KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.
TỔNG CỘNG 102 TẬP
Tập 10
Câu dưới đây là: “Nãi chí phi tưởng, phi phi tưởng xứ thiên”(Cho đến trời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Xứ). Hai chữ “nãi chí” là tỉnh lượt bớt, đây là nói trời Tứ Không, trời Vô Sắc Giới. Thiên nhân trời Vô Sắc Giới thực ra là người rất thông minh, rất có trí tuệ trong phàm phu. Thời Trung Quốc cổ đại, Lão Tử ngài xuất hiện vào triều Chu, thời đại Xuân Thu, là cùng thời đại với Khổng Tử, lớn tuổi hơn Khổng Tử. Người này thông minh. Ngài nói: “Ta có hoạn nạn lớn, bởi vì ta có thân”. Ngài nói ta có hoạn nạn rất lớn. Hoạn nạn gì vậy? Vì ta có thân này. Thân là gốc của khổ. Nếu như không có thân thể thì tốt biết bao, tự tại biết bao, là phàm phu cao cấp. Cho nên Ngài biết thân là gốc của khổ. Làm sao xả bỏ thân, không cần thân nữa? Ngài chán ghét sắc thân, tăng cường định lực ngài thật sự có thể xả bỏ, xa lìa sắc thân, để nâng cao lên trên nữa, người bình thường chúng ta gọi là linh giới. Dựa vào Phật pháp để nói chỉ có thần thức mới không có sắc thân, dạng này chúng ta bèn gọi là Vô Sắc Giới. Trời Sắc Giới, thiên nhân cõi Sắc Giới đã ly dục rồi, loại phiền não nghiêm trọng này, ngũ dục lục trần xả hết rồi, thoát khỏi Dục Giới đến Sắc Giới. Sắc Giới vẫn còn sắc tướng, vẫn còn thân thể, vẫn còn môi trường cư trú. Những thứ này vẫn là phiền phức, vẫn chưa phải rốt ráo. Xả sạch cái này liền đến trời Tứ Không. Trời Tứ Không vẫn là phạm vi của lục đạo, hoàn toàn chưa có ra khỏi lục đạo.
Tầng thứ nhất của trời Tứ Không là “Trời Không Xứ”. Sau khi lìa khỏi sắc rồi thì bước vào Không Xứ, tâm duyên hư không, không có sắc tướng. Định này gọi là định Hư Không. Tầng thứ hai là “trời Thức Xứ”, “không” cũng xả bỏ hết. Không là hiển hiện đối lập với sắc, cho nên hư không không phải chân thật. Họ cũng phải đem “không” xả bỏ sạch. “Không” xả bỏ hết rồi nhưng vẫn còn tồn tại thức. Đây là dựa vào nơi mà họ duyên vào để đặt cho nó một cái tên gọi là Thức Xứ. Thực ra xả “Không” là không chấp vào “Không”, chứ không phải thật sự xả bỏ hết “không”, mà là không còn chấp trước tướng Không nữa, trong tâm không còn ý niệm đối lập không và sắc. Vào lúc này vẫn còn thức, cho nên gọi là Thức Xứ. Người tu hành lúc này nếu như phát hiện còn thức, thì vẫn là chuyện phiền phức, vẫn chưa phải rốt ráo. Thức chính là phân biệt.
Đem phân biệt xả bỏ sạch, thì liền vào “trời Vô Sở Hữu Xứ” , là tầng thứ ba của Vô Sắc Giới, nhập vào Vô Sở Hữu. Khi tu định này thì buông xả tất cả cảnh giới trong ngoài. Buông xả cảnh giới hai bên trong ngoài rồi, xả bỏ hết rồi nên gọi là Vô Sở Hữu. Đến tầng cao nhất này là “Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ thiên” (Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ). Bởi vì ngay cả thức họ cũng không duyên vào, cho nên đây là Phi Tưởng. Chỗ không khởi tác dụng cũng không duyên vào nên gọi là Phi Phi Tưởng. Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng, đây là cảnh giới cao nhất trong tam giới. Có rất nhiều cách nói về Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng, có thể tham chiếu cách nói trong Kinh luận. Trong “Kinh Lăng Nghiêm” nói rất rõ ràng tỉ mỉ, trong “Đại Tự Điển Phật Học” thông thường cũng có giải thích tỉ mỉ, đây là trời Vô Sắc Giới.
