Thái Thượng Cảm Ứng Thiên – Tập 92/195

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN –  Tập 92/195 (50A – bộ 128 đĩa)

Các vị đồng học xin chào mọi người.

Ở trong Kinh điển, Phật khuyến khích chúng ta phải  ra sức thực hành nhân ái, rộng tu điều thiện, tiêu trừ tam chướng phiền não, làm thanh tịnh sáu căn, niệm Phật trì trai, tham thiền học đạo, vượt thoát tam giới xa lìa tứ sanh “. Mấy câu này có thể nói là Phật đã đem mười phương ba đời tất cả chư Phật, tổng cương lĩnh giáo hóa chúng sanh đều nói ra hết. Tiếp theo, Phật lại dạy bảo chúng ta “đừng buông lung theo tham, sân, si, mà hành giết, trộm, dâm”. Chữ “đừng buông lung” này rất là khẳng định, rất là khẩn thiết, nhất định không thể tạo. Tham sân si là ba độc phiền não. Phật Bồ-tát cùng phàm phu khác biệt chính ngay chỗ này. Chư Phật Bồ-tát đã đoạn tham sân si, chắc chắn không có hành vi sát đạo dâm, không chỉ không có hành vi này, mà ý niệm cũng không có, đây chính là Thánh nhân. Phàm phu, ý niệm tham sân si, sát đạo dâm trước giờ chưa từng đoạn, chỉ là không có ngoại duyên nên nó không khởi hiện hành, vừa gặp được ngoại duyên thì nó lập tức hiện hành. Đây là nguyên nhân phàm phu tu hành không thể chứng quả, không thể khai ngộ.

Đồng tu học Phật chúng ta có không ít người thường hay hỏi tôi là làm thế nào mới có thể khế nhập cảnh giới của Phật Bồ-tát. Khế nhập là chứng đắc. Làm thế nào mới có thể khế nhập? Cần phải khai giải, giải mới có thể khế nhập. Giải cùng hành là một sự việc, giải ở trong hành, hành ở trong giải, liền khế nhập được. Nếu như chúng ta chỉ đơn thuần chiếu theo lời Phật nói những nghi qui này mà làm thì không thể thâm giải nghĩa thú, vẫn là không thể khế nhập cảnh giới. Việc này nhất định phải hiểu. Đại Sư Thanh Lương đã nói rất hay trong huyền nghĩa của Hoa Nghiêm Sớ Sao: “Có giải không hành thì tăng trưởng tà kiến. Có hành không giải thì tăng trưởng vô minh”, đều không thể thành tựu. Cho nên, người chân thật biết dụng công, người công phu đắc lực nhất định là giải hành đều xem trọng, định huệ đều học. Huệ là giải, định là hành. Hai câu ở chỗ này, “đừng buông lung theo tham, sân, si” là thuộc về giải môn,  đừng tạo sát đạo dâm “ là thuộc về hành môn. Có hành không giải, cái hành đó là miễn cưỡng, không thể nào đạt đến cảnh giới của pháp nhĩ như thị (pháp là như vậy). Có giải không hành, cái giải đó chắc chắn không thấu triệt, luôn không tránh khỏi sanh ra thiên kiến, lậu chấp lậu là nông cạn, cho nên hai câu nói này quan trọng. Chúng ta xem thấy xã hội hiện tại, không nên nhìn các nơi khác, mà hãy chuyên xem cửa Phật chúng ta, xem đạo tràng của chính chúng ta, vây quanh bốn bề những đồng tham đạo hữu, có mấy người có thể diệt tham sân si, có mấy người có thể không tạo sát đạo dâm? Chỉ là trên trình độ có khác biệt mà thôi. Những tập khí ý niệm sai lầm này của chúng ta vẫn chưa chân thật buông xả, thì đối với giải hành của chúng ta chắc chắn sanh ra chướng ngại.

Trong Kinh Phật nói với chúng ta, căn tánh tất cả chúng sanh có lợi căn, có độn căn, thường gọi là ba căn “thượng trung hạ”. Ba căn từ chỗ nào mà có? Chúng ta thuộc về loại căn tánh nào? Thành thật mà nói, ba căn không phải là nhất định, Phật không có định pháp có thể nói. Bạn chịu buông xả thì bạn thuộc về thượng căn; bạn có thể buông xả một phần, còn có một phần không thể buông xả thì bạn thuộc về trung căn; bạn hoàn toàn không thể buông xả thì bạn thuộc về hạ căn, làm gì có nhất định? Hoàn toàn là ở chính mình. Thân tâm thế giới, thế xuất thế pháp thảy đều buông xả, thì bạn chính là thượng thượng căn. Do đây có thể biết, căn tánh cùng với việc đọc tụng nghe pháp có quan hệ rất mật thiết. Kinh Đại Thừa đọc được nhiều, nghe được nhiều, dễ dàng giác ngộ, hay nói cách khác, nâng chúng ta từ hạ căn đến trung căn, từ trung căn nâng lên đến thượng căn.

