KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Tháng 5 năm 1998
Giảng tại Tịnh Tông Học Hội Singapore
Tổng cộng 51 Tập (AMTB) – Bản dịch 102 Tập
Cẩn dịch: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ.
Mã AMTB: 14-012-0001 đến 14-012-0051
MP3 tự động phát trên Mobile. Nếu không tự động phát vui lòng ấn nút play ▶️ dưới cùng.
TỔNG CỘNG 102 TẬP
Tập 2
Chúng ta cần tin theo lời Phật. Bản hội tập của lão cư sĩ Hạ, từng câu từng chữ đều là nguyên văn trong 5 loại bản dịch gốc. Quý vị có thể đem 5 loại bản dịch gốc ra để đối chiếu xem. Nếu như bạn có nghi hoặc, bạn đem 5 loại bản dịch gốc ra đối chiếu lại để xem. Tôi trước đây đã từng in qua, đề mục của bản này tên là “Tịnh Độ Ngũ Kinh Độc Bản”. Trong đó có 5 bản dịch gốc, có 4 bản hội hiệu (Hội tập hiệu đính). Tổng cộng 9 loại bản của “Kinh Vô Lượng Thọ” đều in vào trong đó, mọi người có thể đối chiếu. “Kinh Di Đà” có 3 loại bản dịch. Ba loại bản này là bản dịch của đại sư La-Thập, bản dịch của đại sư Huyền Trang, bản hội tập của lão cư sĩ Hạ, thảy đều in chung với nhau. In ra bản này mục đích chẳng qua là kiên định tín tâm của các đồng tu, không thể dễ dàng bị người ta làm dao động, làm hỏng đi đại sự nhân duyên trong đời này của chúng ta, thế thì quá đáng tiếc rồi. Chúng ta nhất định phải biết đọc tụng đại thừa, quy y “Kinh Vô Lượng Thọ”, cung kính Phật A-Di-Đà, biết chăm chỉ tu pháp cúng dường.
Chúng tôi ở trong các buổi giảng, đã báo cáo tỉ mỉ với quý vị rồi, cúng dường như thế nào vậy? Cúng dường Như-lai, cúng dường chúng sanh, như giáo tu hành cúng dường, đây là chân thật cúng dường. Loại cúng dường này chính là đích thực cúng dường Địa Tạng Bồ-tát ma-ha-tát. Chúng ta tổng kết ý nghĩa ở trong kinh này. Nếu như chúng ta thật sự có thể chí tâm xưng danh, đọc tụng đại thừa, quy y cung kính cúng dường, người này công đức của họ là không thể đo lường. Họ chắc chắn được chư Phật Như-lai, chư đại Bồ-tát, không chỉ là Bồ-tát Địa Tạng, Quan Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, uy thần của những đại Bồ-tát này gia trì, nhất định đạt được quả báo bất khả tư nghì. Phật ở trong kinh này nói với chúng ta, Bồ-tát Địa Tạng trong thời quá khứ vô thủy kiếp đến nay dùng vô lượng vô biên hóa thân phóng quang thuyết pháp, phổ độ chúng sanh, thường trụ pháp giới u minh.
Pháp giới u minh là như thế nào, chúng ta làm sao học tập? Chúng ta có phải là chui vào trong địa ngục hay không? Nhất định phải hiểu được nghĩa thú mang tính tiêu biểu pháp của từng câu từng chữ trong kinh văn. Ý nghĩa của pháp giới U Minh chính là nói, chúng ta hạ thấp tư thế, làm thiện không cần để cho người ta biết, không cần biểu dương, cái này chính là pháp giới u minh. Làm một cách thầm lặng, chăm chỉ nỗ lực làm, xả ly tất cả danh vọng lợi dưỡng, chính là ở pháp giới u minh, thành tựu công đức chân thật của mình, mỗi niệm đều là lợi ích chúng sanh trong lục đạo. Ở trong kinh này nói với chúng ta, mối quan hệ của chúng ta với chư Phật Bồ-tát, mối quan hệ của chúng ta với chúng sanh lục đạo, phàm phu không biết. Đích thực như cái gọi là ỷ mạnh hiếp yếu, tàn hại tất cả chúng sanh. Những chúng sanh này cũng đều là phàm phu, cũng đều là mê hoặc điên đảo. Mê hoặc điên đảo thì tâm trả thù không bị tiêu mất. Bạn làm tổn thương họ, cái tâm oán hận đó của họ vĩnh viễn hàm chứa ở trong a-lại-da thức. Khi họ có cơ hội, họ làm sao không trả thù được? Loại trả thù này chính là tai nạn trên thế giới ngày nay, tai nạn lớn. Phật ở trong kinh nói đao binh kiếp. Đao binh kiếp sau này chính là chiến tranh hạt nhân. Nhân của kiếp đao binh là gì vậy? Ăn thịt chúng sanh. Phật nói rất rõ ràng, nếu muốn tránh khỏi kiếp đao binh của thế gian, trừ phi chúng sanh không ăn thịt, đao binh kiếp này mới có thể hóa giải. Khi còn trẻ không biết, không ăn nó thì cũng giết hại nó. Kiến, chúng ta nhìn thấy rất nhiều