Thông thường những học nhân đến cảnh giới này thì cho rằng đây chính là đại Niết bàn mà trong quả địa Như-lai nói, họ không biết đây là trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, cứ cho rằng cảnh giới này là vĩnh viễn bất sanh bất diệt, đâu có biết rằng họ vẫn còn tuổi thọ. Tuổi thọ của họ chính là do sức định của họ. Sức định của họ có thể duy trì được bao lâu vậy? Trong Kinh nói tám vạn đại kiếp. Con số này rất lớn. Tám vạn đại kiếp là thế nào vậy? Thế giới này của chúng ta một lần thành, trụ, hoại, không là một đại kiếp. thế giới thành, trụ, hoại, không. Trong một đại kiếp có 4 trung kiếp, 4 trung kiếp chính là thành, trụ, hoại, không, đây là 4 trung kiếp. Thế giới Ta-bà hiện nay của chúng ta ở là đúng vào kiếp trụ, thành trụ, kiếp trụ. Tám vạn đại kiếp chính là thế giới này thành, trụ, hoại, không tám vạn lần. Họ có sức định sâu như vậy, nên tuổi thọ của họ dài như vậy. Sau khi thế giới thành, trụ, hoại, không tám vạn lần rồi, thì họ vẫn phải bị đọa lạc, vẫn bị đọa lạc xuống, họ không thể lên trở lại được nữa, họ chỉ có đọa xuống, khi đọa thì đọa rất thê thảm. Người bình thường nói là trèo càng cao thì té càng nặng. Trong “Kinh Lăng Nghiêm” nói thiên nhân Tứ Không sau khi đọa lạc xuống thì phần lớn là đọa vào địa ngục A-tỳ, từ chỗ cao nhất rớt xuống chỗ thấp nhất. Tại sao vậy? Phỉ báng Phật, pháp, tăng, do lỗi lầm phỉ báng Tam Bảo mà đọa vào địa ngục A-tỳ. Tại sao họ có ý niệm phỉ báng Tam Bảo vậy? Vì họ nghĩ ta đã thành Phật, chứng được đại Niết bàn rồi, tại sao bây giờ vẫn còn bị đọa lạc? Trong tâm sinh ra hoài nghi, cho rằng lời chư Phật Như-lai nói là giả, không phải thật, vậy liền đọa lạc. Là do tự họ hiểu sai, nhận lầm, chứ đó không phải cảnh giới Niết bàn của Như-lai. Không những không phải quả địa Như-lai, mà quả địa Tiểu Thừa cũng không phải, là do hoàn toàn hiểu lầm. Cho nên tu hành càng lên cao thì cảnh giới đó càng khó phân biệt tà chánh. Đây là lý do tại sao Thế Tôn ở trong “Kinh Lăng Nghiêm” nói cho chúng ta biết 50 loại ngũ ấm ma. Cảnh ma hiện tiền chúng ta cho nó là cảnh giới Phật, thế là bị lầm to rồi! Người mới học chúng ta nếu muốn tránh khỏi ma chướng, phương pháp duy nhất là y giáo tu hành, những gì Phật nói trong Kinh nhất định vâng theo. Lời do người khác nói, không phải lời trong Kinh Phật nói thì nhất định không được tin theo, như vậy thì có thể tránh bị rơi vào đường ma. Cho nên điều quan trọng nhất là chúng ta phải tin Phật, chúng ta là học theo Phật. Chúng ta gần gũi một vị thiện tri thức, lời của vị thiện tri thức này nói ra có thấy trong Kinh thì chúng ta tin, nếu trong Kinh không có thì chúng ta không tin, không nên học theo họ. Phật nói vô lượng pháp môn, khi nói là ứng với cơ duyên mà nói. Cơ duyên khác nhau thì Phật nói pháp khác nhau. Vì thế chúng ta muốn học pháp môn nào, dựa vào Kinh điển nào, điểm này là quan trọng hơn hết. Sau đó mới không đến nỗi hiểu sai nghĩa chân thật của Như-lai. Ví dụ Phật nói với chúng ta thế giới Tây Phương Cực Lạc thì chắc chắn là có thật. Chúng ta tu Tịnh Độ thì dựa vào Kinh điển Tịnh Độ. Phật ở trong những Kinh điển khác nói vạn pháp đều không, nếu bạn nói tất cả đều không thì thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng không, Phật đã từng nói vậy cho nên bạn không tin, vậy chẳng phải bạn đã bỏ lỡ cơ hội lần này rồi sao? Học pháp môn nào thì dựa theo Kinh điển của pháp môn đó mà tu học, những Kinh điển nào nói khác với pháp môn này thì nhất định không được dựa theo. Thực ra đạo lý này rất cạn, chẳng hề quá sâu, không khó hiểu. Giống như học trong trường đại học hiện nay, bạn học khoa nào thì nhất định phải dựa theo chương trình của chính khoa đó, bạn không được học chương trình của khoa khác. Bạn học những môn học khác, không giống với môn học của khoa bạn, không những không có lợi ích, trái lại còn phá hoại. Vậy chẳng phải là cùng đạo lý sao? Phật ở trong Kinh thường hay dùng y vương để làm ví dụ. Ví dụ này sẽ rõ ràng hơn. Thầy thuốc chẩn đoán kê toa thuốc cho bệnh nhân, kê toa thuốc cho bạn thì người khác không dám uống, do bị bệnh khác nhau, bạn vừa uống thuốc này liền khỏi ngay, người khác vừa uống liền chết ngay. Tám vạn bốn ngàn pháp môn là tám vạn bốn ngàn loại toa thuốc khác nhau, để độ tám vạn bốn ngàn bệnh nhân khác nhau, sao có thể uống lung tung tùy tiện được?
