THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN GIẢNG GIẢI
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng từ ngày 11/05/1999 đến 20/04/2000
Giảng tại Singapore, Australia, Hồng Kông.
Tổng cộng 195 Tập (AMTB)
Chuyển ngữ: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
Mã AMTB: 19-012-0001 đến 19-012-0195
THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN – Tập 104/195 (59A – bộ 128 đĩa)
Các vị đồng học xin, chào mọi người.
Hôm qua, tôi đã giảng đến câu “Hư vu trá ngụy, công kiết tông thân” (Đặt điều vu cáo hư vọng, xảo trá, dối gạt, công kích thân thuộc).
Bốn chữ phía trước tôi đã giới thiệu qua rồi, bốn chữ phía sau này thì chưa giảng. Trong chú giải của Vựng Biên nói được rất rõ ràng: “ Cùng họ là Tông, khác họ là Thân”, cho nên tông và thân là có phân ra, nhưng quan hệ đều rất là mật thiết. Trong đây nói rất hay: “ Tuy có xa, gần, thân, sơ khác nhau, thật sự đều là những người có mối quan hệ thân thiết với ta”. Cha con, anh em,thân tộc cùng một họ, đây là “Tông”, cùng một tổ tông, một mạch truyền thừa tiếp nối. “Thân” là người khác họ mà kết thành hôn nhân, cho nên có gia thân quyến thuộc. Tuy người cùng họ, khác họ có sự khác biệt, thế nhưng sau khi kết hôn thì đều là người một nhà, cho nên đều phải nên lấy “thân ái trung thành” để đối đãi nhau, cùng hoạn nạn, cùng chịu khổ. Đây là từ trên nhân luân mà nói. Nếu từ trên Phật pháp để nói thì phạm vi đó lớn, người thông thường rất khó lý giải, rất khó tiếp nhận, thế nhưng đó là chân tướng sự thật. Điều này chúng ta đọc rất nhiều trong Kinh Luận Đại Thừa, chúng ta nỗ lực nêu ra để cùng thảo luận. Đích thực đây là sự thật. Chân tướng của sự thật là tất cả chúng sanh trong hư không pháp giới là cùng tông với chúng ta. Trong thế pháp, từ trên luân lý mà nói thì cùng tông là cùng một tổ tiên, ở trong Phật pháp thì nói chúng ta là cùng một tự tánh, cùng một chân tâm.
Thế Tôn ở trong Kinh Hoa Nghiêm đã nói được rất hay, vũ trụ vạn pháp từ đâu mà có? “Duy tâm sở hiện”. Cái tâm này là cùng chung. Mười pháp giới y chánh trang nghiêm đều là duy tâm sở hiện, duy thức sở biến. Thức là cái gì? Thức là tâm khởi tác dụng. Cho nên, trong Kinh giáo Đại Thừa thường nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, nói ra một cái “tâm”, nói ra một cái tưởng. Tâm năng hiện, tưởng năng biến. Tưởng chính là thức. Tám thức, 51 tâm sở, chỉ dùng chữ “tưởng” này làm đại biểu, cho nên là tâm hiện, thức biến. Đã là từ tâm tưởng sanh thì làm sao nó không phải từ trong cùng một Tông chứ? Cho nên, Phật cùng các Pháp Thân Đại Sĩ xem thấy tất cả chúng sanh tàn sát lẫn nhau, thì giống như lão tổ tông xem thấy con cháu đời sau tương tàn lẫn nhau. Tình hình này là giống như vậy. Có thể trách họ hay không? Không thể trách họ. Tại vì sao không thể trách họ? Họ không hiểu rõ chân tướng sự thật, không có người dạy họ, cho nên Phật ở trong Kinh Vô Lượng Thọ nói rất hay: “Tiên nhân vô tri, bất thức đạo đức”. Đạo đức là gì? Đạo đức chính là chân tướng sự thật. Người thế hệ trước đã lơ là rồi, họ không hiểu rõ chân tướng sự thật, không có người nói với họ, họ tạo những tội nghiệp này thì không thể trách họ.
