THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN GIẢNG GIẢI
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng từ ngày 11/05/1999 đến 20/04/2000
Giảng tại Singapore, Australia, Hồng Kông.
Tổng cộng 195 Tập (AMTB)
Chuyển ngữ: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
Mã AMTB: 19-012-0001 đến 19-012-0195
THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN – Tập 113/195 (65A – bộ 128 đĩa)
Các vị đồng tu, xin chào mọi người.
Xin xem đoạn thứ 49 trong Cảm Ứng Thiên:
“Thưởng cập phi nghĩa, hình cập vô cô.”
(Tưởng thưởng không đúng nghĩa, gia hình phạt cho người vô tội.)
Hai câu này chính là nói việc thưởng phạt bất minh, đúng sai điên đảo. Trong phần chú giải giảng rất hay, chúng ta nên thường xuyên đọc, thường xuyên ghi nhớ: “Ban thưởng cho người cũng có đạo lý, nhằm ghi công cho người có đức tốt. Triều đình khuyến khích lòng dân sống theo phép tắc. Người đáng thưởng không thưởng, người không đáng thưởng lại được thưởng đều trái với điều nghĩa”. Bất nghĩa là việc không nên làm, không đáng thưởng mà lại ban thưởng, đây gọi là phi nghĩa, “nghĩa” là việc nên làm. Đây chính là không biết đúng sai, không tôn trọng pháp luật, hành vi này nhất định sẽ tăng trưởng tự tư tự lợi. Trong xã hội, từ xưa đến nay, chúng ta nhìn thấy rất nhiều người kết bè đảng để mưu lợi riêng, phá hoại thể chế quốc gia, nhiễu loạn xã hội, tổn hại người dân lương thiện, đều là do những người này làm ra.
Hai câu sau cùng này nói rất hay: “Nếu cất nhắc, khen thưởng sai sót sẽ khiến trời nổi giận”. Câu nói này là lời chân thật, nhưng người thế gian nghe thấy thì cho là mê tín. Thời xưa, Thánh nhân không thường bàn đến các việc sau: “Tử bất ngữ quái lực loạn thần” (Khổng Tử không bàn đến những chuyện: quái dị, bạo lực, phản loạn và quỷ thần). Khổng Phu Tử không nói nhiều về thiên đạo nhưng không phải là không nói. Người Trung Quốc đối với những lý luận và sự thật về thiên địa quỷ thần cùng nhân quả báo ứng biết được rất nhiều. Trong các sách xưa chúng ta dường như chỗ nào cũng đều có thể xem thấy. Nhưng Thánh nhân đối với những sự việc này các Ngài không đề xướng, không đề xướng là có lý do của việc không đề xướng. Các Ngài hy vọng trí huệ và trình độ tri thức của chúng ta càng được nâng cao hơn. Những việc liên quan đến thiên địa quỷ thần, người thế gian chỉ xem đó là đương nhiên chứ không biết tại sao lại như vậy. Trong Kinh Luận, Phật đã nói rất rõ đạo lý tại sao như vậy. Ngài nói rất rõ ràng, nói rất thấu triệt, cho nên Kinh Phật không thể không đọc. Chỉ có chân thật hiểu được triệt để thì mới có thể làm được sự chuyển đổi lớn về mặt ý niệm.
Phật pháp dạy người từ lúc sơ phát tâm cho đến quả địa Như Lai, tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc của việc tu học chính là điều đã nói trong kinh Kim Cang: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (Từ chỗ vô trụ mà khởi sinh tâm). Đại sư Lục Tổ Huệ Năng ở Tông Môn khai ngộ từ câu nói này. Câu kinh văn này cùng với câu sau cùng mà đức Phật nói: “Ly nhất thiết tướng, tu nhất thiết thiện” (Lìa tất cả tướng, tu tất cả điều thiện) là cùng một ý nghĩa. “Ưng vô sở trụ” chính là “ly nhất thiết tướng”, “nhi sanh kỳ tâm” chính là “tu nhất thiết thiện”. Có thể nói hai câu sau cùng chính là chú giải cho hai câu ở phía trước. Điểm khác nhau giữa chư Phật Bồ-tát với hết thảy phàm phu chính là: phàm phu thì tu thiện nhưng chấp tướng, cho nên quả báo có hạn, tuyệt đối không ngoài những gì họ chấp trước.
Chín pháp giới gọi là chúng sanh, chúng sanh trong chín pháp giới đều phân biệt, chấp trước nên có quả báo rộng hẹp, sâu cạn khác nhau. Chấp trước là tổn thất rất lớn, nếu chấp trước quá sâu thì phước báo sẽ càng nhỏ. Cho dù có tu điều thiện lớn đến đâu, phước có được cũng đều rất nhỏ. Vì sao vậy? Vì sự phân biệt chấp trước của bạn đã vẽ thành một cái vòng (giới hạn) rồi, bạn không thể ra khỏi cái vòng (giới hạn) đó. Từ chín pháp giới hướng lên trên nữa thì ý niệm phân biệt chấp trước càng nhạt bớt, cho nên tâm lượng càng mở rộng thì phước báo do tu thiện có được càng lớn hơn, hoàn toàn tỉ lệ với mức độ chân thành của tâm lượng. Trên quả địa Như Lai, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều xả được sạch sẽ, cho nên việc thiện dù nhỏ đến đâu thì phước báo đều viên mãn tận hư không, khắp pháp giới. Phật đã dạy chúng ta như vậy, đây chính là chân tướng sự thật. Chúng ta vì sao lại không chịu học mà vẫn còn chi li chấp trước, niệm niệm không chịu buông xuống vậy? Không những buông xuống danh lợi, buông xuống ái dục, buông xuống sở thích, mà chúng ta thường nghe trong nhà Phật nói: “Buông xuống hết thảy thân tâm thế giới”.