người, bản thân cũng tạo qua cái tội nghiệp này. Kiến bò vào nhà, thấy ghét, bỗng chốc nấu một nồi nước sôi tưới cho nó chết. Chúng ta nhìn thấy rất nhiều người làm như vậy, chúng ta cũng đã từng làm qua rồi. Mặc tình giết hại những động vật nhỏ này. Trước đây không biết, vậy mới biết mình đã phạm qua lỗi lầm nghiêm trọng. Phật dạy chúng ta phải phát lồ sám hối. Chúng ta ngày nay hiểu rõ rồi, biết mình đã làm việc sai, chăm chỉ tu hành, mỗi ngày tụng niệm, cúng dường, tu học, tất cả công đức hồi hướng cho những oan gia trái chủ này. Cái công đức này bản thân chúng ta không dám hưởng thụ, hy vọng đem những oan kết này thảy đều hóa giải. Chúng ta ở trên đạo Bồ đề thuận buồm xuôi gió, không có chướng ngại. Nếu không thì thường hay nói rằng nghiệp chướng hiện tiền. Nghiệp chướng của bạn tại sao không hiện tiền được? Những chúng sanh bị bạn giết hại này, làm sao có thể dễ dàng tha thứ cho bạn được? Là không thể.
Cho nên chúng ta nên học Bồ-tát Địa Tạng, dùng tâm chân thật giúp đỡ họ phá mê khai ngộ, giúp đỡ họ lìa khổ được vui. Tâm giống như mặt đất vậy, tất cả pháp, tất cả chúng sanh, nương vào đó sống, sinh trưởng, gánh vác. Cho nên trong kinh nói: “Tâm như đại địa, năng an nhất thiết” (tạm dịch: Tâm như mặt đất, có thể đem lại bình an cho tất cả). Đây là ví đất là tâm, là thức. Chúng ta ngày nay nhìn thấy mặt đất, chân bước lên mặt đất phải biết hồi quang phản chiếu, đất là tâm địa của chúng ta. Tâm địa bình đẳng, chuyên chở các pháp, chuyên chở tất cả chúng sanh. Người bạn ưa thích, yêu thương cũng ở trên mảnh đất này, người bạn ghét, oán hận cũng ở trên mảnh đất này. Đất không phân thân sơ, không có yêu ghét, chúng ta nên học đất. Tâm địa chúng ta vốn dĩ là giống như mặt đất vậy. Hiện nay ở trong đó khởi tâm động niệm, phân biệt yêu ghét, phân biệt tốt xấu, đây là sai lầm. Đất không có phân biệt. Hay nói cách khác, chân tâm không có phân biệt, vọng tâm đang phân biệt. Vọng tâm là sai lầm. Biết vọng tâm đang phân biệt, thì biết tâm chúng sanh. Biết đất không phân biệt, thì biết chân tâm. Cho nên lập luận của bản kinh chính là chân tâm với vọng tâm.
Đây là nói một chữ “Địa” này.
Chữ thứ hai là “Tạng”. Ý nghĩa của tạng là cất giữ, tàng chứa. Người thế gian chúng ta nói là nhà kho, kho báu. Người thế gian những đồ châu báu đều phải cất giữ cho thật kỹ. Những của cải này có thể bảo vệ họ sống an toàn. Nếu như bản thân bị mất đi của cải, họ sẽ cảm thấy sợ hãi, cuộc sống không được bảo vệ. Cho nên người thế gian người nào cũng hy vọng cất giữ những đồ châu báu này, những của cải này. Phật dùng cái này để ví dụ, ở trong tự tánh chúng ta có kho báu. “Tam đức bí tạng”. Ở trong chân tâm tự tánh chúng ta có “Pháp thân”. Pháp thân là cái thân chân thật. Ở trong Tông Môn nói là: “Mặt mũi xưa này trước khi cha mẹ chưa sanh”. Mặt mũi xưa nay là pháp thân, bất sanh bất diệt, không đến không đi, không nhơ không sạch. Cái thứ hai là “Bát nhã”. Bát nhã là trí tuệ. Trí tuệ cứu cánh viên mãn là ở trong tự tánh chúng ta vốn dĩ đầy đủ. Không phải đến từ bên ngoài. Vô lượng vô biên trí tuệ, thế giới này, nơi chốn kia, quá khứ, vị lai, không có cái gì không biết. Cái sở tri này, (cái bị “được” biết này), sở tri hiện nay không biết. Không biết liền biến thành có chướng ngại. Sở tri là cái vốn có. Hiện nay có cái làm chướng ngại sở tri của chúng ta. Đây gọi là sở tri chướng. Sở tri chướng với phiền não chướng, dụng ý của hai cách gọi này khác nhau. Phiền não chính là chướng ngại. Sở tri không phải chướng ngại. Cái mà chướng ngại sở tri đó gọi là sở tri chướng. Nếu như chúng ta từ trên danh tướng Phật pháp mà nói vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Chấp trước là phiền não chướng, hoàn toàn là phiền não. Ở trong phân biệt có một bộ phận là phiền não, một bộ phận là sở tri chướng. Ở trong vọng tưởng hoàn toàn là sở tri chướng.