Cho nên chúng ta tu pháp môn vãng sanh nhất định phải căn cứ theo Kinh vãng sanh. Trong “Đại Tạng Kinh” Phật nói, ba Kinh một luận gọi là Kinh vãng sanh: “Kinh Di Đà”, “Kinh Vô Lượng Thọ”, “Kinh Phật Quán Vô Lượng Thọ”, “Vãng Sanh Luận” của Bồ-tát Thiên Thân, bốn bản này. “Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm”, “Đại Thế Chí Viên Thông Chương” là do người đời sau thêm vào. Thêm vào rất hay, cũng có thể nương tựa, chắc chắn không có vấn đề gì. Hiện nay gọi là năm Kinh một luận. Chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh phải căn cứ theo Kinh điển này thì không sai, không được dựa vào Kinh điển khác. Những gì trong Kinh điển khác nói có tương ưng với lý luận, phương pháp, cảnh giới trong Kinh điển chúng ta thì có thể tham khảo, nếu không tương ưng quyết định không đọc, quyết định không nên xem, thì công hạnh của bản thân chúng ta mới thật sự có phần nắm chắc, mới có thể có thành tựu. Nếu bạn Kinh gì cũng đọc, Kinh gì cũng học thì bạn bị phiền phức lớn rồi, không những bản thân bạn tu học không thể thành tựu, mà bạn cũng không thể giáo hóa chúng sanh được. Bạn giáo hóa chúng sanh lấy chỗ này một chút, lấy chỗ kia một chút, sẽ khiến cho chúng sanh bị mê hoặc điên đảo. Ngày nay học Phật là vô cùng vô cùng khó khăn. Tại sao tôi không dạy ở Viện Phật Học, đạo lý là ở chỗ này. Viện Phật Học mở ra rất nhiều chương trình, mời rất nhiều pháp sư, giảng mỗi ngày khiến cho những học sinh này mê hoặc điên đảo, như say như dại, chẳng thu được hiệu quả.
Bản thân tôi học Phật được một chút lợi ích, hay ở chỗ là may mắn gặp được thiện tri thức, một người dạy, tiếp nhận lời dạy của một nhà, đi một đường, vậy là rất đơn giản, không phức tạp, không có nghi hoặc. Điểm này rất quan trọng, rất quan trọng. Sau này chúng tôi mới hiểu ra sư thừa mà nhà Nho, nhà Phật nói chính là ý nghĩa này. Tôi học với một vị thầy, nghe lời dạy của một vị thầy, vị thầy này phải chịu trách nhiệm về tôi. Nếu như tôi còn muốn đi học với người khác, thì vị thầy này không cách gì dạy được. Thật sự gần gũi thiện tri thức, theo cách sư thừa đó của người xưa, bạn theo sát một vị thầy, nhất định không được phép học với người thứ hai, không được nghe lời chỉ dạy của người thứ hai, thì bạn mới có thể có thành tựu. Thầy phải chịu trách nhiệm nhân quả đối với bạn. Trách nhiệm này rất nặng. Chỉ sai, dẫn dắt sai đường cho bạn thì họ phải nhận ác báo. Nhưng mà bản thân bạn không tiếp nhận, bạn muốn đi khắp nơi nghe người khác, còn muốn xem Kinh sách khác, thì vị thầy này không thể chịu trách nhiệm về bạn được. Từ nay về sau e rằng sư thừa đã không còn nữa, mất hết rồi, cho nên có thể thành tựu được hay không là hoàn toàn ở mỗi cá nhân. Hay nói cách khác, không có vị thầy nghiêm túc phụ trách dạy cho bạn, người thầy muốn tìm học trò như vậy nói thực ra cũng không thể tìm ra, hoàn toàn dựa vào sự giác ngộ của chính mình.
Muốn thật sự giác ngộ, thật sự thành tựu thì vẫn phải đi con đường cũ, chỉ học với một vị thầy cố định. Tôi khuyến khích mọi người, chúng ta ngày nay học theo ai vậy? Học theo Phật A-Di-Đà. Phật A-Di-Đà ở đâu vậy? “Kinh Vô Lượng Thọ” chính là Phật A-Di-Đà. Chúng ta đọc “Kinh Vô Lượng Thọ”, tiếp nhận lời giáo huấn của Phật A-Di-Đà, những gì Phật A-Di-Đà dạy chúng ta làm thì chúng ta chăm chỉ làm. Phật A-Di-Đà không dạy chúng ta làm chúng ta nhất định không làm, chúng ta chỉ nghe theo Phật A-Di-Đà, chứ không nghe theo bất kỳ người nào, bạn đời này nhất định vãng sanh. Ngoài ra ở đây có một vị đại đức có thể giúp chúng ta một tay, đó là Ấn Quang Đại Sư. “Ấn Quang Đại Sư Văn Sao”, từng câu từng chữ tương ưng với Kinh vãng sanh. Thường xuyên đọc tụng “Văn Sao” của Ấn tổ, làm bạn với Ấn tổ, nghe lời chỉ dạy của Ngài, vâng theo lời hướng dẫn của Ngài, đoạn ác tu thiện, giữ trọn luân thường, làm tròn bổn phận, tin sâu nhân quả, thật thà niệm Phật thì nhất định được sanh về Tịnh Độ. Đây là con đường duy nhất của chúng ta trong đời này cầu vãng sanh, cầu ra khỏi tam giới lục đạo. Ngoài con đường này ra, không có con đường thứ hai nào khác.
Xin xem tiếp đoạn Kinh văn này dưới đây: “Nhất thiết thiên chúng, long chúng, quỷ thần đẳng chúng, tất lai tập hội”, (Hết thảy chúng Trời, chúng Rồng, và các chúng Quỷ Thần đều đến tụ hội).
Đoạn này là nói đến những đại chúng thiên long bát bộ. Những đại chúng này, chúng ta lại đọc tiếp đoạn Kinh văn này dưới đây.
Dưới đây là chúng thần: “Phục hữu tha phương quốc độ, cập Ta-bà thế giới” (Còn có những cõi nước phương khác và thế giới Ta-bà).