Buông xuống không phải là không làm việc gì, sau khi buông xuống thì vì hết thảy chúng sanh mà phục vụ, tu hết thảy thiện, lợi ích tất cả chúng sanh, lợi ích còn phải chú ý đến nhiêu ích nữa, dùng cách nói hiện nay là lợi ích lớn nhất, lợi ích viên mãn nhất, lợi ích rốt ráo nhất thì mới gọi là nhiêu ích. Khởi tâm động niệm, tất cả hành vi việc làm đều vì quảng đại chúng sanh, vì hết thảy chúng sanh, tuyệt đối không có một niệm vì lợi ích bản thân. Vì chính mình, tức là chưa thể buông xuống bản thân. Đây chính là điểm khác biệt giữa Phật và chúng sanh.
Chúng ta phát tâm học Phật, muốn làm Phật, muốn làm Phật thì phải phá được bốn tướng. Bốn tướng đó là: ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, chính là “thân tâm thế giới” mà Tổ sư đại đức thường nói đến. “Ngã tướng” là chỉ cho thân tâm của chính mình. Thân thể là do tứ đại hòa hợp, đây là ngã tướng. Khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, đây là ý thức đang tác quái, phàm phu đem nó làm thành tướng của tâm. Phật pháp nói đây là vọng tâm, không phải chân tâm. Đây là nói về thân tâm.
Bên ngoài thân tâm chính là thế giới. Trong thế giới, nhìn trong không gian thì thấy có tướng nhân, phàm những gì đối lập với chính mình thì là tướng nhân. Ngoài nhân tướng ra, còn có chúng sanh tướng, chúng sanh tướng bao gồm những thứ như là thực vật, khoáng vật, cho đến hiện tượng tự nhiên. Phàm những hiện tượng do các duyên hòa hợp mà sanh khởi đều gọi là chúng sanh tướng. Do đây có thể biết, nhân tướng là chúng sanh hữu tình trong y báo của chúng ta. Chúng sanh tướng là chúng sanh vô tình trong y báo của chúng ta, gọi là thực vật, khoáng vật, hiện tượng tự nhiên. Cái sau cùng là thọ giả tướng, nói về thời gian: quá khứ, hiện tại, vị lai. Hết thảy những thứ này đều từ trong vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà biến hiện ra, không phải là sự thật. Cho nên, Phật mới nói: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (Hết thảy những gì có hình tướng đều là hư vọng), cái “tướng” đó chính là bốn loại tướng này. Bốn loại tướng này bao gồm tất cả các hiện tượng trong hư không pháp giới. “Phàm sở hữu tướng” là chỉ hết thảy những điều này đều là hư vọng, không có cái nào là chân thật. Khi nào bạn có thể thấy được chân tướng sự thật thì đây là đại học vấn. Bạn buông xuống được bốn tướng này rồi, không còn chấp trước chúng nữa, đây là công phu chân thật. Từ nơi này mà sanh tâm, sanh tâm gì vậy? Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sanh, chính là làm tất cả việc thiện, đây là chân thiện, bên trong không hề có mảy may ác niệm tà niệm nào.
Cái gì gọi là tà? Trái ngược với chân tướng sự thật thì gọi là tà. Nói cách khác, bạn vẫn còn ý niệm về bốn tướng thì ý niệm này là tà niệm. Hành vi xuất phát từ tà niệm thì gọi là tạo ác, đây là việc ác. Sự việc này chỉ có Phật mới có thể nói ra được. Người thế gian, người cõi trời cho đến Thanh Văn, Bồ-tát ở trong thập pháp giới cũng không thể nói được. Vì sao vậy? Vì vẫn chưa xả hết bốn tướng. Tuy là chúng sanh trong Tứ Thánh pháp giới đã buông xả rất nhiều so với chúng ta, nhưng vẫn chưa rốt ráo, chưa triệt để. Kinh Phật thường nói: “Mặc dù hết chấp Ngã, nhưng chấp Pháp vẫn còn”, đây chính là chưa triệt để buông xuống. Dùng cách nói hiện nay đó là không còn chấp trước nữa, đã hoàn toàn buông xuống nhưng vẫn còn phân biệt, chưa đoạn hết vọng tưởng, cho nên vẫn ở trong phạm vi của mười pháp giới. Những việc thiện mà họ tu được tuyệt đối không thể giúp họ ra khỏi mười pháp giới. Hết thảy những việc thiện mà phàm phu trong lục đạo tu được cũng không thể giúp họ thoát khỏi lục đạo.