Chúng ta đọc lịch sử, chúng ta thấy được cổ Thánh tiên vương, những đế vương vào thời xưa hiểu được tường tận, cho nên làm quốc vương, sự việc thứ nhất là giáo học, “kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên”, phải dạy. Cho nên, thời xưa, không chỉ là người lãnh đạo quốc gia, mà thậm chí đến người lãnh đạo thôn xóm địa phương, gia trưởng trong một gia đình là người lãnh đạo của một nhà, thì đại Thánh đại Hiền đều yêu cầu phải làm được ba chữ “Quân-Thân-Sư”. Ý nghĩa này rất sâu rất rộng, chúng ta phải tỉ mỉ mà thể hội. Không chỉ là lãnh đạo, mà đối với người bị lãnh đạo phải có thân tình giống như cha con, anh em, thân bằng quyến thuộc trong nhà vậy, nhiệt tâm yêu thương bảo vệ, cái này là làm đến “thân”. Còn phải làm đến “sư”, sư là tận tâm tận lực giáo hóa họ, khiến cho họ tường tận luân thường đại đạo, hiểu được làm người phải như thế nào, làm thế nào tiếp vật, sống như thế nào.
Phật pháp trước khi truyền đến Trung Quốc, người Trung Quốc đã và đang làm rồi. Vào triều Hán Minh Đế, Phật giáo chính thức truyền đến Trung Quốc. Những lời Phật đã nói, những điều Phật đã dạy cùng với cổ Thánh tiên Hiền chúng ta không hẹn mà gặp, cho nên từ triều đình cho đến dân dã đều rất hoan nghênh đối với giáo học của Phật-đà. Giáo học của Phật-đà bổ sung cho giáo học truyền thống của chúng ta, bổ trợ cho nhau. Chúng ta thì ưa thích sự đơn giản, nên nói được cương lĩnh thiết yếu, Phật pháp thì nói rất tường tận, đây là chúng ta được trời ưu đãi. Chúng ta thấy trên địa cầu này, các quốc gia dân tộc khác đều chưa có. Đây là phước của chúng ta. Tổ tiên của chúng ta đích thực đã làm được ba chữ “Quân-Thân-Sư” này, làm được rất viên mãn.
Trung Quốc ngày nay, tại vì sao lại suy vi lạc hậu như vậy? Thực tế là khoảng 200 năm gần đây bị ngoại bang xâm lược, ức hiếp, họ lại mê tín khoa học kỹ thuật của người nước ngoài, lơ là, xem thường giáo huấn của tổ tông, cho nên mới thành ra như thế này. Văn minh khoa học của nước ngoài có thể giải quyết được vấn đề hay không? Trải qua khoảng hơn một trăm năm, hiện tại vấn đề đã xuất hiện, thế là cả thảy thế giới tràn đầy nguy nan. Người nước ngoài hiện tại muốn học những thứ cổ xưa của chúng ta, họ bắt đầu giác ngộ rồi, cho nên rất nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới đều mở khoa Hán học, nghiên cứu Hán học, người học tập Hán học càng ngày càng nhiều. Mục đích của họ là gì? Giải quyết vấn đề xã hội. Cốt lõi của vấn đề xã hội là vấn đề nhân tâm. Kinh tế, khoa học kỹ thuật không thể nào cải tạo nhân tâm. Vấn đề của tâm tánh là cốt lõi giáo dục của chúng ta, là cốt lõi của nền giáo dục Phật-đà. Những năm 70, nhà đại học vấn của nước Anh – tiến sĩ Thang Ân Tỉ hô hào với thế giới rằng: “Có thể giải quyết vấn đề của thế kỷ 21, chỉ có học thuyết của Khổng Mạnh và Phật pháp Đại Thừa”. Chân thật là có tầm nhìn!
Tôi nghe nói, hiện tại nước Anh và Úc châu đã đem giáo học của Phật pháp bồi dưỡng từ trường mầm non. Trường mầm non, tiểu học, trung học, đại học đều phải học giáo trình Phật Kinh. Chúng tôi nghe nói cảm thấy rất là kinh ngạc. Tôi ở Úc, đồng tu Úc châu, người bên đó thỉnh cầu tôi giúp họ biên soạn giáo trình của tiểu học và trường mầm non. Tôi nghe được thì vô cùng hoan hỉ. Trở lại Singapore, tôi yêu cầu đồng tu chúng ta phải cùng nhau biên soạn giáo trình này. Từ những chỗ này, chúng ta có thể thấy ra được, họ xem trọng Phật pháp đến cỡ nào. Nếu như không có sự nhận biết sâu sắc đối với Phật pháp, làm sao họ có thể xem trọng? Điểm này đáng để chúng ta phản tỉnh, cũng đáng để chúng ta cảnh giác. Sau khi Phật pháp truyền đến thì đã biến thành văn hóa của chúng ta.