Thế giới Ta-bà là bản địa của chúng ta, còn có thế giới phương khác. “Hải thần, Giang thần, Hà thần” (Thần Biển, thần Sông lớn, thần Sông nhỏ), đây là thủy thần. Thủy có lớn nhỏ. Người Trung Quốc gọi là long vương.
“Thọ thần, Sơn thần, Địa thần, Xuyên Trạch thần, Miêu Giá thần, Trú thần, Dạ thần, Không thần, Thiên thần, Ẩm Thực thần, Thảo Mộc thần, như thị đẳng thần giai lai tập hội” (Thần Cây, thần Núi, thần Đất, thần Suối và Ao Hồ, thần mùa màng, thần Ngày, thần Đêm, thần Hư Không, thần Trời, thần Ăn Uống, thần Cỏ Cây các vị thần như vậy đều đến hội tụ).
Chúng ta hợp chung hai đoạn này lại để nói. Hai đoạn này là nói về bát bộ và tất cả chúng thần. Trước đây pháp sư Thánh Nhất giảng “Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện” ở Cửu Hoa, đều đã có giới thiệu về những chúng thần này. Chúng thần cũng đến tham gia đại hội này, lần tụ hội này chẳng hề ngẫu nhiên, mà đều là có nhân duyên sâu dày với Bồ-tát Địa Tạng trước đây. Nếu không có duyên, khi Phật Thích Ca Mâu Ni mở pháp hội lần này ở cung trời Đao Lợi, thì họ có tư cách gì mà tham gia được? Chúng ta nhìn thấy đại chúng tham gia pháp hội không thể không có nghi hoặc. Không những có những chúng trời, chúng thần này, phần sau còn nói có chúng quỷ.
Chúng ta tiếp tục xem Kinh văn: “Phục hữu tha phương quốc độ cập Ta-bà thế giới chư quỷ vương. Sở vị Ác Mục quỷ vương, Đạm Huyết quỷ vương, Đạm Tinh Khí quỷ vương, Đạm Thai Noãn quỷ vương, Hành Bệnh quỷ vương, Nhiếp Độc quỷ vương, Từ Tâm quỷ vương, Phúc Lợi quỷ vương, Đại Ái Kính quỷ vương, như thị đẳng quỷ vương giai lai tập hội.” (Lại có các quỷ vương ở những cõi nước phương khác và thế giới Ta-bà, như quỷ vương Ác Mục, quỷ vương Đạm Huyết, quỷ vương Đạm Tinh Khí, quỷ vương Đạm Thai Noãn, quỷ Vương Hành Bệnh, quỷ Vương Nhiếp Độc, quỷ vương Từ Tâm, quỷ vương Phúc Lợi, quỷ vương Đại Ái Kính, các quỷ vương như vậy đến tụ hội).
Đã liệt kê ra 10 loại quỷ vương. Cõi quỷ cũng tương đối phức tạp, người có phước đức trong cõi quỷ thì được xưng là quỷ vương. Chúng ta tu phước ở nhân gian không uổng công, phước báo là chân thật. Phước mà bạn tu tương lai bạn nhất định được phước báo. Nhưng hưởng phước báo ở nơi nào thì không nhất định, phải xem bạn ở đường nào. Bạn có phước thì bất kể ở đường nào cũng được hưởng phước, rơi vào trong đường quỷ cũng hưởng phước. Xin thưa với quý vị, chỉ có đường địa ngục thì vô phương. Bạn ở cõi người, cõi trời, cõi súc sanh, cõi ngạ quỷ, người có phước đức đều hưởng phước, ở trong cõi quỷ thì làm quỷ vương. Những người này, những chúng sanh này đều là có duyên với Phật, đặc biệt là có duyên sâu với Bồ-tát Địa Tạng. Chúng ta từ trong Kinh này thấy chúng sanh thập pháp giới thảy đều tụ hội tại nơi đây, thật không thể nghĩ bàn, đây là điều chúng ta chưa từng nhìn thấy trong toàn bộ tất cả pháp hội. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” cũng có, chúng sanh thập pháp giới cũng đều đến dự hội, nhưng mà nếu sánh với “Kinh Địa Tạng” thì vẫn không bằng. Tại sao vậy? Trong lần tụ hội của “Kinh Địa Tạng” này, phần trước chúng ta nhìn thấy tất cả chư Phật, tất cả chư Phật Như-lai mười phương ba đời không sót một vị nào, thảy đều đến đầy đủ. Điều này ở trong “Hoa Nghiêm” không nhìn thấy. Từ chư Phật Như-lai cho đến chúng sanh địa ngục, đến những quỷ vương này, có rất nhiều Quỷ vương cai quản địa ngục, thảy đều đến tham dự, quá hiếm có. Sau khi chúng ta đọc đoạn Kinh văn này rồi nhất định không được coi thường, biết lần pháp hội này là thù thắng vô song. Nguyên nhân gì vậy? Những người này, những chư Phật Như-lai này đều là học trò của Bồ-tát Địa Tạng, hôm nay thầy có việc, học trò làm sao dám không đến. Uy đức của Bồ-tát Địa Tạng lớn như vậy sao? Đúng vậy, Địa Tạng là gì? Tâm địa. Không phải nói một người, phía trước vừa mở đầu liền nói với bạn, địa là tâm địa, chân tâm bản tánh. Tạng là vô lượng trí tuệ, đức năng vốn có trong bản tánh. Hết thảy chúng sanh đều nương vào cái này để tu hành thành Phật. Ngày nay giảng pháp môn Địa Tạng là tất cả chư Phật Như-lai ủng hộ, tất cả chúng sanh phải nương tựa, phải dựa vào, cho nên pháp hội này là thù thắng đứng đầu, “Hoa Nghiêm” không thể sánh bằng. “Hoa Nghiêm” cũng là phải nương vào nó mới có, nó là chỗ dựa căn bản. Quý vị phải biết tầm quan trọng của vấn đề này. Chỗ dựa căn bản chính là phước đầu tiên của “Quán Kinh”. Chúng ta ngày nay lơ là “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ, tâm nhân từ không giết hại, tu thập thiện nghiệp.” Xin thưa quý vị, dù tu pháp môn gì bạn trong đời này cũng không thể thành tựu. Tại sao vậy? Bạn không có căn bản, nên học Phật phải vô lượng kiếp.
