy là có phước báo, cho nên Ứng Cúng, làđáng được trời, người cúng dường.
Thông hiệu thứ ba là “Chánh biến tri”. Tri là không có gì không biết. Biến là phổ biến, không có cái gì Ngài không biết. Không những biết khắp, mà còn biết khắp rất chính xác,cái Ngài biết không có mảy may sai lầm. Tất cả kinh pháp mà Phật nói, làm gì có chuyện sai lầm? Nếu như có sai lầm, đại khái đều là bị người sau dựa theo ý của mình sửa đổi đi, thế mới sinh ra sai lầm. Cho nên kinh điển lưu truyền đến ngày nay, mấy ngàn năm nay thông qua phiên dịch.Vào thời xưa là bản chép tay, khó tránh khỏi chuyện không có chữ bị chép sai, khó tránh khỏi chuyện không có câu bị chép sót. Chúng ta hiện nay làm công việc này đều biết, là việc rất khó khăn. Mặc dù phát hiện thấy chữ này trong kinh điển có thể không thật đúng, có sai lầm, chỗ này có vấn đề, nhất định không được sửa đổi. Nếu như bạn phát hiện, có thể chú thích ở bên cạnh, dùng tiểu chú, chú thích ở bên cạnh, chứ không được sửa đổinguyên văn. Đạo lý gì vậy? Tôi cảm thấy chỗ này không đúng tôi sửa một chút, bạn cảm thấy chỗ kia không đúng cũng sửa một chút,thế thì thôi rồi. Sau đó qua mấy chục năm, thì bộ kinh điển này hoàn toàn khác rồi, nhất định là không thể đọc được. Cho nên mặc dù có sai lầm, cũng không được sửa, mà chú thích rõ. Đại đức xưa nay làm theo cách này làm rất tốt, các ngài phát hiện có chữ sai, đoán chữ này có thể là chữ nào, hoặc giả phải là chữ gì, họ chú thích bên cạnh, chứ không sửa đổi văn gốc,khiến cho diện mạo ban đầu vĩnh viễn được giữ nguyên lại, lợi ích cho người học sau này. Đây là cách làm có trách nhiệm đối với lịch sử, đối với chúng sanh, chúng ta cần phải học tập, đây là Chánh Biến Tri. Người thế gian hầu hết tín đồ tôn giáo ca ngợi đấng Thượng Đế toàn tri toàn năng, chánh biến tri chính là toàn tri toàn năng. Nói thực ra, Thượng Đế chưa phải toàn tri toàn năng, Phật mới là toàn tri toàn năng. Phật là ai vậy? Phật là chân tâm bản tánh của chính chúng ta. Chân tâm bản tánh của chính chúng ta là toàn tri toàn năng đích thực. Bởi vì tận hư không khắp pháp giới đều là do tâm tánh biến hiện ra. Nó đâu có không biết? Đâu có không thể? Cho nên đây là cách nói rất hợp lý. Nếu như tâm tánh của bản thân chúng ta hoàn toàn thấu lộ ra, hoàn toàn hiển lộ ra thì đối với quá khứ, vị lai của toàn bộ vũ trụ quả thật sự là Chánh Biến Tri, đây không phải là giả.
“Minh Hạnh Túc” Túc là viên mãn. Minh là đại biểu cho trí tuệ. Hạnh là đại biểu cho tu học. Hai thứ đều viên mãn. Đây là dùng danh từ Phật pháp để nói,tánh tu viên mãn. Minh là trí tuệ Bát nhã trong tự tánh, tánh đức. Hạnh là tu đức. Khi chưa có viên mãn gọi là Bồ-tát, viên mãn thì gọi là Phật. Cũng có thể xem là giải hạnh viên mãn. Minh là giải. Hạnh là tu hành. Giải hành viên mãn.
