Thái Thượng Cảm Ứng Thiên – Tập 24/195

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN –  Tập 24/195 (11A – bộ 128 đĩa)

Các vị đồng học, xin chào mọi người!

Hôm qua chúng ta học đến câu thứ 14: Kỳ quá đại tiểu, hữu sổ bách sự. Dục cầu trường sanh giả, tiên tu tị chi” (tội lỗi lớn nhỏ của con người, có đến mấy trăm chuyện. Kẻ mong sống lâu, trước hết hãy nên tránh những tội lỗi này). Tội lỗi lớn nhỏ có mấy trăm loại. Chữ “sự” trong kinh văn là chủng loại. Ở trong mỗi loại thật sự mà nói là vô lượng vô biên. Cổ đức nói: “Phi nghĩa nhi động” (hành động những điều phi nghĩa), đó chính là lỗi. “Nghĩa” là “nên”, nếu tư tưởng hành vi của bạn đều là không nên thì đó chính là lỗi lầm. Lỗi lầm có lớn nhỏ; lớn chính là nghiệp chướng, nhỏ thì gọi là lỗi lầm. Thiên địa quỷ thần đều nhìn thấy tội lỗi, chư Phật Bồ-tát nhìn thấy càng rõ ràng hơn. Thành thật mà nói, điều mà thiên địa quỷ thần nhìn thấy, chúng ta thường nói đó là chuyện đương nhiên. Chư Phật Bồ-tát còn có thể nhìn thấy được đạo lý vì sao nó lại như vậy, vì sao bạn mê hoặc, vì sao bạn tạo nghiệp, vì sao bạn thọ báo.

Vì sao nói chư Phật Bồ-tát có thể nhìn thấy được cái đạo lý vì sao nó như vậy. Mọi người đã đọc Kinh Vô Lượng Thọ rồi, người ở thế giới Cực Lạc, cho dù là người mới vừa vãng sanh hạ phẩm hạ sanh, năng lực của họ cũng đều là thiên nhãn nhìn thấu, thiên nhĩ nghe suốt, tha tâm đều biết. Hay nói cách khác, đối với con người bạn, đời đời kiếp kiếp trong quá khứ của bạn, họ đều biết rõ những tình trạng đó. Cho nên họ biết lý do tại sao như vậy. Tích tập ác nghiệp trong nhiều kiếp, trong nhiều kiếp đã dưỡng thành cái thói quen xấu ác, tập khí ác này, không dễ gì thay đổi.

Chúng ta thấy trong Kinh Địa Tạng, thế gian có một số người bất thiện, tập khí nghiệp chướng rất nặng, đến cõi người từ đường ác trong đời quá khứ, nên còn mang theo cái tập khí tàn dư của đường ác. Thiên địa quỷ thần chưa chắc có thể nhìn thấy rõ được những đạo lý này. Khả năng của A-la-hán có thể nhìn thấy năm trăm đời quá khứ của một người, trước năm trăm đời thì họ không nhìn thấy. Cho nên cần phải hiểu rõ triệt để thì thuyết pháp mới có thể khế cơ, mới biết dùng pháp phương tiện gì để giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn này.

Cảm Ứng Thiên nói ở chỗ này cũng là một nguyên tắc. Nguyên tắc này có tính phổ biến, nếu mọi người có thể tuân thủ thì chắc chắn được lợi ích. Trong quá khứ, ở Trung Quốc, ba nhà Nho Thích Đạo đều theo đuổi công tác giáo dục xã hội, đều mang tư tưởng nhất thể đa nguyên văn hóa, đối với xã hội Trung Quốc có cống hiến rất lớn. Tam giáo tuy có khác biệt nhưng cũng có chỗ tương đồng. Đó chính là bất luận tu học theo đạo nào thì nhất định phải lấy “tích đức” làm gốc, đây là điều tam giáo đều công nhận. Tích đức bắt đầu từ đâu vậy? Là từ trên tâm địa mà hạ công phu. Tâm địa nhất định phải quang minh lỗi lạc.

Nhà Phật nói “siêu phàm nhập thánh”. “Phàm” là gì? Phàm là phàm tình, chúng ta ngày nay gọi là tình cảm, tình cảm này là phàm tình. Xử sự theo tình cảm thì sẽ có lỗi lầm, chúng ta thường nói xử sự theo tình cảm. Có thể buông xả tình chấp, vứt bỏ rồi, thì người này chính là Thánh. Thánh là người hiểu biết minh bạch, người giác ngộ. Cho nên làm Thánh chính là làm người hiểu biết minh bạch, làm người giác ngộ. Nếu như không chuyển đổi tình chấp thành trí huệ thì bạn không làm Thánh được. Hay nói cách khác, bạn vĩnh viễn sẽ không hiểu rõ ràng, vĩnh viễn sẽ không giác ngộ.