Chúng ta học Phật tuyệt đối không phải chỉ có một đời này, chúng ta xem thấy trong “Kinh Vô Lượng Thọ”, nhóm người cùng với vua A-Xà-Thế này, nói thực ra chính là nói chúng ta, trong đời quá khứ đã từng cúng dường 400 ức Phật, nhưng hiện nay vẫn là phàm phu, vẫn còn trôi lăn trong lục đạo. Cúng dường 400 ức Phật, tu hành, nghe pháp không phải là ít, tại sao không thể ra khỏi tam giới vậy? Tại sao không thể vãng sanh? Điều này trước đây thầy Lý thường nói, một vạn người niệm Phật hiếm có được vài ba người vãng sanh. Là đạo lý gì vậy? Bạn không có tu từ căn bản. Ban đừng thấy những người vãng sanh đó, vãng sanh tướng lành tốt như vậy, có thể họ nghe Kinh cũng rất ít, nghe pháp cũng không nhiều, họ thật sự vãng sanh rồi. Bạn hãy hỏi thăm thật kỹ xem, người này nhất định là hiếu dưỡng cha mẹ, nhất định là tôn kính sư trưởng, tâm địa rất từ bi. Bạn thử hỏi thăm kỹ xem, họ đối nhân xử thế trong đời sống thường ngày chắc chắn là phù hợp với điều đầu tiên của tam phước. Có ai dạy họ không? Không có ai dạy học cả, họ vốn dĩ là như vậy, họ làm người rất từ bi, họ rất tôn trọng người khác, thật sự làm được. Chúng ta không bằng họ, tại sao vậy? Đọc được một ít sách, học được một chút Phật pháp là cống cao ngã mạn, cảm thấy mình rất tài giỏi, người khác không bằng ta. Họ có thể vãng sanh, chúng ta trái lại bị lạc hậu, còn nằm trong luân hồi. Tại sao vậy? Họ chưa từng đi học bao giờ, không biết chữ, họ rất khiêm tốn, rất nhún nhường, lúc nào cũng luôn ở dưới người khác, thấy mình không bằng người ta, họ vãng sanh. Cho nên học càng nhiều, trước đây thầy Lý nói, khi không được đi học còn biết hiếu thảo cha mẹ, học nhiều rồi, thấy cha mẹ không được ăn học, tưởng rằng học vấn, học vị của mình cao hơn cha mẹ, nên càng học thì mắt càng chạy lên đỉnh đầu rồi, ngay cả cha mẹ cũng chẳng coi ra gì, thì đâu thể tôn trọng sư trưởng được? Người như vậy một ngày niệm 10 vạn câu Phật hiệu cũng không thể vãng sanh. Cho nên chúng ta nhất định phải hiểu rõ đạo lý lớn này, y giáo phụng hành mới không đến nỗi uổng phí một đời này.
Bộ “Kinh Địa Tạng”, đức Phật Thích Ca Mâu Ni mở pháp hội này ở cung trời Đao Lợi là giảng pháp cơ bản, nên chúng sanh trong thập pháp giới thảy đều đến đầy đủ cả, đến tham gia pháp hội này, thật vô cùng không thể nghĩ bàn. Tên của những thiên thần, quỷ thần này không khó hiểu, mọi người có thể xem tên là hiểu nghĩa, tôi ở chỗ này lượt bỏ bớt. Nếu quý vị muốn biết, có thể tham khảo Giảng Ký của pháp sư Thánh Nhất. Bài giảng ký này lưu thông rất rộng, sư giảng rất hay, đơn giản rõ ràng.
Mời xem Kinh văn: “Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật cáo Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử, Bồ-tát Ma-ha-tát: “Nhữ quán thị nhất thiết chư Phật Bồ-tát, cập thiên long quỷ thần thử thế giới, tha thế giới, thử quốc độ, tha quốc độ, như thị kim lai tập hội đáo Đao Lợi thiên giả, nhữ tri số phủ.” (Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni nói với Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử Bồ-tát Ma-ha-tát rằng: Ông xem hết thảy chư Phật, Bồ-tát và trời rồng, quỷ thần ở thế giới này và thế giới khác, ở cõi nước này và cõi nước khác, nay đều đến tụ hội tại cung trời Đao Lợi như vậy, ông có biết là bao nhiêu không?)