Tổ sư Đại đức dạy chúng ta, đọc tụng thì phải hiểu được “tùng văn nhập quán”. Tùy theo văn tự của Kinh điển, tùy theo tất cả pháp mà Thế Tôn đã nói, chính mình bất tri bất giác liền vào được cảnh giới, đây là nhập quán. Dùng lời hiện tại mà nói, vô hình trung đã chuyển đổi cách nhìn cách nghĩ của chính mình, đây chính là tùy văn nhập quán. Đọc lâu rồi, đọc nhiều rồi, nghe nhiều rồi, đây chính là nói sức mạnh của huân tu. Huân tu, sức mạnh rõ ràng nhất là “vì người diễn nói”, sức mạnh này rất lớn, hiệu quả rất là thù thắng. Vì người khác giảng qua một lần, so với chính mình đọc mười lần, ấn tượng đều sâu sắc hơn. Cho nên, trong bốn vô ngại biện tài của chư Phật Bồ-tát có “nhạo thuyết vô ngại biện tài”, hoan hỉ giảng. Chư Phật Bồ-tát đều làm ra tấm gương tốt để cho chúng ta tu học. Chúng ta phải học đến hoan hỉ giảng thì mới có thể có tiến bộ. Chúng ta hoan hỉ hỏi. Người khác không hỏi chúng ta, chúng ta hỏi ngược lại họ, thì đối với trí huệ của chính mình, kiến giải của chính mình đều sẽ thêm lớn. Trí huệ chân thật tăng thêm một phần, thì bạn đối với thế duyên, bao gồm Phật duyên, bạn tự nhiên sẽ buông xả một phần. Xin nói với các vị, thế duyên không nên dính nhiễm, Phật duyên cũng không nên dính nhiễm, cho nên các vị cũng đã từng nghe qua Thiền tông đã nói “niệm Phật một câu, súc miệng ba ngày cũng không sạch”. Đó là biểu pháp cho chúng ta xem, nói với chúng ta, Phật pháp cao cấp là cả thế pháp và Phật pháp đều không dính nhiễm. Vậy thì thế pháp và Phật pháp có nên lìa khỏi hay không? Không cần thiết. Vì sao vậy? Vì không có chướng ngại. Bạn lìa khỏi cũng sai, chấp trước cũng sai. Lìa khỏi thì thế nào? Bạn đã khởi tâm động niệm rồi. Chắc chắn phải không khởi tâm không động niệm, tất cả pháp vốn là như vậy. Chúng ta nói buông xả, buông xả là hai bên đều buông xả; bên có phải buông xả, bên không cũng phải buông xả; chấp trước phải buông xả, không chấp trước cũng phải buông xả; phân biệt phải buông xả, không phân biệt vẫn phải buông xả, đó gọi là thật buông xả. Buông xả chấp trước, tất cả đều không chấp trước. Nếu bạn chấp trước vào cái “tất cả đều không chấp trước” thì bạn vẫn là chưa buông xả, có câu là “buông bỏ hai bên, trung đạo không còn”, bạn mới có thể vào được cảnh giới của Phật.

Thiện Tài tham phỏng Ngài Đức Vân, bảy ngày chưa thấy được Ngài. Đại Sư Thanh Lương ở trong chú giải nói với chúng ta bảy ngày chưa thấy được, bảy là biểu thị bảy giác chi, bảy giác chi chưa quên, cho nên bạn không thể thấy được, bảy giác chi buông xả rồi thì mới có thể gặp được. Cách nói của Ngài Thanh Lương không thể nói là không có đạo lý. Chúng ta đổi cách nói khác cũng được, bởi vì Kinh Phật không có nói bảy ngày này nhất định đại biểu cho cái gì, nó là linh hoạt. Tôi cảm thấy con số bảy này ở trong Phật pháp đại biểu cho viên mãn, con số bảy này là nói bốn hướng, cùng với ở trên ở dưới và ở giữa, biểu thị ý này. Tôi cảm thấy chúng ta không dùng cách nói của Ngài Thanh Lương, mà dùng ý nghĩa của bảy này là viên mãn. Thảy đều buông xả, đó chính là ý nghĩa của bảy. Buông xả viên mãn thì bạn mới có thể thấy được. Bởi vì Tỳ-kheo Đức Vân là đại biểu cho địa vị Sơ Trụ, thảy đều buông xả, bạn mới có thể vào Sơ Trụ. Còn có một việc không thể buông xả, cái sau cùng là buông xả cái gì? Là Phật pháp. Phân biệt Phật pháp, chấp trước Phật pháp thì bạn không thể thấy được.

