THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN GIẢNG GIẢI
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng từ ngày 11/05/1999 đến 20/04/2000
Giảng tại Singapore, Australia, Hồng Kông.
Tổng cộng 195 Tập (AMTB)
Chuyển ngữ: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
Mã AMTB: 19-012-0001 đến 19-012-0195
THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN – Tập 68/195 (35A – bộ 128 đĩa)
Các vị đồng học, xin chào mọi người!
Chúng ta xem tiếp Cảm Ứng Thiên đoạn thứ 27:
“Bất chương nhân đoản, bất huyễn kỷ trường”. (Chẳng phô bày sự kém cỏi của kẻ khác, chẳng khoe khoang cái hay của chính mình)
Hai câu nói này xem ra rất bình thường, nhưng có quan hệ rất lớn đối với người tu hành chân chánh. Mở đầu của tiểu chú nói rất hay: “Nghe nhược điểm của người như nghe tên của cha mẹ, tai có thể nghe nhưng miệng chớ nên nói”. Lời nói này là vào xã hội xưa, hiện nay chúng ta rất khó thể hội điều này. Trung Quốc thời xưa, có thể nói là từ triều Hán mãi cho đến triều Thanh, trước sau duy trì lễ chế, gọi là “dùng lễ trị thiên hạ”. Ý nghĩa của câu nói này rất sâu. Vào thời xa xưa, nếu có quan hệ vô cùng mật thiết thì mới được gọi người khác bằng tên. Thông thường tên của một người, ở trong một đời chỉ có hai người có thể gọi tên của người đó, một người là cha mẹ, một người là thầy. Lễ xưa, con trai 20 tuổi trưởng thành thì hành quan lễ (quan lễ chính là nghi thức đội mũ). Hai mươi tuổi là thành niên rồi, đội mũ là biểu thị họ đã trưởng thành. Bắt đầu từ ngày này trở đi, anh em, bạn bè, bạn học cùng trang lứa của họ, mọi người cùng chúc mừng họ, đồng thời tặng cho họ một cái tên tự (tên riêng), cho nên họ có tên chính danh và tên tự. Tên chính danh của họ thì không được gọi mà chỉ gọi tên tự, đây là tôn kính đối với họ. Cho nên sau khi thành niên, chỉ có cha mẹ và thầy là những người có thể gọi tên chính danh của họ. Cho dù làm quan ở triều đình, Hoàng đế đối với họ cũng gọi tên tự, chứ không gọi tên chính danh, đây là tôn kính đối với họ. Nếu như Hoàng đế không gọi tên tự mà gọi tên chính danh của họ thì người này đã có tội rồi, không đối xử với họ giống như người thường, nói cách khác, họ đang đợi xử tội. Một người thông thường, không phải ai cũng có thể tùy tiện gọi tên chính danh của họ, huống chi con cái đối với tên của cha mẹ, không dám gọi. Người khác gọi tên cha mẹ của họ, họ có thể nghe, họ dứt khoát không được nói.
Ở chỗ này nói “Bất chương nhân đoản”, dùng thí dụ này, ý nghĩa này rất sâu xa. Nghe thấy người khác nói đúng sai, nói hay dở thì cũng giống như nghe người ta nói tên của cha mẹ bạn vậy. Bạn chỉ được nghe, bạn không được nói, nói là đại bất kính, là đại bất hiếu đối với cha mẹ. Chú giải dùng ví dụ này rất hay. Hiện nay không có người học lễ, cũng không có người giảng lễ. Đọc đến câu này, người hiện tại hiểu được không nhiều, cũng không có cách gì thể hội được, thậm chí là ý nghĩa này rốt cuộc rộng cỡ nào, người hiện nay cũng không thể tưởng tượng được.
Vào thời xưa, việc xưng hô được vô cùng coi trọng, dứt khoát không được lộn xộn. Đây là nền tảng của giáo dục luân lý. Thế nhưng người phương Tây không có, ngay cả khái niệm này cũng không có. Người phương Tây, con cái tùy tiện gọi tên của cha mẹ. Điều này không nhìn thấy trong xã hội xưa của Trung Quốc. Trung Quốc vào thời xưa, tôn kính đối với một người thì ta gọi tên tự, đây là bình thường. Nếu họ có đạo đức, có học thức, có cống hiến đối với quốc gia xã hội thì mọi người cũng không gọi tên tự của họ, mà đặt cho họ một danh hiệu khác, gọi là hiệu. Đây là đối với họ càng tôn kính hơn. Nếu rất mực tôn kính thì ngay cả hiệu cũng không gọi, mà gọi địa danh của họ. Ví dụ như Lý Hồng Chương, Hồng Chương là danh của ông. Ông làm đến Tể tướng, được đại chúng xã hội tôn kính, cho nên ngay cả tên chính danh, tên tự và hiệu của ông, người ta đều không gọi, mà gọi là Lý Hợp Phì (ông là người Hợp Phì), gọi địa danh của ông. Điều này không những tôn kính đối với ông mà đối với quê hương của ông cũng tôn kính. Hợp Phì đã sinh ra nhân vật lớn như vậy, đây là vinh dự của toàn bộ người Hợp Phì.