“Thiện Thệ” Câu này là trong Kinh Đại Thừa thường nói: “Vô trụ Niết bàn”, vô trụ Niết bàn thật sự là Thiện Thệ. Tại sao vậy? Cái thiện này của Ngài, không trụ sanh tử, không trụ Niết bàn, đây mới gọi là thiện. Phàm phu trụ sanh tử, không thiện. Chết rồi lại đầu thai tiếp, không thiện. Nhị Thừa trụ Niết bàn, cũng không thiện, đọa vào hầm vô vi, không khởi tác dụng. Phật và đại Bồ-tát là thiện,không trụ hai bên sanh tử, Niết bàn, đây mới đích thực là Thiện Thệ. Không trụ Niết bàn, nên họ có thể tùy loại hóa thân,cần dùng thân gì được độ, họ liền hiện thân ấy. Không trụ sanh tử. Tuy độ chúng sanh, tuy hóa hiện đủ dạng thân độ tất cả chúng sanh, mà không nhiễm mảy bụi, ở trong tâm rất sạch sẽ, làm mà không làm, không làm mà làm. Cũng chính là nói, không những là không chấp trước ở trên sự tướng, mà ở trong tâm cũng không để lại dấu vết, đây chính là không trụ sanh tử. Quý vị nên biết, không trụ sanh tử thì là trụ Niết bàn, không trụ Niết bàn thì là trụ sanh tử. Ngài hai bên đều không trụ, hai bên viên dung, đích thực gọi là đại Niết bàn. Đây là đại Niết bàn trên quả địa Như-lai. Đại Niết bàn là hai bên sanh tử Niết bàn đều không trụ.
“Thế Gian Giải”. Thế gian quy mô nhỏ là lục đạo, mở rộng ra một chút là thập pháp giới, mở rộng thêm một chút nữa là thế gian và xuất thế gian tận hư không khắp pháp giới, Phật đều biết cả, không có gì Ngài không biết,cho nên xưng Ngài là Thế Gian Giải.
“Vô Thượng Sĩ”. Sĩ người hiện nay gọi là phần tử trí thức, vào thời xưa gọi là người có ăn học, đọc sách rõ lý. Người cao nhất, trên nhất trong số người có ăn học, không có người nào cao hơn, trên hơn Ngài nữa. Ngày nay nói Ngài là đạt đến đỉnh cao trong giới phần tử trí thức, không có người nào cao hơn Ngài.
“Điều Ngự Trượng Phu” danh hiệu này là được lập nên từ sự phương tiện thiện xảo trong việc giáo hóa chúng sanh của Ngài. Phật có trí tuệ, có năng lực, có thiện xảo, có thể điều phục tâm của chúng sanh, có thể giúp chúng sanh đoạn ác tu thiện, đây là giống như điều khiển.
“Trượng Phu” Gọi là đại trượng phu. Ý nghĩa của đại trượng phu với ý nghĩa của hai chữ anh hùng là hoàn toàn giống nhau. Người khác không làm được, Ngài có thể làm được, nên gọi là đại trượng phu. Ngài là Điều Ngự Trượng Phu, có thể điều hòa chúng sanh trong chín pháp giới, giúp họ giác ngộ, giúp họ đoạn phiền não, giúp họ liễu sanh tử, ra khỏi tam giới, thành Phật thành tổ, Phật có loại năng lực này. Đây là thiết lập nên từ trên đức năng.
“Thiên Nhân Sư” Sư là sư phạm (gương mẫu). Tất cả chư thiên.Nói một chữ thiên, một chữ Nhân là đã bao gồm cả lục đạo, thập pháp giới rồi. Ngài là mẫu mực, gương mẫu của tất cả hữu tình trong thập pháp giới, tất cả chúng sanh trong lục đạo.
Chữ “Phật” này mọi người đều hiểu rõ, đều sáng tỏ rồi, là dịch âm từ tiếng Phạn của Ấn Độ sang. Ý nghĩa của nó là giác ngộ. Trong đó bao hàm tự giác, giác tha. Mình giác ngộ rồi, giúp người khác giác ngộ,giác hạnh viên mãn. Chỉ cầu tự giác, mà không giúp người khác, đây là Tiểu Thừa, A-la-hán. Mình giác ngộ cũng giúp người khác giác ngộ, đây là Bồ-tát. Nếu như tự giác, giác tha đều viên mãn rồi, đây bèn gọi là Phật, chính là ý nghĩa của Phật. Viên mãn, thế nào mới được xem là viên mãn? Bồ-tát có thể nói là tự giác (tự mình giác ngộ) được viên mãn rồi. Còn đây là giác tha,vẫn còn rất nhiều chúng sanh chưa có được độ, họ làm sao viên mãn được? Chữ viên mãn này, quý vị phải biết, Bồ-tát giác tha vẫn là giúp cho mình giác ngộ. Chúng ta thường nói thầy giáo dạy học trò, dạy và học giúp nhau cùng tiến bộ. Đến khi nào viên mãn vậy? Ở trong dạy học, tuy thời gian tu học của chúng ta không dài, trong mười mấy năm, mấy chục năm nhất