Lần này tôi đến thăm Bắc Kinh, Sở trưởng Ngô của Sở Nghiên cứu Văn hóa Phật giáo Trung Quốc nói với tôi, Ấn Độ yêu cầu họ đem Kinh điển Trung văn dịch thành tiếng Ấn Độ để tặng cho họ, vì Phật giáo ở Ấn Độ đã thất truyền từ lâu. Sau khi tôi nghe rồi, tôi cho rằng đây là một việc tốt, việc này chúng ta phải nên làm. Thế nhưng phiên dịch quyết không phải là một việc dễ dàng, nhất định không thể nói thông thạo hai loại ngôn ngữ thì liền có thể phiên dịch. Thế Tôn ở trong Kinh Hoa Nghiêm, thậm chí trong Đại Trí Độ Luận đều có nói đến: “Phật pháp không có người giảng, tuy có trí cũng không thể hiểu”. Công tác dịch Kinh cần phải người có tu có chứng mới có thể làm được, không phải là người tu hành chứng quả thì rất khó, rất khó. Thế nhưng sự việc này lại cần thiết phải làm. Vậy phải nên làm bằng cách nào? Tôi nói cho họ nghe ba bước, sự việc hiện tại cần phải làm. Hiện tại dịch cái gì? Dịch trước tác và diễn giảng của người hiện đại đối với Phật pháp. Cái này dễ dịch, sẽ không sanh ra sai lầm nghiêm trọng. Chúng ta cần phải có một ban phiên dịch, thành viên cố định. Chúng ta dùng thời gian năm năm để các thành viên biên dịch dần dần thâm nhập Phật pháp. Đến năm năm lần thứ hai, chúng ta phiên dịch chú giải của người xưa, chúng ta dịch chú giải không dịch Kinh. Đến năm năm lần thứ ba, chúng ta mới thử nghiệm dịch Kinh, hay nói cách khác, cần có mười năm tu dưỡng đối với Phật pháp, đương nhiên tốt nhất phải là người có thể như giáo tu hành. Sau mười năm thì chúng ta mới dịch Kinh. Nếu không có sự bồi dưỡng của mười năm thì dịch Kinh là việc vô cùng khó khăn. Đây là kiến nghị của tôi đối với họ. Công tác này nhất định phải làm. Không chỉ phiên dịch thành tiếng Ấn Độ, mà hy vọng Phật pháp truyền bá đến toàn thế giới, hay nói cách khác, các văn tự ngôn ngữ khác đều phải phiên dịch. Cho nên, đây là một công trình rất lớn, khiến cho tất cả người trên thế giới đều có thể có nhận thức chính xác chúng ta đều cùng một gốc chân như tự tánh mà sanh ra. Sau đó, tất cả chúng sanh mới có thể tôn trọng lẫn nhau, kính yêu lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau, cùng đồng xây dựng xã hội an định phồn vinh, đời sống hạnh phúc mỹ mãn, sẽ không có đối địch tranh đấu lẫn nhau, cũng sẽ không còn mảy may hơn thua tính toán, vậy thì “công kiết tông thân” mới có thể chân thật tiêu trừ.
Ngay chỗ này, hai câu sau cùng của Ngài nói được rất hay: “ Lặt cành làm đau lòng cây “. Đây là dùng thực vật để làm thí dụ. Cái cây đó, nếu bạn chặt đứt một cái cành của nó, sẽ làm đau lòng nó. “Chặt đứt rễ khiến cho mạng mạch của nó chấm dứt”, như Phật đã nói “nhân dân ái vật”. Từ ngay chỗ này chúng ta có thể thể hội được trong Giới Kinh đã nói “Tỳ-kheo thanh tịnh không đạp lên cỏ non”, chân thật từ bi thể hiện ra từ những chỗ này, chúng ta phải nên học tập. Cho nên, tất cả chúng sanh đều là tông thân của chúng ta, làm sao có thể “công kiết”? Cho dù họ làm sai, chúng ta phải hiểu rõ tại vì sao họ lại làm sai. Do nhất thời mê hoặc, không phải bổn tâm của họ, không phải bổn ý của họ, mà là nhất thời mê hoặc, nhất thời hiểu lầm, họ nghĩ sai thì họ làm sai. Phải nên lượng thứ, không nên tính toán, lâu dần họ sẽ giác ngộ, họ sẽ sám hối, họ sẽ quay đầu. Chúng ta nhẫn nại mà chờ đợi, chúng ta từ trong đó mà hỗ trợ, giúp đỡ họ giác ngộ, giúp đỡ họ quay đầu. Đây là người quân tử nhân từ, là một người thông tình đạt lý. Câu này tôi chỉ giảng giải đến đây. Trong Vựng Biên có rất nhiều câu chuyện, nêu ra rất nhiều thí dụ, các vị tự mình có thể xem.