Có người hỏi, vô minh từ đâu mà có? Vô minh có như thế nào? Thực ra Phật Thích Ca Mâu Ni ở trên hội Lăng Nghiêm nói rất rõ ràng, rất thấu triệt. Người đọc “Kinh Lăng Nghiêm” cũng qua loa sơ ý cứ vậy cho qua, cẩu thả cho qua. Phật nói rất rõ ràng: “Tri kiến lập tri, thị vô minh bổn”. Sao gọi là tri kiến? Tri kiến chính là sở tri. Sở tri chính là trí tuệ Bát nhã. Bạn ở trong sở tri còn lập thêm một cái biết nữa thì sai rồi. Trên đầu lại gắn thêm cái đầu. Đó chính là gốc rễ của vô minh. Bạn không nên ở trên sở tri lại lập thêm một cái biết nữa, thì trí tuệ của bạn hiện tiền ngay. Bạn cứ muốn lập một cái biết nữa, thế thì có cách gì bây giờ! Chúng tôi nêu ra một ví dụ để nói, cái này các bạn thấy rõ ràng rồi. Chúng tôi dùng cái này ví dụ, mọi người thấy rất rõ ràng, rất sáng tỏ. Đây là sở tri, đây là tri kiến. Vẫn cứ nói, trên tay pháp sư cầm một cuốn sách thì xong rồi, lập tức rơi vào vô minh. Cái thứ này gọi là sách sao? Cái thứ này gọi là tay sao? Tay là do bạn lập nên, sách là do bạn lập nên. Nếu bạn lập nên cái này gọi là sách, cái này gọi là tay thì bạn xong rồi! Đây chính là vô minh.
Phật pháp khi chưa đến Trung Quốc, người Trung Quốc cũng rất thông minh, Lão Tử đã biết: “Danh khả danh, phi thường danh. Đạo khả đạo, phi thường đạo” (tạm dịch: Tên có thể nêu ra thì chẳng phải cái tên thường hằng, Đạo mà có thể nói ra được thì không phải Đạo thường hằng). Bạn nói cái tên là đã sai rồi. Đó là ý của bản thân bạn, không phải chân tướng sự thật. Cho nên bạn ở trên tri kiến lập tri, bạn liền rơi vào vô minh, là bạn đã khởi vọng tưởng. Ở trong vọng tưởng lại có phân biệt, lại có chấp trước, một lô những thứ phiền phức liên tiếp kéo đến rồi.
Phật thuyết pháp cho chúng ta, Phật nói tôi mà không chấp trước “cái tôi”. Cái này cao siêu. Lục Tổ hỏi Vĩnh Gia: “Ông có còn phân biệt không?” Vĩnh Gia đáp rất hay: “Phân biệt cũng chẳng phải ý”. Tôi phân biệt chính là không có phân biệt. Ở trong tâm thật sự không có phân biệt, rất sạch sẽ. Phân biệt là gì vậy? Vì đại chúng phân biệt. Cho nên nói chính là không nói, không nói chính là nói. Nếu bạn nói là nói, bạn không hiểu được cái ý nghĩa không nói này, bạn không hiểu được ý của Phật. Nếu như nói với không nói phân thành hai thứ, thì nói cũng sai, không nói cũng sai rồi. Nói là gì vậy? Phân biệt, chấp trước. Không nói là vô minh. Đều rơi vào hai bên rồi. Nên biết, nói với không nói là một không phải hai. Nói tức không nói, nghe tức không nghe. Bạn cái này thông rồi, chướng ngại này bạn đều không còn nữa, trên phương diện này bạn có thể thể hội được, thì chân tướng của vũ trụ nhân sinh liền được phơi bày rồi. Bạn thật sự đã vào pháp môn không hai rồi (bất nhị pháp môn).