định có thể hội. Chúng ta được một số học trò, được một số người đến hỏi khi gặp khó khăn, nó sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều rất nhiều. Có một số vấn đề quan trọng, người khác không hỏi thì hoàn toàn không nghĩ đến. Họ vừa hỏi, chúng ta mới nghĩ đến, thử xem mình có trí tuệ hay không? Có trí tuệ thì có thể giải đáp, không có trí tuệ thì phải mau mau đi tìm tư liệu, đi thỉnh giáo người khác, là giúp mình. Nên dạy và học thật sự giúp nhau cùng tiến bộ. Bồ-tát họ phải đoạn kiến tư phiền não, phải đoạn trần sa phiền não, phải phá căn bản vô minh, không nhờ vào sự giúp đỡ của tất cả chúng sanh thì họ cũng vô phương. Cho nên họ ở trong dạy học, tất cả đại chúng giúp họ khai trí tuệ, giúp họ đoạn phiền não, họ mới có thể chứng được vô thượng Bồ đề. Đây bèn gọi là viên mãn. Bản thân họ viên mãn rồi, thì mới có thể độ tất cả chúng sanh viên mãn được. Chúng sanh được độ phải dựa vào duyên phận. Cho nên Phật không thể độ người không có duyên. Viên mãn ở trong độ chúng sanh mà nói, họ có năng lực độ chúng sanh đẳng giác, đây gọi là viên mãn. Họ thành Phật rồi. Bồ-tát không thể gọi là viên mãn được. Tại sao vậy? Bồ-tát Đẳng Giác, bạn có thể độ Thập Địa trở xuống, chứ không thể độ Đẳng Giác, độ chúng sanh không viên mãn, hóa tha không viên mãn. Thành Phật rồi,là họ đều có năng lực chỉ dạytất cả chúng sanh, đây gọi là viên mãn. Giác hạnh viên mãn là ý nghĩa như vậy. Có năng lực độ Bồ-tát Đẳng Giác, thế là không có cấp bậc nào không độ. Cách nói của độ chúng sanh viên mãn là như vậy.
“Thế Tôn” có đầy đủ mười danh hiệu, mười loại đức hiệu phía trước này, vậy bèn xưng là Thế Tôn. Người thế gian và xuất thế gian đều tôn trọng Ngài, đều tôn kính Ngài. Ngài có trí tuệ, đức năng như vậy, cho nên xưng Ngài là Thế Tôn. Là giống như chúng ta khách sáo tôn xưng người khác, lễ độ tôn xưng người khác, tôn kính người khác vậy. Tôn chính là tôn kính. Thêm chữ Thế Tôn, tức là tất cả người thế gian tôn kính. Ý nghĩa này rất rộng, rất sâu.
“Kỳ Phật thọ mạng lục vạn kiếp.” (Đức Phật đó thọ sáu muôn kiếp)
Đây là vào thời đại đó tuổi thọ của Phật dài, nên tuổi thọ của nhân dân thời đại đó cũng dài. Tuổi thọ mà Phật thị hiện nhất định là giống như đại chúng vậy. Giống như Phật Thích Ca Mâu Ni vào 3000 năm trước xuất hiện ở thế gian này của chúng ta. Bản thân Ngài thị hiện là 79 tuổi viên tịch. Chúng ta quen nói Phật trụ thế 80 năm. Nhưng trên thực tế là 79 tuổi. Nói 80 năm, là do người Trung Quốc chúng ta nói tuổi ta, là 80 năm. Trụ thế 80 năm, giảng kinh thuyết pháp 49 năm, đây là Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện, tuổi thọ là gần giống như người thế gian này của chúng ta. Từ đó cho thấy, Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như-Lai, chúng sanh thời đó của Ngài phước báo lớn, tuổi thọ dài. Từ chỗ này có thể thấy ra được, nơi đó, thời đó của Ngài phước báo của chúng sanh rất lớn.
“Vị xuất gia thời vi tiểu quốc vương dữ nhất lân quốc vương vi hữu, đồng hành thập thiện, nhiêu ích chúng sanh.” (Khi Ngài chưa xuất gia, thời Ngài làm vua một nước nhỏ kia, kết bạn cùng với vua nước lân cận; hai Vua đồng thựchành mười hạnh làm lợi ích cho nhơn dân)
Kể lại chuyện của đức Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như-Lai như vậy. Đức Phật này trong lúc chưa xuất gia, thời gian này quá lâu, quá lâu rồi,Ngài nay đã thành Phật rồi. Thành Phật thông thường nói tu hành, từ phàm phu tu thành Phật thời gian rất dài rất dài. Đây là muốn nói đến chuyện từ kiếp lâu xa Ngài tu nhân địa, Ngài là vua của một nước nhỏ.
“Dữ lân quốc vương vi hữu.” Hai vị quốc vương nước lân cận này, cũng vô cùng hiếm có, đều là quốc vương rất tốt.