Bồ-tát Mã Minh viết Đại Thừa Khởi Tín Luận, các vị phải nên biết, Đại Thừa Khởi Tín là cảnh giới gì? Chính là cảnh giới của Viên Giáo Sơ Trụ Bồ-tát. Thiện Tài bảy ngày không gặp được, sau bảy ngày thì mới gặp được, chính là ở trong Khởi Tín Luận, Bồ-tát Mã Minh nói với chúng ta, tuy là Ngài nói một sự việc, thế nhưng đây là một thí dụ, chúng ta có thể suy một ra ba. Ngài nói, chúng ta thính giáo thì phải lìa tướng ngôn thuyết, phải lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, cái “lìa” này chẳng phải là buông xả hay sao? Nghe Kinh có thể lìa ba cái tướng này, đọc Kinh có thể lìa tướng văn tự, mở quyển Kinh ra không phải không cần văn tự, vẫn là hai mắt nhìn vào văn tự, trong đây có rất nhiều danh từ pháp tướng. Lìa và đến là đồng thời, đây là thật lìa. Không phải cái này không cần thì bỏ đi, vậy thì bạn chưa có lìa, bạn lìa cái có thì dính vào cái không. Lìa tướng ngôn thuyết mà nghe, không phải không nghe Kinh, vẫn nghe được rõ ràng tường tận. Cái lìa đó là không chấp trước, không phân biệt. Ta nghe, nhưng không phân biệt, không chấp trước, ngay nơi tướng mà lìa tướng. Ta xem, nhưng không phân biệt, không chấp trước, đó gọi là diệu quan sát. Chúng ta thấy sắc, nghe tiếng, phiền phức ở chỗ nào vậy? Chính là có phân biệt, có chấp trước. Khởi vọng tưởng là hỏng rồi, lỗi lầm chính ngay chỗ này. Như vậy thảy đều buông xả thì “thanh tịnh – bình đẳng – giác” hiện tiền rồi. “Thanh tịnh – bình đẳng – giác” chính là Phật thật.

Viên Giáo Sơ Trụ Bồ-tát là Phật thật, không phải Phật giả, là phần chứng tức Phật. Do đây có thể biết, Thiện Tài tham phỏng Tỳ-kheo Đức Vân, bảy của bảy ngày chính là đại biểu vọng tưởng vô minh. Sau bảy ngày, ý nghĩa chính là phá một phẩm vô minh. Phá một phẩm vô minh chứng một phần pháp thân, vào địa vị Viên Sơ Trụ. Cách nói này của chúng tôi dễ hiểu hơn so với chú giải của Ngài Thanh Lương, ý nghĩa cũng rất viên mãn. Cho nên, những gì của người xưa, chúng ta có thể tham khảo, không nên chấp trước nhất định phải tuân theo, vậy thì bạn chính mình không thể khai ngộ. Tuy nhiên khi chúng ta mới học thì nhất định phải tuân theo. Không tuân theo thì sẽ như thế nào? Chúng ta sẽ nghĩ tưởng xằng bậy, chính mình chưa khai ngộ, ý nghĩa của Kinh đó tùy theo chúng ta giảng, chúng ta giảng không viên mãn, người ta nêu ra vài vấn đề thì chúng ta không thể trả lời, vậy làm sao được? Chính mình chân thật có chỗ ngộ rồi thì phải đem chú giải của người xưa buông xả. Buông xả chú giải của người xưa thì mới có thể nhập vào Kinh giáo. Tiếp theo là buông xả Kinh giáo, bạn mới có thể kiến tánh. Cho nên, Phật ám thị cho chúng ta rất hay, Phật không có pháp có thể nói, không những không có định pháp, mà Phật không có pháp có thể nói, chính là dạy chúng ta không nên chấp trước vào tất cả pháp mà Thích-ca Mâu-ni Phật đã nói. Bạn chấp trước Ngài nói ra tất cả pháp, vậy thì bạn chính là bảy ngày không thấy được Tỳ-kheo Đức Vân. Pháp của Thích-ca Mâu-ni Phật thảy đều xả hết thì pháp của tự tánh hiện tiền, bạn liền kiến tánh, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Thế nhưng, mọi người nghe tôi nói lời này, nhất định không nên hiểu lầm. Hiện tại bạn nhất định phải y theo Phật pháp, không chỉ phải y theo Phật pháp, nhất định phải y theo chú giải của Tổ sư Đại đức xưa nay. Tại vì sao? Hiện tại chúng ta là phàm phu, một phẩm phiền não cũng chưa đoạn, chúng ta làm sao sánh được với Thiện Tài? Thiện Tài tham phỏng Đức Vân, các vị phải ghi nhớ, kiến tư phiền não đoạn rồi, trần sa phiền não đoạn rồi, cũng chính là nói phân biệt chấp trước đều đoạn rồi, chỉ là vọng tưởng chưa đoạn, cho nên bảy ngày chưa gặp được. Đoạn một phẩm vọng tưởng, tự tánh hiện tiền rồi, nhập vào pháp giới. Sau khi vào pháp giới thì tu pháp môn niệm Phật.