Người thế gian đáng thương là sống ở trong tương đối. Tương đối chính là hai, đối lập rồi. Bạn nói lớn thì đối lập với cái nhỏ, nói không bên kia liền có cái có, luôn luôn ở trong tương đối. Nói tôi, thì đối lại với người. Khi nào bạn có thể bỗng chốc giác ngộ được ta với người không hai, có với không là không hai, tánh với tướng không hai, lý với sự không hai, sự với sự cũng không hai, bạn mới nhập Phật pháp, bạn mới hiểu Phật pháp. Cho nên cái khó của Phật pháp ở chỗ nào vậy? Là khó ở chỗ này. Khó ở chỗ nào vậy? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước vĩnh viễn không thể buông xả được. Chỉ cần không buông xả, thì bạn không vào cửa đại thừa được, Đại thừa không có phần của bạn. Bạn tu học đại thừa là tu học một loại thường thức ngoài da mà thôi. Đại thừa đích thực là như thế nào? Bạn hoàn toàn không thể thể hội được. Đây là nói Bát nhã với bạn.
Còn có một cái bí tạng. Bí là bí mật. Tạng là hàm chứa ở trong tự tánh, “giải thoát”. Giải thoát chính là đại tự tại. Chính là ở trong “Hoa Nghiêm” nói là sự sự vô ngại, đều là vốn có ở trong tự tánh, vốn dĩ đầy đủ. Đây là ý nghĩa của tạng. Cái này gọi là tam đức. Tam đức ở trong tự tánh. Tại sao gọi là bí tạng vậy? Bí là giống như rất bí mật. Phàm phu thông thường không thể phát hiện được, 6 căn không thể tiếp xúc được. Không thể phát hiện là giống như rất bí mật, là giống như cất ở chỗ đó. Cất không bị người ta phát hiện. Hay nói cách khác là chúng sanh không thể hiểu rõ, không thể lý giải, gọi nó là bí mật. Và bên trong tâm tánh quả thật là bao hàm vô lượng vô biên tất cả pháp. Ở trong bản tánh vốn dĩ đầy đủ, dùng không hết. Đây là ý nghĩa của tạng. Là giống như mỏ vàng trong thế gian chúng ta vậy. Ở trong cái mỏ vàng này, hàm chứa vô số vàng. Bạn lấy, bạn dùng, lấy mãi không hết, dùng mãi không cạn. Nhưng mà mỏ vàng này ở chỗ nào bạn không biết, bạn không rõ, thế là biến thành bí mật. Phật dùng cái này để ví dụ tâm địa của chúng ta, kho báu tâm địa của chúng ta. Sự cất chứa của đất so với sự cất chứa của tâm địa thì kém xa. Kho báu cất chứa trong tâm địa chúng ta là tận hư không khắp pháp giới. Phật pháp của tất cả chư Phật, thế pháp vô lượng của tất cả chúng sanh đều cất chứa ở trong đó. Bạn chỉ cần phát hiện kho báu tâm địa, xin thưa với quý vị, pháp thế gian, pháp xuất thế gian thảy đều thông đạt, thảy đều không có chướng ngại. Phật pháp dạy học là để phát hiện kho báu của tự tánh. Kho báu tự tánh phải dùng cái gì để mở vậy? Công cụ đó nhất định phải xứng tánh. Bạn dùng không phải công cụ xứng tánh, thì bạn không có cách gì phát hiện kho báu tự tánh được.