Chữ bất này đọc là “Phủ”, chữ phủ trong khả phủ (Có được hay không?). Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi là trí tuệ bậc nhất trong Bồ-tát. Phật không bảo người khác mà bảo Ngài. Nếu Ngài không biết, thì cũng đừng nên hỏi những người khác, không cần hỏi. Ngài có trí tuệ bậc nhất trong Bồ-tát. Phật gọi Ngài và hỏi: Ông thử quan sát xem những đại chúng đến dự hội này: “Nhất thiết chư Phật Bồ-tát cập thiên long quỷ thần” (Hết thảy chư Phật Bồ-tát và trời rồng quỷ thần) Đây là nói chánh báo, những người đến tham dự. Họ từ đâu đến vậy? “Thử thế giới, tha thế giới, thử quốc độ, tha quốc độ” (Thế giới phương này và thế giới phương khác, cõi nước này và cõi nước khác.), bao gồm tận hư không khắp pháp giới, đây là y báo. Chúng ta nói là đến từ bốn phương tám hướng, đây là đến từ tất cả cõi nước chư Phật trong pháp giới. Người đến nhiều như vậy, ông có biết là bao nhiêu người không? Phật Thích Ca Mâu Ni trong hội Vô Lượng Thọ này, chúng ta nhìn thấy đại chúng có hai vạn người. Còn pháp hội này đại chúng tham dự không thể nghĩ bàn. Nhìn thấy pháp hội thù thắng liền biết tầm quan trọng của pháp môn.
Chúng ta thử xem Bồ-tát Văn Thù trả lời như thế nào.
“Văn Thù Sư Lợi bạch Phật ngôn: Thế Tôn nhược dĩ ngã thần lực thiên kiếp trắc độ bất năng đắc tri.” (Văn Thù Sư Lợi bạch với Phật rằng: “Thế Tôn nếu dùng thần lực của con tính đếm trải qua ngàn kiếp cũng không thể biết được”). Lời nói này là thật chứ không phải giả. Văn thù là trí tuệ bậc nhất trong hàng Bồ-tát, ngài nói dùng năng lực của ngài để quan sát, để nhận định. “độ” chính là đo lường. Thời gian bao lâu vậy? Ngàn kiếp. Dùng năng lực của con trong thời gian dài như vậy để tính cũng không thể tính ra được! Số người tham gia pháp hội bao nhiêu vậy? Quá nhiều.
“Phật cáo Văn Thù Sư Lợi: Ngô dĩ Phật nhãn quán cố, do bất tận số.” (Phật nói với Văn Thù Sư Lợi: Ta dùng Phật nhãn để tính cũng chẳng tính nổi.)
Phật nhãn thì không có gì không biết, không có gì không thấy. Phật ở chỗ này nói câu nói này là nói lời khiêm tốn, lời khiêm nhường. Nói với Văn Thù Sư Lợi là ta dùng Phật nhãn Như-lai cũng tính không hết, huống chi là ông? Là cố hết sức miêu tả người tham dự pháp hội rất đông đảo, để nói lên sự thù thắng trang nghiêm của pháp hội. Ý nghĩa hàm chứa ở bên trong là tầm quan trọng của pháp hội, vô cùng quan trọng. Nói ra tất cả Kinh cũng không có kinh nào quan trọng bằng “Kinh Địa Tạng”. Đây là giống như ở Singapore đang không ngừng xây dựng vậy, chúng ta thấy mỗi con đường khắp nơi đều có thi công, đều có xây cao ốc. Bất kể xây cao ốc như thế nào, trước tiên phải làm nền móng cho tốt. Pháp môn Địa Tạng là xây nền móng, bạn nói quan trọng biết bao. Bất kể xây lầu cao bao nhiêu, xây theo hình thức nào thì nền móng là giống nhau, phải vững chắc, phải kiên cố. Chứng tỏ pháp môn sâu rộng vô tận. Vô lượng pháp môn của Phật pháp, vô lượng pháp môn đều xây dựng trên cơ sở này. Không có cơ sở này, thì bất kỳ pháp môn nào cũng không thể thành tựu. Bạn mới biết tầm quan trọng của pháp môn này. Người đến tham dự nhiều như vậy là đại biểu cho vô lượng pháp môn. Vô lượng pháp môn đều quy về một cơ sở này. Hết thảy chư Phật Như-lai tu hành thành Phật không phải chỉ nương theo một pháp môn thành tựu, mà pháp môn nào cũng có thể viên thành Phật đạo, nhưng đều xây dựng trên cơ sở này, bỏ đi cơ sở này thì nhất định không thể thành tựu. Chúng ta trong đời quá khứ, đời đời kiếp kiếp đã lơ là cơ sở này, cho nên không thể thành tựu. Nếu trong đời này vẫn lơ là cơ sở này như cũ, dù đời này niệm Phật thì cũng chỉ kết duyên với Phật A-Di-Đà, chứ không thể vãng sanh. Bạn muốn hỏi đến lúc nào bạn có thể vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc? Bạn làm được điều đầu tiên của tam phước là có thể vãng sanh. Làm được điều đầu tiên chính là làm được pháp môn Địa Tạng. Tôi đã nói qua với quý vị rồi, bạn làm được điều đầu tiên thì vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc là vãng sanh về hạ bối, làm được điều thứ hai, có thể làm được hai điều thì vãng sanh về trung bối. Đây là sự thật. Nếu bạn nói là tôi làm không được điều đầu tiên, tôi làm được điều thứ hai, thứ ba là giả, không có việc đó. Giống như xây lầu vậy, tôi không cần nền móng, cũng không cần tầng thứ nhất, tôi xây tầng thứ hai, thứ ba được rồi! Đâu có loại đạo lý này?