“Đồng hành thập thiện, nhiêu ích chúng sanh.” (Đồng thựchành mười hạnh làm lợi ích cho nhơn dân)
Hai vua dùng phương pháp gì để trị quốc vậy? Dùng thập thiện nghiệp đạo để trị quốc, đây là vô cùng hiếm có. “Nhiêu ích”. Ích là lợi ích. Quốc vương niệm niệm đều là hy vọng đời sống nhân dân có thể sống tốt, nhân dân thật sự được lợi ích, sống thật hạnh phúc, thật mỹ mãn. Nhiêu là phì nhiêu. Không những lợi ích,hơn nữa còn được rất giàu sang. Bất luận là ở đời sống vật chất hay đời sống tinh thần đều có thể đạt đến thỏa mãn, vậy mới gọi là nhiêu ích. Có thể thấy tâm của quốc vương vô cùngthiện.
“Kỳ lân quốc nội sở hữu nhân dân đa tạo chúng ác.” (Nhơn dân trong hai nước lân cận đó phần nhiều tạo những việc ác.)
Lân quốc là những quốc gia khác có đường biên giới với họ. Nhân dân trong đó tạo tác ác nghiệp. Hai nước này của họ tốt, hai khu vực này tốt, vua dạy dân tốt. Cho nên vào thời xưa làm vua, theo tiêu chuẩn của nhà Nho là có ba điều: Tác chi quân. Quân là quân vương. Bạn là người lãnh đạo của quốc gia. Tác chi thân. Người lãnh đạo là cha mẹ của nhân dân, phải dùng cái tâm yêu thương bảo vệ con cái này để đối xử với nhân dân trong cả nước, yêu thương dân như con, bạn phải bảo vệ họ, bạn phải nuôi dưỡng, dạy dỗ họ. Còn phải tác chi sư. Bạn là thầy của nhân dân, là mẫu mực của nhân dân, là tấm gương của nhân dân, đây mới là một người lãnh đạo tốt nhất, khiến cho nhân dân cả nước thật sự hưởng được phước báo. Hưởng phước của ai vậy? Phước của người lãnh đạo, họ dạy nhân dân tốt, đều là nói đến sư phạm. Trước đây nơi vua ở gọi là Kinh Sư. Ý nghĩa của chữ kinh là lớn. Sư là sư phạm. Là thành phố mẫu mực. Thành phố trong cả nước lấy nó làm mẫu mực, lấy nó làm gương mẫu nên gọi là sư. Tên gọi hay biết bao, dụng ý thiện biết bao. Cho nên chúng ta đừng nên xem thường, cho rằng làm vua trước đây là chuyên chế. Bạn xem thường là sai lầm. Ngày nay chúng ta vào trong hoàng cung Bắc Kinh thử xem. Nơi làm việc ở trong hoàng cung, nơi làm việc gọi là đại điện. Đại điện chính là nơi vua hội họp, tập trung xử lý công việc, nơi đó gọi là gì vậy? Điện Thái Hòa. Phía sau điện Thái Hòa là điện Trung Hòa.Phía sau nữa, công trìnhkiến trúc chủ yếu nhất trong ba cái này là điện Bảo Hòa. Thái Hòa, Trung Hòa, Bảo Hòa, tâm họ dùng là tâm gì? Họ dùng tâm thái như thế nào để đối diện với nhân dân cả nước? Dùng “Hòa”. Trên dưới hòa mục, cả nước là một khối hòa thuận, thì đất nước này đâu có lý nào không hưng vượng? Nhà Phật chúng ta nói Lục Hòa, còn họ nói Tam Hòa. Thánh nhân thế gian và xuất thế gian đều là dạy chúng ta dĩ hòa vi quý,chúng ta phải hiểu được ý nghĩa này. Cho nên đây là vị vua hiền, minh chủ đích thực. Nếu như người kế ngôi họ, hậu duệ đều tuân thủ nguyên tắc này, thì triều đại này sẽ vĩnh viễn truyền mãi xuống, đâu có lý nào bị diệt vong được? Người đời sau không tuân thủ, làm càn làm bậy, nên quốc gia này bị mất nước rồi, chính quyền bị mất hết rồi,chúng ta nhất định hiểu rõ đạo lý này. Hai vị quốc vương này tốt, cho nên quốc gia của họ được quản lý vô cùng tốt. Nhưng thử xem những quốc gia khác ở bên ngoài đó thì khác nhau, nhân dân tạo ác, tạo tội. Tạo tội đương nhiên phải thọ báo.
Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến chỗ này. .
A Di Đà Phật
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.