Công cụ xứng tánh là gì vậy? Chính là Hiếu và Kính. Cho nên kinh “Địa Tạng” gọi là hiếu kinh của nhà Phật. “Kinh Địa Tạng” dùng cách nói hiện nay để nói, chính là hiếu đạo và sư đạo. Hiếu thân tôn sư thì có thể phát hiện kho báu của tự tánh. Nếu như bạn không thể hiếu thân, không thể tôn sư, thì bạn vĩnh viễn ở ngoài cửa Phật pháp. Hay nói cách khác, bạn học tiểu thừa biết đâu có thể có một chút xíu thành tựu, chứ học đại thừa không có phần. Đại thừa là phát hiện tự tánh, khác với tiểu thừa. Tiểu Thừa là ở trên sự tướng. Hay nói cách khác, nó vẫn là pháp thế gian. Ở trong tiểu thừa pháp xuất thế bạn cũng không thể đạt được. Hay nói cách khác, mặc dù bạn tu học tiểu thừa, bạn cũng chỉ có thể dừng lại ở trong cái cảnh giới sơ quả, nhị quả này, tứ quả là không thể chứng được. Nếu muốn chứng được tứ quả tiểu thừa, quả vị cao nhất của tiểu thừa vẫn là phải hiếu thân tôn sư, đây là chân lý. 10 phương ba đời toàn bộ tất cả chư Phật Như-lai, cũng không có ngoại lệ nào. Thế Tôn nói ở trong tam phước của “Quán Kinh”, ba loại tịnh nghiệp này là tịnh nghiệp chánh nhân của ba đời chư Phật. Lời nói này nói rõ ràng biết bao, sáng tỏ biết bao! Chúng ta nghe thấy rồi, quý vị đồng tu đều có thể nhớ được, cũng đều nói được, nhưng chỉ là không chịu làm, thế thì vô phương rồi. Một ngày nói 1000 lần, nói một vạn lần cũng không có tác dụng, đó là ăn bánh vẽ, có tác dụng gì chứ? Nhất định phải tự mình chăm chỉ làm cho được. Đem tâm hiếu thuận cha mẹ mở rộng ra hiếu thuận tất cả chúng sanh. Chư Phật Như-lai quả thật là tu như vậy. Tất cả chúng sanh chính là cha mẹ của chính chúng ta, không phải là người khác. Tất cả chúng sanh chính là thầy của chúng ta. Đọc “Hoa Nghiêm” rồi, bạn cần phải tin. Không những hết thảy mọi người là thầy. Hôm qua chúng tôi nói về cây, cây cối, hoa cỏ, có cái nào không phải thầy chứ? 6 căn tiếp xúc cảnh giới 6 trần, thật sự là một hạt vi trần, một lỗ chân lông, chúng ta chạm mắt đều có thể tỉnh ngộ, đó chính là thầy. Hôm qua nhìn thấy cây: Hạt là tín tâm, rễ là từ bi, thân là trí tuệ, cành lá là ngũ độ, cành nhánh là ngũ độ, mọi lúc mọi nơi chỉ cần nhìn thấy rồi, trong tâm đều khai trí tuệ. Đúng như lời đại sư Huệ Năng nói. Huệ Năng gặp Ngũ Tổ, nói với Ngũ Tổ: “Trong tâm đệ tử thường sinh trí tuệ”. Ngài sao không thường sinh trí tuệ được? 6 căn tiếp xúc cảnh giới 6 trần bên ngoài đều khai ngộ, đây chính là thường sinh trí tuệ.
Chúng ta ngày nay 6 căn tiếp xúc cảnh giới 6 trần bên ngoài sinh phiền não, nếu thuận theo ý của mình thì tham ái. Tham ái là phiền não. Không hợp với ý của mình thì chán ghét. Chán ghét sinh phiền não. Người ta 6 căn nhìn cảnh giới 6 trần sinh trí tuệ, không sinh phiền não. Đây chính là phàm thánh không giống nhau, khởi tu khác nhau. Phật ở trong kinh nói với chúng ta, khẳng định tự tánh chúng ta vốn dĩ đầy đủ muôn pháp, có đủ tất cả pháp, cái này là bảo. Giống như ở trong đất, hàm chứa những kho báu khoáng vật vậy. Kho báu hàm chứa trong đất có thể dùng hết. Kho báu hàm chứa trong tâm tánh chúng ta dùng không hết. Tại sao không biết khai phá chứ? 4 vị Bồ-tát lớn này chính là 4 pháp môn khai phá kho báu tự tánh. 4 pháp môn này phải dùng đồng thời. Bồ-tát Địa Tạng hiếu kính, Bồ-tát Quan Âm từ bi, Bồ-tát Văn Thù trí tuệ, Bồ-tát Phổ Hiền thực hiện. 4 Bồ-tát lớn dạy chúng ta khai phá kho báu tự tánh. 4 pháp môn này thiếu một cũng không được. Giống như 4 chân của cái bàn vậy, thiếu một cái là ngã xuống ngay, nó liền không thể đứng vững được. Nhất định phải hiểu rõ đạo lý này. Những gì mà Phật nói