THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN GIẢNG GIẢI
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng từ ngày 11/05/1999 đến 20/04/2000
Giảng tại Singapore, Australia, Hồng Kông.
Tổng cộng 195 Tập (AMTB)
Chuyển ngữ: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
Mã AMTB: 19-012-0001 đến 19-012-0195
THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN – Tập 185/195 (123B – bộ 128 đĩa)
Các vị đồng học. Xin mời xem tiếp Cảm Ứng Thiên đoạn thứ 114:
“Hối lạp ca vũ. Sóc đán hiệu nộ. Đối bắc thế thóa cập nịch. Đối táo ngâm vịnh cập khốc.” (Ca múa vào cuối tháng, ngày lạp. Gào hét, giận dữ vào ngày đầu tháng hoặc sáng sớm. Quay về hướng Bắc hỉ mũi, khạc nhổ, tiểu tiện. Đối trước bếp lò ca hát, khóc lóc).
Từ đoạn 114 đến 118 là “bất kính thiên thần chi ác” (những điều xấu ác do bất kính với thiên thần), cả thảy từ đoạn 114 đến 117, đoạn 118 là tổng kết.
Người hiện nay khi nói đến thiên địa quỷ thần thì hầu hết mọi người đều không tin, đều cho rằng đây là mê tín, nhưng trên thực tế trong xã hội lại có rất nhiều hiện tượng mâu thuẫn. Bạn nói thiên địa quỷ thần không có mà dường như lại là có. Cũng như chuyện luân hồi chuyển thế, những sự việc kỳ lạ không thể nghĩ bàn, vượt hơn thường thức của người thế gian chúng ta luôn thường xuyên xảy ra. Chúng ta thường nhìn thấy được qua những tin tức trên báo chí. Vậy rốt cuộc là thật hay là giả? Là có tồn tại hay không tồn tại? Người đọc sách ngày xưa họ không đưa ra kết luận, họ vẫn nghi vấn. Sự việc này họ không làm sáng tỏ, nhưng lại tiếp tục không ngừng quan sát, nghiên cứu, không thể đưa ra kết luận nhất định. Thế nhưng hầu hết người hiện nay khẳng định đây là mê tín, là hư vọng. Những nhà khoa học chân thật, chúng ta thấy ở phương Tây có rất nhiều nhà khoa học lớn, đều là người tin sâu tôn giáo. Họ tin có Thượng Đế, tin có thần linh. Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập, đây là những đất nước lâu đời trên thế giới, có văn hóa lịch sử lâu đời, có thể nói là đã tích lũy kinh nghiệm mấy ngàn năm, học thuật mấy ngàn năm, họ nói với chúng ta những sự việc này thật sự là có. Cách nói của nhà khoa học hiện nay so với cách nói của cổ Thánh tiên Hiền đích thực là có chỗ không hẹn mà trùng nhau.
Nhà khoa học không gọi họ là quỷ thần, mà gọi họ là những sinh vật không đồng không gian duy thứ. Nhà khoa học đích thực đã chứng minh được không gian có nhiều tầng lớp. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ là người học khoa học. Lúc ở trường đại học Thiên Tân ông cũng là người dạy môn khoa học. Trong phần sau cùng của chú giải Kinh Vô Lượng Thọ, ông nói rõ: Nhà khoa học phương Tây đã chứng thực có 11 chiều không gian đang tồn tại. Chúng ta thường nói là không gian 3 chiều, không gian 4 chiều, không gian 5 chiều, cho đến không gian 11 chiều. Đây là việc mà các nhà khoa học đã xác thực chứng minh là tồn tại. Trên lý luận mà nói, không gian duy thứ là vô tận. Trên sự thật đã chứng minh là có 11 loại không gian khác nhau. Giống như chiếc ti-vi của chúng ta có 11 kênh truyền hình khác nhau. Kênh truyền hình khác nhau thì không thể nào biết lẫn nhau, đôi bên không thể nhìn thấy lẫn nhau. Đại khái những sinh vật sống ở không gian duy thứ cao hơn thì trí huệ của họ cao hơn, có thể biết được những không gian thấp hơn. Sinh vật ở không gian thấp hơn nhất định không thể biết những tầng cao hơn. Giống như thế giới động vật, rất nhiều loài sâu mọt cấp thấp như kiến hay vi sinh vật thì không gian mà chúng sống là không gian 2 chiều, những gì chúng cảm thấy được chỉ có độ dài và độ rộng, không có độ cao. Cho nên khi con kiến bò lên trần nhà của chúng ta, kỳ thực chúng ta cảm thấy vì sao nó lại ở trên đó, nhưng cảm giác của nó thì không như vậy. Nó không có cảm giác độ cao. Chúng ta có cảm giác độ cao vì là sinh vật không gian 3 chiều. Chúng ta có thể thấy nó nhưng nó thì không thể thấy chúng ta. Cho nên chúng ta có thể liên tưởng từ chỗ này, suy đoán từ đây mà ra. Những sinh vật ở không gian duy thứ cao hơn chúng ta thì cũng giống như chúng ta nhìn con kiến vậy. Họ có thể nhìn thấy chúng ta, còn chúng ta thì không cách nào phát giác được sự tồn tại của họ. Việc này tương ưng với những truyền thuyết cổ xưa nói về quỷ thần. Đều nói rất giống nhau, chỉ là danh từ không giống nhau. Sự thật thì đích thực là không khác nhau. Nếu dùng Phật pháp của chúng ta thì miễn cưỡng có thể nói được thông, thế nhưng việc này nếu các vị nghe được thì đây chỉ là miễn cưỡng. Nhà khoa học nói có 11 tầng không gian duy thứ khác nhau. Phật pháp chúng ta thì nói là thập pháp giới. Mỗi một pháp giới thì thời gian và không gian duy thứ đều không như nhau, nhưng cách nói này cần phải chứng minh, cần phải chứng thực. Các nhà khoa học có thực sự hiểu được sự tồn tại của mười pháp giới hay không? Trong Phật pháp đối với 10 pháp giới đã nói rất thấu triệt, nói rõ ràng việc này hơn bất kỳ tôn giáo nào.