Thông thường xã hội cũng dùng phương pháp này để xưng hô đối với người xuất gia. Thời triều Tùy có Trí Giả Đại Sư, gọi “Trí Giả” đã là rất tôn kính đối với Ngài rồi. Pháp danh của Ngài là Trí Khải, nhưng không gọi Trí Khải mà gọi Trí Giả, đây là rất tôn kính rồi. Nhưng hết sức tôn kính thì ngay cả tên này cũng không gọi, mà gọi là Thiên Thai Đại Sư, vì Ngài trụ tại núi Thiên Thai. Rất mực tôn kính thì gọi địa danh nơi họ ở, nơi họ sinh ra và lớn lên, hoặc là nơi họ thường sinh sống. Điều này chúng ta đã thấy rất nhiều ở trong sách xưa. Phàm là loại xưng hô này thì đều được người thông thường trong xã hội đương thời phổ biến kính ngưỡng.
Tiến thêm một bước nữa là miệng không được phép nói, “nhĩ diệc bất khả đắc văn, tắc cánh thượng giả”. Trên một bậc nữa, không những là nghe xong không được nói, mà tốt nhất là nghe cũng không nên nghe. Điểm này rất quan trọng.
Chúng ta tu hành, điều quan trọng nhất là tu Tâm Thanh Tịnh. Phật pháp quy kết đến cuối cùng là có ba môn: Giác, Chánh, Tịnh.
Thứ nhất là cửa “Giác”
“Giác” môn là Tánh tông tu, là Thiền tông tu, phải người thượng thượng căn mới đắc lực, không phải người thượng thượng căn thì không thể vào cửa. Nếu nói đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh thì người căn tánh trung hạ cả đời không làm được. Cho nên đi cửa “Giác” tất nhiên là nhanh, nhưng nhất định chỉ dành cho số ít người. Trong lịch sử Thiền tông, dưới hội của Đại Sư Lục Tổ Huệ Năng, số người được độ nhiều nhất cũng chỉ có 43 người. Quí vị thử nghĩ, số người tiếp nhận qua sự giáo huấn của Đại Sư Lục Tổ Huệ Năng là bao nhiêu? Chúng tôi tính sơ lược một chút, mấy chục vạn người chắc chắn là có. Trong mấy chục vạn người, chỉ có 43 người khai ngộ, chỉ là thiểu số. Nếu không phải thượng thượng căn thì chắc chắn không làm được. Từ Lục Tổ trở về trước, từ khi Tổ sư Đạt-ma đến Trung Quốc, cả đời chỉ [truyền] được một người, cho nên đơn truyền. Từ Lục Tổ về sau, những Tổ sư Đại đức dưới hội khai huệ chỉ có ba người, năm người, từ trước đến nay chưa vượt qua được mười người, năm – ba người là rất nhiều. Cho nên, cửa “Giác” tuy hay nhưng rất khó đi.
Thứ hai là cửa “Chánh”.
Cửa “Chánh” cũng không dễ dàng. “Chánh” môn là nghiên cứu giáo lý, tiệm tu. Cửa “Giác” là đốn tu, đốn siêu. Ngoài Thiền tông ra, toàn là thuộc vào Giáo Hạ; Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Pháp Tướng, Duy Thức đều là thuộc về Giáo Hạ, điển tịch quá nhiều, giống như đi học vậy, từ tiểu học, trung học đến đại học, nghiên cứu sinh, dần dần từ từ nâng cao lên. Người căn tánh trung hạ đi con đường này thì thuận tiện, nhưng hao tốn quá nhiều thời gian. Thời gian dài thì tương đối sẽ có nhiều chướng ngại, chướng ngại về mặt nhân sự, chướng ngại về mặt hoàn cảnh luôn là điều không thể tránh khỏi, cho nên tiến thì ít mà thoái thì nhiều, thành tựu cũng tương đối gian nan. Chúng ta ở trong truyện sử đều xem thấy, nếu không bền chí, không có nghị lực, không thể chân thật hành công phu khắc kỷ thì không thể thành tựu. Cho nên con đường Giáo Hạ vô cùng xa xôi, cũng không phải dễ học.
Thứ ba là cửa “Tịnh”.
“Tịnh” là tu tâm thanh tịnh. Từ cửa này, ở trong Phật pháp Đại Thừa có hai tông phái, Tịnh Độ tông đi cửa này, Mật tông cũng đi cửa này, đều là tu tâm thanh tịnh. Người tu tâm thanh tịnh, nếu thường xuyên xen tạp chuyện đúng sai, hay dở thì tâm của bạn làm sao có thể được thanh tịnh? Thường xuyên nghe lời thị phi, thường xuyên nói lời thị phi thì tạo khẩu nghiệp nặng, không những tâm không thanh tịnh mà tương lai tạo quả báo cũng rất khó tưởng tượng, trong Kinh Phật nói là đọa địa ngục Kéo Lưỡi. Địa ngục Kéo Lưỡi là quả báo của khẩu nghiệp. Nghiệp mà bạn đã tạo đối với người khác, đối với xã hội, nếu như có tổn hại lớn thì không chỉ đọa địa ngục Kéo Lưỡi, mà có thể từ địa ngục Kéo Lưỡi sẽ chuyển đến địa ngục Vô Gián, trong Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh có nói, vừa mở đầu liền nói rõ ràng rồi.