Tình chấp phát sinh từ đâu vậy? Phật pháp nói từ trên lý, là phát sinh từ phân biệt, chấp trước bốn cái tướng của bạn. Bốn tướng chính là tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, bạn phân biệt, chấp trước bốn cái tướng này, đây là nguồn gốc của tình chấp. Bởi vì bạn phân biệt chấp trước cho nên bạn mới có tự tư tự lợi, mới có nhân ngã thị phi, mới có tham sân si mạn. Không những ngôn hành của bạn tạo nghiệp mà khởi tâm động niệm cũng là tạo nghiệp. Phần trước đã nói qua một cách sơ lược điều này với các vị rồi. Khởi tâm động niệm là ý ác, tâm bạn ác, tâm không tốt. Phật Bồ-tát giác ngộ rồi, hiểu minh bạch rồi. Người giác ngộ không có ngã, không có chính mình cho nên mới có thể thật sự tôn kính người khác, người hiểu biết mới có thể làm được.

Nhà Nho cũng là như vậy, sau khi hiểu rõ rồi mới biết “hạ mình mà tôn người”, tự mình khiêm hạ mà tôn trọng người khác. Chỉ có người mê hoặc mới tự cao tự đại, tự mình ngẩng cao đầu không hề xem trọng người khác, không chịu được oan ức. Vừa bị một chút oan ức là ôm hận trong lòng, không lúc nào quên nên chiêu cảm đến quả báo không như ý. Mọi người đều biết sân hận thì đọa địa ngục. Cho nên Phật Bồ-tát vì sao không trụ trong lục đạo, vì sao không trụ trong thập pháp giới? Các Ngài thị hiện ở trong lục đạo nhưng vẫn trụ ở nhất chân pháp giới, đạo lý ở đâu vậy? Vì không có ngã, không có ngã mới có thể hạ mình. Người giác ngộ ở chỗ thấp hèn vẫn vui vẻ, tự tại, chỉ có người mê hoặc mới dương dương tự đắc. Quí vị hãy suy nghĩ thật kỹ cái đạo lý này, lĩnh hội thật tỉ mỉ thì thọ dụng vô cùng tận, thật sự hiểu rõ nhân quả ba đời.

Chúng tôi ở trong các buổi giảng thường hay nói qua, giữa người với người dứt khoát không được giành phần lợi, cũng nhất định không có thiệt thòi. Bạn giành phần lợi của người ta, tương lai sẽ phải trả nợ, nợ mạng phải đền mạng, nợ tiền phải trả tiền. Ở trong Hồng Lâu Mộng nói nợ người nước mắt phải trả người nước mắt, việc này là thật chứ không phải là giả. Chỉ có người thật sự giác ngộ, thật sự hiểu biết thì họ mới không tạo nghiệp nữa, họ mới thật sự làm được tùy duyên qua ngày, ở trong tùy duyên mà thành tựu công đức của chính mình. Trong Thập Đại Nguyện Vương nói “tùy hỷ công đức”. Công đức là gì? Sự lưu lộ của tánh đức chính là công đức. Ở trong đây có một quan niệm quan trọng nhất mà chúng ta không có cách gì hình thành được, nếu như chúng ta có thể hình thành được quan niệm này thì Bồ-tát đạo không phải là việc khó, tích công lũy đức là chuyện dễ như trở bàn tay. Quan niệm gì vậy? “Tất cả chúng sanh trong hư không pháp giới là chính mình”.

Chúng ta không cách gì hình thành quan niệm này, thế nhưng chư Phật Bồ-tát đều có quan niệm này. Phật chứng được pháp thân thanh tịnh. Pháp thân là gì vậy? Pháp thân là tất cả chúng sanh trong hư không pháp giới là chính mình, khẳng định là chính mình, hoàn toàn không có mảy may nghi hoặc, chân thật là chính mình thì người này thành Phật rồi. Họ chứng được pháp thân thanh tịnh. Cho nên họ phục vụ tất cả chúng sanh là phục vụ chính mình, thế thì còn gì để nói nữa chứ, còn có gì mà chấp trước nữa, không phải vì người khác, mà là vì chính mình. Tôi khi giảng kinh đã có nói qua rồi, vũ trụ phức tạp như thế nào thì thân thể của chúng ta cũng phức tạp như thế đó. Thân thể chúng ta là cái vũ trụ thu nhỏ, vũ trụ là sự mở rộng của cái thân thể này của chúng ta, tình trạng phức tạp ở đây không tăng không giảm, hoàn toàn tương đồng. Cho nên cái thân thể này của chúng ta là tiểu vũ trụ, tiểu vũ trụ cùng với đại vũ trụ là một không phải là hai.

Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nhỏ lớn không hai”, lớn có thể chứa nhỏ, nhỏ cũng có thể chứa lớn, hạt cải chứa núi Tu Di, núi Tu Di chứa hạt cải, đây mới là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Chư Phật Bồ-tát giúp đỡ những chúng sanh chưa giác ngộ ở trong vô lượng vô biên cõi nước chính là xuất phát từ quan niệm này, từ quan niệm này mà thiết lập. Cho nên pháp là pháp không thể nghĩ bàn, người cũng là người không thể nghĩ bàn.

Chúng ta đọc chú giải Kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện của Pháp sư Thanh Liên, trong mỗi điều của “Ngũ trùng huyền nghĩa”, Ngài đều thêm vào “không thể nghĩ bàn” là rất có đạo lý. Nếu bản thân Ngài chưa khế nhập cái cảnh giới này thì Ngài không thể nói ra lời này được. Ngài đã lĩnh hội được chân tướng sự thật rồi, nhận biết rồi, khế nhập cảnh giới này, cho nên Ngài mới có thể nói ra được. Chúng ta đọc rồi lĩnh hội được mấy phần? Vì sao chúng ta không thể lĩnh hội được vậy? Vì ở trong đây có chướng ngại, chướng ngại là không ngoài phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não chướng chính là nhân ngã thị phi, tham sân si mạn. Sở tri chướng, dùng cách nói hiện nay mà nói, là có thành kiến đối với phương diện tri thức học thuật. Nếu có thành kiến về mặt nhân quả thì đó là thuộc về phiền não chướng, là một loại trong kiến tư phiền não. Nếu có thành kiến về mặt tri thức thì gọi là sở tri chướng. Tự cho mình là đúng, cho nên bạn sẽ không nhìn thấy chân tướng sự thật.

Chúng ta ở chỗ này phải dùng công phu, trừ được một phần chướng ngại thì trí huệ của bạn sẽ hiển lộ ra một phần. Cách trừ khử chướng ngại như thế nào? Chúng ta phải hiểu rõ, trừ khử chướng ngại chính là những tình chấp phân biệt này ngày càng tan nhạt, không nghiêm trọng như trước đây nữa, mỗi năm một nhạt hơn, mỗi tháng một nhẹ dần hơn, phân biệt chấp trước đã nhẹ rồi, tan nhạt rồi, đây chính là lần lượt xa lìa. Năm mươi mốt cấp bậc của Bồ-tát, bốn cõi ba bậc chín phẩm của pháp môn Tịnh-độ đều là như vậy. Tập khí phiền não bớt một phần thì phẩm vị của bạn sẽ tăng cao một bậc, đến khi đoạn sạch tập khí phiền não rồi thì bạn viên mãn thành Phật. Bồ-tát Đẳng Giác còn có một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, đó chính là phiền não của họ. Cho nên họ vẫn chưa đạt đến viên mãn, công đức của họ vẫn chưa thành tựu rốt ráo. Cần phải xả cho thật sạch sẽ, vậy mới là thành tựu cứu cách viên mãn, cho nên chúng ta phải xả, phải buông xả.

Nếu bạn không chịu buông xả thì chính là bạn tích lũy tội nghiệp. Buông xả tức là bạn tích lũy công đức. Vì sao bạn không buông xả được vậy? Vì bạn chưa hiểu rõ chân tướng sự thật, cho những cái giả này là thật, vậy là bạn thấy sai rồi, nghĩ sai rồi, cho nên bạn mới làm sai, bạn mới bị chiêu cảm đến ác báo. Buông xả và nhìn thấu bổ sung cho nhau. Bạn có thể buông xả một chút thì bạn nhìn thấu thêm một phần, có thể nhìn thấu thêm một phần thì bạn có thể buông xả thêm một chút nữa. Hay nói cách khác, Bồ-tát từ lúc sơ phát tâm cho đến viên thành Phật đạo, chính là nhìn thấu buông xả bổ sung cho nhau.