ở trong tất cả Kinh Đại Thừa, ngàn kinh vạn luận không ngoài việc này. Chư Phật Bồ-tát sáng tỏ rồi, bèn thực hiện, các Ngài được thọ dụng. Cái các Ngài được là đại tự tại, đại viên mãn. Chúng sanh chúng ta mê hoặc điên đảo, đã mê mất tự tánh, làm càn làm bậy, cho nên tạo lục đạo luân hồi, trôi lăn trong sinh tử, mãi không có ngày ra khỏi. Nhưng mà tánh đức của chúng ta, bất kể đang giác, bất kể đang mê, nó hoàn toàn không có thay đổi. Ngộ cũng không có tăng thêm một mảy may, mê cũng không có tổn thất một mảy may. Tại sao Phật tôn kính tất cả chúng sanh? Ngay cả muỗi, kiến cũng tôn kính. Tại sao ngài tôn kính vậy? Muỗi, kiến cũng là chúng sanh, tánh đức của nó cũng là viên mãn, không có khác gì so với chư Phật Như-lai, chỉ là nó mê. Nó biến thành tình trạng này, nó không hiểu chuyện, làm càn làm bậy, tạo thành hình dạng này. Tuy tạo thành hình dạng này, nhưng tánh đức của nó vẫn là viên mãn như cũ, không có khiếm khuyết một mảy may. Cho nên chư Phật Như-lai đối với chúng tôn trọng bình đẳng, lễ kính bình đẳng, cũng cúng dường bình đẳng. Ở trong thập đại nguyện vương, Phật đối với chúng không tán thán, nhưng cung kính cúng dường thì nhất định là bình đẳng, từ bi với tất cả. Chúng ta cần nhận thức tâm địa, khẳng định kho báu, biết chân tâm chúng ta. Cái tâm này nói từ trên Bát nhã chính là đại Bồ đề. Từ trên pháp thân mà nói, chính là đại Niết bàn. Đại Niết bàn thông thường cũng gọi là đại diệt độ. Niết bàn là tiếng Phạn, dịch thành ý nghĩa tiếng Trung Quốc là diệt độ. Nếu như dựa vào ba chữ này để nói, đại, diệt, độ, ba chữ này để nói. Ý nghĩa của “đại” là pháp thân. “Diệt” là diệt phiền não, diệt vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cái đó là được đại tự tại. Đại tự tại là giải thoát. “Độ” là sáng suốt, là giác ngộ, chính là trí tuệ Bát nhã. Bồ-tát tu lục độ. 6 điều này là trí tuệ. Các ngài sống là đời sống trí tuệ cao độ, các ngài sống là đời sống trí tuệ cứu cánh viên mãn. Chúng ta ngày nay sống là đời sống phiền não khổ sở.
Pháp thân, Bát nhã, giải thoát, ba đức này là ba đức vốn có của tự tánh, mỗi mỗi đều đầy đủ thường lạc ngã tịnh. Cho nên thường lạc ngã tịnh chúng ta gọi là tứ tịnh đức. “Thường” là vĩnh hằng bất biến. “Lạc” là lìa tất cả khổ. Người thế gian chúng ta nói khổ lạc, cái khổ lạc này là đối lập. Hết thảy sự đối lập về khổ-lạc thảy đều không còn nữa, thảy đều hết rồi, dứt hết rồi. Ý nghĩa của “Ngã” là chủ tể, là tự tại. Thật sự có thể làm chủ tể được, thật sự được đại tự tại. “Tịnh” là thanh tịnh, không nhiễm mảy bụi, tâm địa không tịch. Ở trong chân tâm không được có một vật. Sư Huệ Năng nói rất hay: “Xưa nay không một vật”. Nên biết xưa nay không một vật. Nếu bạn ở trong đây thêm vào một vật là sai rồi. Một cái ý nghĩ chính là một vật, không được thêm vô. Cho nên người tham thiền, niệm một tiếng Phật hiệu là bị ô nhiễm rồi, súc miệng ba ngày. Xưa nay không một vật, sao lại có chữ Phật vào nữa? Phật cũng không có. Phật cũng không có rồi, chúng ta có cần niệm Phật không? Cần niệm. Cách niệm như thế nào vậy? Niệm mà không niệm, không niệm mà niệm là đúng rồi, là chính xác rồi. Nếu như bạn có niệm, bạn liền có một vật. Sai rồi! Bạn không niệm cũng có một vật. Có một vật gì vậy? Có cái không niệm. Bạn cũng sai rồi. Hay nói cách khác, niệm sai rồi, không niệm cũng sai rồi. Làm sao mới không sai vậy? Niệm mà không niệm, không niệm mà niệm thì không sai. Không trụ hai bên, không giữ trung đạo. Làm mà không làm, không làm mà làm, là giống như chư Phật Bồ-tát ứng hóa ở trong 9 pháp giới, thị