Đoạn kế tiếp Thế Tôn bèn nói ra nguyên nhân vì sao như vậy?
“Thử giai thị Địa Tạng Bồ-tát cửu viễn kiếp lai, dĩ độ, đương độ, vị độ, dĩ thành tựu, đương thành tựu, vị thành tựu.” (Đó đều là những người từ kiếp lâu xa đến nay đã độ, đang độ, chưa độ, đã thành tựu, đang thành tựu, chưa thành tựu của Bồ-tát Địa Tạng”. Ý nghĩa tượng trưng rất sâu. Vô lượng kiếp đến nay, vô lượng pháp môn, tất cả những người tu học thành tựu đều dựa vào cơ sở này, đây là biểu thị ý nghĩa này. Người đã được độ, đã thành tựu chính là chư Phật 10 phương. Người đang độ, đang thành tựu là tất cả Bồ-tát. Người chưa độ, chưa thành tựu đã có duyên sâu dày với Bồ-tát Địa Tạng. Phàm là người học Phật đều có duyên, nhưng bạn hiện nay vẫn chưa được độ. Đang độ chính là đại chúng trời rồng, quỷ thần, kể cả những người như chúng ta ở trong đó. Chúng ta là thuộc vào nhóm chưa độ, chưa thành tựu. Chúng ta làm thế nào từ chỗ chưa độ, chưa thành tựu cũng có thể đuổi kịp đã độ, đã thành tựu vậy? Dựa vào sự nỗ lực của chính chúng ta. Bản thân chúng ta trong đời này thật sự chịu làm, thật sự chịu y giáo tu hành, chúng ta từ chỗ chưa độ, chưa thành tựu tiến vào đến chỗ đã độ, đã thành tựu thì chúng ta trong đời này được thành tựu. Quý vị đồng tu nhất định phải nhớ kỹ, chúng ta ở nơi đây có treo bốn chữ do cụ Phác viết: “Biết ơn báo ơn”, báo ơn cha mẹ, báo ơn thầy tổ, báo ơn Phật, báo ơn chúng sanh. Họ có ơn gì với chúng ta, ta phải biết rất rõ ràng, rất minh bạch, bạn mới biết ơn, mới biết báo ơn. Tại sao người thế gian không biết báo ơn vậy? Do không biết ơn. Ngay cả chữ biết ơn còn không biết, thì họ làm sao có ý nghĩ báo ơn được? Họ không thể có ý nghĩ đó được. Có được cái tâm báo ơn chính là hiếu kính, hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ, bạn đã làm được. Ở trong đời sống thường ngày, đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện. Tại sao vậy? Để báo ơn. Nếu bạn không đoạn ác tu thiện, không sửa chữa lỗi lầm là bạn có lỗi với cha mẹ, có lỗi với thầy tổ, đó chính là bất hiếu. Ở trong xã hội, chúng ta hiện nay phát tâm xuất gia, không thể làm thầy, không thể làm mẫu mực, vậy là bất hiếu, là đại bất kính. Làm thầy là làm mực thước cho đại chúng xã hội, làm mô phạm cho đại chúng xã hội. Chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, tự mình thử nghĩ xem có thể làm tấm gương tốt cho đại chúng xã hội không? Nếu không thể, không thể chính là bất hiếu, chính là bất kính, là bạn không làm được. Tại sao làm không được? Phải tìm ra cho được nguyên nhân đó, phải trừ bỏ nguyên nhân này, sửa chữa lỗi lầm thì chúng ta mới có thể từ chỗ “chưa độ” đến chỗ “đã độ”, từ chỗ “chưa thành tựu” đến chỗ “đã thành tựu”. Phải làm thật. Việc này là việc của mình, chứ không phải việc của người khác, người khác không thể giúp được, nhất định phải tự mình, tự mình giác ngộ, tự mình độ chính mình, sửa lỗi lầm, sửa tập khí, sửa tâm lý, đọc tụng đại thừa, y giáo phụng hành, vậy mới có thể thành tựu. Nếu đời này không thể khắc phục chướng nạn của mình, khắc phục tập khí lỗi lầm của mình, vẫn cứ theo thói cẩu thả, thì chúng ta đời này cũng giống y như đời quá khứ vậy, chỉ kết duyên với Phật A-Di-Đà, kết duyên với Phật Thích Ca Mâu Ni, với Bồ-tát Địa Tạng chứ đời này không thể thành tựu. Duyên kết rất sâu. Trong “Kinh Di Đà” nói: “Không thể dùng ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi ấy”, Duyên này là kết từ nhiều đời nhiều kiếp, vô lượng kiếp qua đã kết duyên sâu dày này mà duyên vẫn không thể chín mùi, vẫn cứ thiếu một đoạn. Đoạn bị thiếu này chính là do không thể khắc phục tập khí phiền não của mình. Đọc Kinh nghe pháp chưa có hiểu sâu nghĩa thú, giống như là hiểu rồi, nhưng thực ra là chưa hiểu. Sao biết bạn chưa hiểu vậy? Bạn chưa làm được. Nếu bạn hiểu rồi thì nhất định làm được. Tại sao vậy? Biết nó hay, nhận biết rồi. Hai bên bàn chúng ta, một bên là để nắm đất, một bên là để nắm vàng, tặng cho bạn một thứ, bạn lấy cái nào? Chỉ lấy một cái thì bạn nhất định là lấy vàng. Tại sao vậy? Biết nó quý. Phật ở trong Kinh nhiều lần dạy bảo chúng ta “thâm giải nghĩa thú” (Hiểu sâu ý nghĩa). Hiểu khó, làm dễ. Tại sao bạn làm không được vậy? Bạn không biết, bạn không hiểu. Phật pháp thật sự là biết thì khó, nhưng làm thì dễ. Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Kinh thuyết pháp 49 năm là biết khó. Hành chỉ trong khoảng một niệm. Một ý niệm chuyển trở lại liền siêu phàm nhập thánh. Ý niệm không chuyển trở lại được là do hiểu chưa đủ thấu triệt, thâm nhập chưa đủ sâu. Pháp hành của chúng ta nói thực ra dựa vào cửa hiểu. Bạn hiểu được càng sâu thì bạn hành sẽ càng chu đáo. Nói được không làm được, nói lời thành thật là do bản thân chưa có hiểu sâu, cho nên họ không hành được. Nói được nhất định làm được. Nói được không làm được là gì vậy? Dựa theo chú giải của người khác, dựa theo lời văn mà hiểu nghĩa chứ chính mình cũng không hiểu. Tôi nghe nói còn có một số người giảng Kinh Phật, đọc một đoạn Kinh văn, bèn kể một câu chuyện, không biết tìm những câu chuyện này từ đâu để kể. Nghe nói chuyện kể ra hoàn toàn không có liên quan gì với Kinh văn cả, họ cũng gọi là giảng Kinh, như thế làm sao có thể hành được? Dựa theo chú giải của người xưa để giảng còn gượng gạo có thể cho qua được. Nói thực ra cần phải tự mình thấu triệt nghĩa Kinh, bản thân làm được rồi nói ra mới là chắc thật, một mảy may nghi hoặc cũng không có. Tại sao vậy? Làm được. Hiệu quả tự mình thể nghiệm được, mình đạt được rồi.
Chúng ta xem Kinh văn dưới đây: “Văn Thù Sư Lợi bạch Phật ngôn: Thế Tôn, ngã dĩ quá khứ cửu tu thiện căn chứng vô ngại trí, văn Phật sở ngôn tức đương tín thọ.” (Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn, con đã tu thiện căn từ lâu trong quá khứ chứng vô ngại trí, nghe lời Phật nói ra lập tức liền tin nhận).
Bồ-tát Văn Thù nói Ngài có thể tin những gì Phật dạy. Phật nói đại chúng đông như vậy đều là những người được Bồ-tát Địa Tạng từ kiếp lâu xa đến nay đã độ, đang độ, chưa độ cũng tập trung tham gia pháp hội; đã thành tựu, đang thành tựu, chưa thành tựu thảy đều đến cả. Bồ-tát Văn Thù có thể tin việc này, không nghi ngờ, nhưng Bồ-tát Văn Thù bèn đề ra:
“Tiểu quả Thanh Văn thiên long bát bộ, cập vị lai thế chư chúng sanh đẳng, tuy văn Như-lai thành thật chi ngữ tất hoài nghi hoặc, thiết sử đỉnh thọ vị miễn hưng báng.” (Tiểu quả Thanh Văn, thiên long bát bộ và các chúng sanh đời vị lai, tuy nghe lời thành thật của Như-lai nhưng chắc chắn có hoài nghi, dù có tiếp nhận cũng không tránh khỏi phỉ báng.)
Bồ-tát Văn Thù nói mấy câu này rất hay. Khi trí tuệ chưa khai mở, công phu chưa có thành tựu, nghe thấy Phật nói những lời này không tránh khỏi nghi ngờ. Bồ-tát Địa Tạng làm gì có đạo lực thần thông lớn như vậy, hết thảy chư Phật 10 phương ba đời đều là do Ngài độ. Lời nói này chúng ta có thể tin được không? Bồ-tát Văn Thù tin, không có nghi ngờ. Phần đông mọi người nghe xong nhất định nghi ngờ, cho nên chúng ta phải giải thích đạo lý này cho rõ ràng.
Địa là tâm địa, là chân tâm, là bản tánh. Bồ-tát Địa Tạng là tượng trưng cho pháp này, không nên chết cứng trên câu văn, câu chữ, như vậy là bạn sai rồi, nhất định sẽ nghi ngờ. Bạn cho rằng Bồ-tát Địa Tạng có lẽ là kim Địa Tạng ở Cửu Hoa Sơn, thế là bạn sai rồi! Kim Địa Tạng là một trong những phân thân của Địa Tạng, là hóa thân của ngài Địa Tạng. Ngài Địa Tạng hóa thân vô lượng vô biên, đây là một trong những phân thân. Phải hiểu được cái lý chân thật, sự chân thật ở trong đó, thì chúng ta sẽ không còn nghi ngờ. Nếu không thì bạn sẽ có nghi ngờ. Từ nghi ngờ sau đó phỉ báng pháp, tội lỗi này rất nặng. Bồ-tát Văn Thù nêu ra nghi vấn này, mục đích của Ngài là muốn yêu cầu Thế Tôn nói rõ tường tận tỉ mỉ cho mọi người biết những việc tu nhân chứng quả, rộng độ chúng sanh của Bồ-tát Địa Tạng.
Chuyện này ở đoạn Kinh văn kế tiếp. Hôm nay thời gian đã hết rồi, chúng ta chỉ giảng đến chỗ này.