Từ trên hiện tướng mà nói, Tỳ-kheo Đức Vân thị hiện ở Biệt Phong, Ngài ở trên núi, núi là đại biểu sự cao vút, biểu thị ý nghĩa siêu xuất. Ngài ở một ngọn núi khác, ở nơi đó kinh hành. Một ngọn núi khác là biểu thị ý gì? Biểu thị pháp môn đặc biệt. Pháp môn niệm Phật là pháp môn đặc biệt, người xưa nói “môn dư đại đạo” (đạo lớn nằm ngoài tất cả các pháp môn), ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn, đây là pháp môn đặc biệt. Ngài ở trên núi kinh hành niệm Phật, chính là chúng ta hiện tại gọi là “Bát Chu Tam Muội”, chuyên niệm A Di Đà Phật. Trên Kinh Phật có vô số thị hiện, đều có ý nghĩa rất sâu. Nếu như chúng ta chấp trước vào văn tự, chấp trước vào ngôn thuyết thì bạn không thể hội được ý nghĩa này, cho nên ngay nơi tướng mà lìa tướng, đến đi đồng thời, đến đi không hai, bạn mới có thể có chỗ vào. Hiện tại, đồng tu chúng ta học Kinh giáo nhất định phải biết những đạo lý này, phải chăm chỉ nỗ lực mà học tập. Không chỉ ở trên Kinh giáo bạn phải biết tùy văn nhập quán, ở ngay trong cuộc sống phải đem cái học được trong Kinh giáo mà tùy việc nhập quán, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, sự sự vật vật, bạn đều có thể dùng trí huệ quán sát. Dùng trí huệ quán sát những hiện tướng này là gì? Tóm lại mà nói, những hiện tướng này chính là “tất cả pháp hữu vi, như mộng ảo bọt bóng”. Phải ở trong đời sống hiện thực mà quán sát, không phải khởi vọng tưởng, không phải ở nơi đó nghĩ tưởng đây là mộng ảo bọt bóng. Quán là không dùng tâm ý thức, không có vọng tưởng, không có phân biệt, không có chấp trước, chính là như vậy mà quán sát, thời thời khắc khắc đều có thể đề khởi được.

Dùng nguyên tắc c bốn câu kệ trong Kinh Kim Cang mà đối chiếu khi sáu căn của chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, sau đó bạn có được tổng kết luận là “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, tâm của bạn tự nhiên thanh tịnh, tự nhiên liền buông xả, sẽ không còn nhiễm trước, trí huệ của bạn liền khai. Nếu bạn cho rằng những sự vật này đều là thật, đều là thực sự có thì bạn sai rồi, không những bạn không khai được trí huệ, bạn chắc chắn vẫn là tạo sát đạo dâm, vẫn là khởi tham sân si, vẫn phải tạo những ác nghiệp này. Tạo ác nghiệp thì chắc chắn phải chịu ác báo. Sáu cõi luân hồi là chính mình tạo, ba đường ác cũng là chính mình biến hiện ra. Lìa khỏi tâm thức của chính mình chắc chắn không có một pháp có thể có được. Không lìa tâm thức của chính mình, tuy là hiện tất cả pháp, tất cả pháp này cũng không thể có được, thế pháp không thể có được, Phật pháp cũng không thể có được. Trong Kinh Đại Bát Nhã đã nói ba chữ “bất khả đắc” mấy ngàn lần. Chúng ta phải ở ngay trong cuộc sống, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần mà quán xét, mà chứng thực, đó gọi là chứng quả, gọi là chứng đạo.