hiện đủ dạng thân, tham gia đủ dạng sự nghiệp, họ vô niệm, vô sanh. Vô niệm, họ không có lìa niệm. Vô sanh, họ cũng không có lìa sanh. Họ ở trong lục đạo xả thân thọ thân, thị hiện là giống như chúng sanh vậy. Họ là đến-đi đồng thời. Tướng hiện ra không có mình, hiện tướng là từ bi ứng hiện, để giác ngộ chúng sanh. Tuy giác ngộ chúng sanh nhưng không có ý nghĩ giác ngộ chúng sanh này. Giống như lời trong “Kinh Kim Cang” nói, tuy độ tất cả chúng sanh, mà thực không có chúng sanh được độ, họ không có khởi niệm. Trong kinh thường hay dùng mây để làm ví dụ. Ví dụ cái gì vậy? Vô tâm, vô niệm. Ở trong Phật pháp nói vô tác, vô vi. Vô vi mà không có gì không làm, không làm mà không có gì không làm. Như vậy là tương ưng với thể, tướng, dụng của tự tánh, với pháp thân, Bát nhã, giải thoát của tự tánh, là tương ưng với “Đại Phương Quảng”. Đây là hạnh Bồ-tát, đây là tâm Bồ đề. Chúng ta ngày nay ở địa vị phàm phu, chúng ta có mê hoặc nghiêm trọng, chúng ta có nghiệp chướng sâu nặng. Chúng ta cũng rất muốn khế nhập cảnh giới Bồ-tát. Bắt tay làm từ đâu vậy? Nhất định phải bắt tay làm từ đoạn tham sân si. Phật pháp, thế pháp đều không tham nhiễm. Cảnh thuận không tham, cảnh nghịch không sân, bắt đầu làm từ đây, hành động từ chỗ này. Cảnh giới thuận nghịch biết rất rõ ràng, biết rất minh bạch là không si. Không tham, không sân, không si gọi là ba thiện căn. Đoạn ác tu thiện. Đoạn ác gì vậy? Đoạn tham sân si. Tu thiện gì vậy? Tu không tham, không sân, không si. Bắt tay làm từ đây, khôi phục kho báu tự tánh của chúng ta. Bởi vì tham sân si là nghiêm trọng nhất ở trong tất cả chướng ngại. Cái nghiêm trọng nhất thì làm trước.
Chúng ta ngày nay không thể thành tựu chính là không thể đoạn tham sân si, nên bất kể bạn tu học như thế nào, bạn cũng đều không thể bước vào cửa được, làm cả đời cũng là phước báo hữu lậu. Nếu như không tu hiếu kính, thì phước báo hữu lậu này của bạn vẫn không phải hưởng ở nhân gian, mà hưởng ở trong đường ngạ quỷ, súc sanh. Đây đều là chân tướng sự thật, chúng ta không thể không biết rõ, không thể không sáng tỏ.
“Bồ-tát” hai chữ này là tiếng Ấn Độ. Ý nghĩa của hai chữ này người xưa có hai cách phiên dịch: Một cái phiên dịch là chúng sanh có tâm đại đạo, đây là cách dịch xưa. Đại Sư Huyền Trang về sau dịch là giác hữu tình, là chúng sanh hữu tình giác ngộ. Hai cách phiên dịch đều hay. Phật ở trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói với chúng ta, “Kinh Hoa Nghiêm” cần phải truyền dạy cho người nào vậy? Phàm phu có tâm lớn (đại tâm phàm phu). Quý vị phải biết, phàm phu có tâm lớn chính là phàm phu có tâm đại đạo. Tuy không gọi bạn là Bồ-tát, bạn chỉ cần phát tâm lớn, bạn chính là Bồ-tát. Nếu như gọi bạn là Bồ-tát, bạn sẽ giật nẩy mình: “Tôi không phải Bồ-tát, tôi không dám nhận”. Nói phàm phu có tâm lượng lớn thì được, tôi là phàm phu, tôi phát tâm lớn thì được. Nào ngờ rằng phàm phu có tâm lượng lớn chính là Bồ-tát. Gọi là giác hữu tình cũng hay. Chúng ta là chúng sanh có tình cảm. Tình cảm chính là phiền não. Hữu tình chính là có phiền não. Tuy có phiền não, họ giác ngộ rồi. Cái này được. Giác ngộ rồi, tức là tôi đã xác định đúng phương hướng rồi. Tuy vẫn chưa vào cảnh giới của Phật, nhưng cái tâm, hạnh, phương hướng này của bạn đích thực là phương hướng thành Phật, góc độ không có sai lệch. Giống như hàng hải, hàng không vậy, chúng ta nhắm La-bàn rất chính xác, phương hướng rất chuẩn xác. Tuy vẫn chưa nhìn thấy bờ bên kia, nhưng mà biết nhất định có thể đến được bờ kia. Đây là ý nghĩa của Bồ-tát.