Trong sáu Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật là nhìn thấu, năm độ còn lại đều là buông xả, các bạn thử nghĩ xem có đúng hay không? Bố thí là buông xả tâm tham, trì giới là buông xả niệm ác, nhẫn nhục là buông xả sân hận, đố kỵ, tinh tấn là buông xả giải đãi lười nhác, thiền định là buông xả tán loạn, toàn bộ là buông xả. Bát-nhã là thấu biết, thấu biết rất rõ ràng minh bạch. Sáu Ba-la-mật quy nạp lại chính là bốn chữ “Nhìn thấu, buông xả”, chúng ta phải thật làm. Những khái niệm, hình tướng trong kinh luận này tuyệt đối không phải đọc tụng qua là xong, đọc xong là trôi mất rồi, vậy thì làm sao được chứ? Bạn thật nhìn thấu, thấy rõ ràng thấu suốt rồi, thật buông xả thì tội lỗi của bạn sẽ không còn nữa, đâu thể không sống lâu, sống lâu là vô lượng thọ.

Cho nên muốn cầu sống lâu, muốn cầu phước báo, nhất định phải cầu từ trên tâm địa, tâm sanh vạn vật. Trong kinh Phật nói: “Tâm sanh thì các pháp sanh”, phần trước chúng ta cũng học qua: “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh” (tất cả pháp theo tâm tưởng mà sanh ra). Phật pháp là nội học, ở bên trong viên mãn rồi thì cảnh giới bên ngoài liền thuận theo tâm. Cho nên nói “tâm tưởng sự thành” (trong tâm nghĩ tưởng thì sự việc thành tựu). Trong Phật pháp nói nhất định là chính xác. Bạn nghĩ ác thì việc ác thành, bạn nghĩ thiện thì việc thiện đã thành, bạn nghĩ Phật thì thành Phật rồi, bạn nghĩ tham sân si mạn thì ba đường ác thành rồi, là tâm tưởng sự thành mà. Bạn nghĩ tham, thì thành ngạ quỷ rồi, nghĩ sân hận, tật đố thì địa ngục thành rồi. Thập pháp giới y chánh trang nghiêm từ đâu mà có? Từ trong tâm của chính bạn nghĩ ra vậy. “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, liền biến hiện ra cảnh giới này. Đã là như vậy thì tại ta sao không nghĩ Phật mà lại đi nghĩ cái khác vậy? Nghĩ Phật thì thành Phật, tâm nghĩ Phật, miệng niệm Phật, thân làm những việc mà Phật làm, miệng nói những lời của Phật thì người này đã thành Phật rồi. Cho nên chúng ta nếu muốn làm Phật thì không thể không đọc kinh, nếu không đọc kinh thì nghĩ ngợi lung tung. Chúng ta phải khiến tư tưởng của chính mình hoàn toàn tương ưng với kinh giáo của Phật, khởi tâm động niệm nghĩ cái gì vậy? Nghĩ đến những đạo lý, những lời giáo huấn, những cảnh giới mà Phật đã nói trong kinh. Tôi khuyên mọi người đọc Kinh Vô Lượng Thọ ba ngàn lần, đạo lý là ở chỗ này.

Bạn không thuộc kinh thì bạn nghĩ được cái gì chứ? Bạn không có cách gì nghĩ được. Trước tiên phải học thuộc kinh, thuộc cho thật nhuần nhuyễn, khởi tâm động niệm, cảnh giới lý luận ở trong kinh hoàn toàn có thể hiện tiền. “Nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền tương lai chắc chắn thấy Phật”, đây là tôi dạy mọi người, tin hay không là tùy bạn. Có người tin và làm theo, họ được lợi ích, họ rất hoan hỷ đến nói với tôi. Tôi cũng vì họ mà hoan hỷ. Người không chịu tiếp nhận, không chịu làm, tôi nhìn thấy cũng hoan hỷ. Tại sao vậy? Họ tâm tưởng sự thành mà. Khắp hư không pháp giới chính là như vậy. Đời này không thể được độ thì xem như là đã trồng thiện căn. Ở trong A-lại-da thức có cái nhân duyên được độ, có cái chủng tử được độ, vậy cũng tốt, chỉ là việc được độ không ở trong đời này mà thôi. Lý Lão sư trước đây nói, còn phải luân hồi nhiều kiếp, còn phải chịu rất nhiều khổ nạn. Cho nên chúng ta phải thật sự tin, thật sự y giáo phụng hành, trong đời này phải làm ngay việc này, đây là thiện căn, phước đức, nhân duyên chín muồi rồi.