Trong lục đạo còn có Tam Giới (ba cõi trời), chúng ta phải ghi nhớ, nếu như không đoạn dục, dục đây là dục vọng, ý niệm tham đối với danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần, nếu vẫn chưa đoạn tâm này thì không ra khỏi Dục giới. Tất cả thiện pháp mà chúng ta tu được sẽ hưởng ở đâu? Ở trong Dục giới. Nếu có thể đoạn dứt ái dục và thị dục, tu hết thảy điều thiện, nhưng vẫn chấp tướng như cũ thì quả báo có thể sẽ hưởng tại cõi trời Sắc giới hoặc Vô Sắc giới, không thể thoát khỏi tam giới, không thể thoát khỏi luân hồi. Điều này đã nói rất rõ ràng, bạn có tu thiện lớn đến đâu thì phước của bạn vẫn bị giới hạn. Những đồng tu học Phật cần phải hiểu rõ những đạo lý này, phải ghi nhớ lời dạy của Phật, phải chăm chỉ nỗ lực tu học.
Đại Thừa xác thực là Pháp môn phương tiện, người xưa nói thật không sai: “Từ bi là gốc, phương tiện là cửa”. Không giống như Tiểu Thừa, Tiểu Thừa thì nhất định phải phá được Ngã chấp của chính mình, thật không dễ dàng, vô cùng khó khăn. Phương pháp của Đại Thừa rất xảo diệu, đem ý niệm chuyển trở lại, thay đổi ý niệm. Lúc mê thì niệm niệm nghĩ cho mình. Sau khi giác ngộ rồi thì niệm niệm đều vì chúng sanh, còn chính mình thì không có thân, cũng không có mạng. Thân đó là ai? Thân là hết thảy chúng sanh, mạng cũng là hết thảy chúng sanh, chỉ có ý niệm này thôi: vì tất cả chúng sanh phục vụ.
Trong khi phục vụ, điều quan trọng nhất là giúp đỡ chúng sanh giác ngộ. Chúng ta thấy trong kinh Bát Nhã, thật ra kinh Đại Thừa nào cũng vậy, không có ngoại lệ, chẳng qua là trên kinh Bát Nhã giảng rất rõ ràng. Khi Phật Thích-ca Mâu-ni còn tại thế, bạn thấy cuộc sống của Ngài, từ việc mặc áo, ăn cơm, từng li từng tí đều là giúp hết thảy chúng sanh giác ngộ. Mọi người đều rất quen thuộc kinh Kim Cang. Phật mỗi ngày đắp y trì bát, đi vào thành Xá-vệ khất thực, đây là gì vậy? Đây là Phật pháp viên mãn rốt ráo. Phàm phu chúng ta tâm ý qua loa nên không nhìn ra, tôn giả Tu-bồ-đề nhìn ra được, Ngài hiểu rõ. Ba đời mười phương chư Phật vì chúng sanh nói vô lượng Phật pháp đều thể hiện rõ, vô cùng viên mãn trong việc mặc áo ăn cơm. Đương nhiên, chỉ có người nhìn thấy được mới biết học, người đó mới học được. Chúng ta muốn học nhưng lại không nhìn ra thì đi đâu để học đây? Vậy chúng ta cần phải hỏi tôn giả Tu-bồ-đề rốt cuộc Ngài đã nhìn thấy được điều gì? Điều mà Tôn giả Tu-bồ-đề nhìn thấy chính là “vô trụ sanh tâm”, cho nên Ngài không ngừng tán thán: “Thế Tôn thật là hiếm có!”. “Sanh tâm” chính là cuộc sống thường ngày, giống như mọi người chúng ta vậy, không có gì khác. Chúng sanh khởi tâm đều có chỗ trụ. Trụ vào cái gì? Trụ vào vọng tưởng, trụ vào phân biệt, trụ vào chấp trước mà còn trụ rất chắc nữa. Thích-ca Mâu-ni Phật biểu hiện cho chúng ta thấy sự “vô trụ” của Ngài, điều này thật hiếm có! Chúng ta thể hội từ đây thì sẽ học được, chúng ta sẽ biết nên sống cuộc sống như thế nào, nên làm người như thế nào, đây là đại viên mãn, đại tự tại, hạnh phúc chân thật.
Không có trí huệ viên mãn thì bạn không thể phân biệt được đúng sai, lợi hại, nếu bạn là người chấp pháp thì sẽ thưởng phạt không công bằng, sẽ tạo vô lượng vô biên tội nghiệp. Sau khi hiểu rõ thì bất luận công tác ở vị trí nào thì cũng là hành Bồ-tát đạo, đều là tu tích vô lượng vô biên công đức. Tôn giả Tu-bồ-đề sau khi nhìn thấy cũng sẽ khen ngợi là việc hiếm có. Ở đây nói về những người làm quan, đây là vị quan hiếm có, không khác gì với đức Thế Tôn, điều này chúng ta phải thể hội, phải học tập.