Bồ-tát là người. Dứt khoát không được hiểu lầm, Bồ-tát không phải là thần, Bồ-tát cũng không phải là tiên, Bồ-tát là người. Nếu như nói rõ ràng, sáng tỏ hơn một chút nữa thì Bồ-tát là một người sáng suốt, phàm phu là người mơ hồ, nói thế này mọi người sẽ dễ hiểu. Đối với mọi người, mọi việc, mọi vật đều biết rất rõ ràng, rất sáng tỏ, biết nghiệp nhân quả báo của nó, chúng ta thường nói nhân duyên quả báo, như thế thì gọi là Bồ-tát. Nếu như bạn không hiểu rõ, đối với người, với sự, với vật đều không sáng tỏ, không biết sự việc là như thế nào, đây bèn gọi là phàm phu.
Danh hiệu của Bồ-tát Địa Tạng chúng ta chỉ giới thiệu đơn giản đến chỗ này. Bên dưới còn có hai chữ “Bổn Nguyện”. Bổn là căn bản. Ý nghĩa ở chỗ này là nói, cái nguyện này của ngài không phải trong đời này mới phát. Chúng ta biết tất cả chúng sanh đều có đời quá khứ, cũng có đời vị lai, cho nên nói ba đời. Bồ-tát Địa Tạng ở trong đời quá khứ đã phát cái nguyện này. Quá khứ còn có quá khứ, quá khứ vô thủy. Vô thủy kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp đều phát cái nguyện này, chúng ta gọi cái nguyện này là bổn nguyện. Cho nên cái nguyện này là có căn bản, không phải ở trong đời này mới phát. Nguyện là một loại hy vọng, là một loại mong cầu. Cái mong cầu này, hy vọng có thể được thỏa mãn, vậy bèn gọi nó là nguyện. Nếu như ý này nói sâu hơn một chút nữa, bổn chính là chân như bản tánh. Và nguyện là sinh ra từ trong bản tánh. Đây mới là ý nghĩa đích thực của “Bổn Nguyện” ở trong pháp đại thừa. Bồ-tát, như lời trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói là pháp thân đại sĩ, đã đoạn hết vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Đây đã đoạn hết rồi, gọi là phá một phẩm vô minh chứng một phần pháp thân. Quả thật sự là khế nhập cảnh giới trên quả địa Như-lai. Tuy khế nhập chưa đủ sâu, nhưng mà đã bước vào, đã là minh tâm kiến tánh. Cái nguyện vào lúc này phát xuất ra từ trong tự tánh. Người chưa có kiến tánh thì hình thành tâm nguyện từ trong thức. Chúng ta nói có đời quá khứ, còn có đời quá khứ nữa, nhiều đời nhiều kiếp đều phát cái nguyện này, đây là nói từ trong thức tâm. Sau khi minh tâm kiến tánh rồi thì nói từ trong bản tánh. Hai cái ý nghĩa này đều có thể gọi nó là bổn nguyện. Ý nghĩa của bổn nguyện sâu cạn có sai khác, nhưng ở trên tướng dụng rất giống nhau. Trên sự tướng, vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp có cái nguyện này. Nguyện lực này của họ rất mạnh, cũng không dễ dàng bị dời đổi bởi cảnh giới bên ngoài. Cho dù bị dao động bởi cảnh giới bên ngoài, họ cũng quay đầu rất nhanh, họ sẽ giác ngộ, họ sẽ quay đầu, họ có thể sám hối. Nếu như cái nguyện này đời này mới phát, hoặc giả là mới phát trong một đời, hai đời quá khứ, thì sức mạnh này của họ cạn, rất dễ bị ngoại cảnh mê hoặc. Sau khi mê rồi, thì không dễ gì quay đầu, không biết sám hối. Chúng ta mới biết cái nguyện lực này của họ không đủ độ sâu. Cũng chính là họ không có “Bổn”. Nếu như có “Bổn” thì nhất định chịu quay đầu.
Chúng ta xem ở trong Quán Kinh, vua A-xà-thế tạo đủ dạng tội nghiệp, đến khi bản thân thọ nhận quả báo này, bệnh khổ hiện tiền, tướng địa ngục hiện tiền, ông có thể hối lỗi, có thể làm lại cuộc đời. Chứng tỏ ông trong đời quá khứ, đời đời kiếp kiếp ông tu trì có sức mạnh, nguyện lực của ông rất mạnh. Tuy nhất thời hồ đồ, nhất thời mê rồi, đến giờ phút quan trọng, ông vẫn có thể giác ngộ. Đây đều là thấy từ trên sự tướng. Nếu như là Bồ-tát pháp thân, phát nguyện từ trong tự tánh, đó mới là bổn nguyện đích thực, quyết định sẽ không bị dao động bởi ngoại cảnh. Cho dù ở thời đại lớn này, Phật ở trong kinh nói: “Tà sư thuyết pháp như cát sông Hằng” họ cũng sẽ như như bất động không bị ảnh hưởng. Đây là một chút ý nghĩa của bổn nguyện.
Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến chỗ này.