Tông chỉ thật sự của bộ Kinh này là dạy người tu hành tin sâu nhân quả, đoạn ác tu thiện, nhất là khẩu nghiệp. Có thể thường xuyên gìn giữ tâm thanh tịnh của mình, giữ vững sự thành thật của mình, người này cho dù đạo nghiệp không thể thành tựu thì cũng là người thiện của trời người. Thiện mà nhà Phật nói thì người xưa có làm tổng kết về một đời giáo pháp của Phật-đà. Cái lý mà Phật Bồ-tát nói không gì ngoài tâm tánh, nói ra những sự tướng không gì ngoài nhân quả. Nếu nhân quả hoàn toàn tương ưng với tâm tánh thì đây là đại thiện, đó là sự hành trì của Phật Bồ-tát. Chúng ta học Phật, quí ở chỗ có thể nắm bắt được cương lĩnh thì chúng ta tu học sẽ không cảm thấy khó khăn. Sau khi hiểu rõ nhân quả rồi, bạn sẽ khẳng định gieo nhân thiện, được quả thiện. Chúng ta mong cầu quả thiện, tại sao không đi gieo nhân thiện? Tôi đời này biết giữ tròn điểm này. Người khác nói thị phi, tôi lập tức tránh xa, tôi không muốn nghe, vì nghe xong tâm sẽ bị ô nhiễm. Người khác phá hoại tôi, nói thị phi về tôi, có đồng tu cầm những băng ghi âm này, hoặc giả ghi lại những lời nói này đưa đến cho tôi xem, tôi hoàn toàn không xem, đem băng ghi âm đi ghi những thứ khác, những phần ghi chép thì vứt vào sọt rác, không lưu lại trong A-lại-da thức những chủng tử này. Đây là chủng tử không tốt. Người khác đặt điều sinh sự, phỉ báng là oan gia. Oan gia nên giải, không nên kết. Cứ để họ đi tạo tác, chúng ta không nên nghe. Chúng ta chỉ nhớ ưu điểm của người khác, không nên nhớ khuyết điểm của người; chỉ nghe thiện hạnh, việc tốt của người khác, không nghe ác ngôn, ác hạnh của người. Đây không chỉ là tu tâm thanh tịnh, mà cũng là tu sự thành thật của mình. Người ở trong một đời thường xuyên giữ gìn tâm thanh tịnh, giữ gìn sự thành thật, mặc dù đời sống vật chất có thiếu thốn, có vất vả đi nữa, đời sống tinh thần phong phú thì sẽ sống rất vui vẻ, “lý đắc tâm an”. Đạo lý hiểu rõ rồi thì tâm an. Nhất là bạn đã nghe Phật pháp, đã phát nguyện cầu sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Bạn thử nghĩ, Thế giới Tây Phương Cực Lạc là “các bậc thượng thiện đều hội về một nơi”, tâm hạnh của bạn bất thiện thì làm sao có thể đi được? A Di Đà Phật tuy từ bi đến tiếp dẫn bạn, nhưng tiếp dẫn vẫn phải có điều kiện. Bản thân bạn tâm hạnh bất thiện, bạn niệm Phật có cần mẫn đi nữa, tâm nguyện của bạn có khẩn thiết đi nữa, nhưng không tương ưng với hoàn cảnh lớn của Thế giới Tây Phương Cực Lạc, A Di Đà Phật tiếp dẫn bạn đến đó rồi, bạn hằng ngày cãi nhau với người khác, hằng ngày sinh chuyện thị phi với người khác, bạn làm náo loạn Thế giới Cực Lạc, tình cảm của bạn dù đối với A Di Đà Phật sâu dày đi nữa, A Di Đà Phật cũng sẽ không vì bạn mà khiến Thế giới Cực Lạc bị hủy hoại. Cho nên muốn vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, điều kiện của bản thân là thiện tâm, thiện hạnh. Khổng Phu Tử dạy chúng ta “Chỉ ư chí thiện” (đạt đến chỗ chí thiện), vậy mới có điều kiện cùng “các bậc thượng thiện đều hội về một nơi” ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tôi thường nói, một mảy may ác ý cũng không được phép có. Nếu có một mảy may ác ý, ác niệm thì không thể vãng sanh. Không nên cho rằng pháp môn này không linh, tôi tu cả đời, niệm Phật cả đời, hằng ngày lạy Phật, hằng ngày niệm Phật, đến lúc lâm chung vẫn không thể vãng sanh, Thích-ca Mâu-ni Phật lừa người. Thật ra, Phật không hề lừa dối bạn, mà chính bạn đã hiểu sai ý nghĩa. Thật sự mong cầu Thế giới Tây Phương Cực Lạc thì mảy may ác ý cũng không được phép có.
Hai câu nói này là quan trọng. Tuyệt đối không được phép nói khuyết điểm của người khác, tốt nhất nghe cũng không nên nghe.