Lúc trước khi tôi sống ở Đài Loan, gần nhà của Hàn Quán Trưởng có một ngôi giáo đường Thiên Chúa giáo. Vị cha xứ Thiên Chúa Giáo này cũng là một học giả, là ông Phương Hào. Ở Đài Loan có rất nhiều người biết ông. Ông là Viện trưởng của viện Văn học Chính Đại. Chúng tôi rất quen nhau. Ông mượn Đại Tạng Kinh của tôi để xem. Sau khi xem xong ông đến nói với tôi: “Trong kinh điển của Phật giáo ghi chép về thiên đường tường tận hơn trong Kinh Thánh của chúng tôi, giống như đã từng đi qua rồi vậy”. Tôi nói không sai, các vị chưa đi qua, chỉ nghe nói rồi ghi chép lại cho nên không rõ ràng tường tận. Còn chúng tôi bên đây đã từng đi qua rồi, vì vậy tình trạng đời sống ở trên cõi trời đều nói được rất rõ ràng. Đây là nói rõ thiên địa quỷ thần đích thực là tồn tại. Chúng ta phải tôn kính những chúng sanh trong những không gian duy thứ khác.
Những đoạn kinh văn này nói đến đều là việc bất kính của con người đối với thiên địa quỷ thần. Thiên địa quỷ thần là chúng sanh, không phải Phật Bồ-tát, họ cũng có hỉ nộ ai lạc. Hay nói cách khác, họ hoan hỷ thì họ sẽ tán thán bạn, họ không hoan hỷ thì họ sẽ tránh xa, không giúp đỡ bạn. Con người thường cầu thiên địa quỷ thần phù hộ giúp đỡ cũng là có điều kiện, không phải vô điều kiện. Vô điều kiện thì chỉ có Phật pháp Đại Thừa, chư Phật Bồ-tát giúp đỡ người là vô điều kiện. Nói cho các vị biết, thiên địa quỷ thần giúp đỡ người đều là có điều kiện cả. Vì sao vậy? Vì họ chưa lìa khỏi lục đạo. Chúng ta phải hiểu đạo lý này. Đoạn chú giải này hy vọng các vị dụng tâm xem qua. Chữ “hối” nghĩa là cuối mỗi một tháng. Chữ “lạp” nghĩa là cuối mỗi một năm. Ngày cuối cùng của mỗi tháng không có ánh sáng mặt trăng. “Lạp” là ngày cuối cùng của một năm, vào ngày này, trong chú giải nói đến Đạo giáo, chính là ngày Tư Mệnh Táo Quân tấu trình công và lỗi của người đời. Hiện nay sự việc này đều không còn nữa. Lúc tôi còn nhỏ, đây là tập tục của người Trung Quốc, bất luận là thành phố hay là thôn quê, mỗi một nhà đều có bếp lò. Vào thời đó bếp lò đều là dùng củi để đốt, nên mới có tiều phu lên núi đốn củi, vác xuống thành thị để bán. Chúng ta đọc Lục Tổ Đàn Kinh, Ngài Huệ Năng là một tiều phu đốn củi rồi đem xuống thành thị để bán. Tôi còn nhớ khi tôi 13-14 tuổi sống ở Phúc Kiến, sống tại Kiến Âu, trong thành phố này vẫn chưa có nước máy, nước cũng phải đi mua. Người ta gánh nước đi trên đường để bán, gánh củi cũng đi trên đường để bán. Vào thời đó bếp lò đều là dùng củi để nhóm. Về sau chúng tôi đến Đài Loan. Đài Loan tương đối tiến bộ, đều là dùng than viên, tiến bộ hơn so với dùng củi. Nơi bếp lò đều cúng một bàn thờ Táo Quân. Khi làm bếp lò đại khái là dùng một vài miếng gạch quây lại làm thành một cái am thờ nhỏ. Bên trong cúng dường Táo Thần. Chỗ thờ Táo Thần có đề một câu đối, câu đối này đều giống nhau. Đại khái bạn đi khắp nơi ở Trung Quốc đều dùng câu đối này: “Thượng Thiên tấu hảo sự, hạ địa bảo bình an” (Lên trời tâu việc tốt, xuống phàm hộ bình an). Cho nên người Trung Quốc ngày trước đối với Táo Thần rất là cung kính. Hiện nay những việc này không còn nữa. Cho nên có người hỏi tôi, hiện tại không cúng dường Táo Thần vậy Táo Thần còn hay không vậy? Sự việc này không phải nói bạn cúng dường thì Ngài mới có, bạn không cúng dường thì Ngài không có. Nếu theo cách nói như vậy thì mọi việc dễ dàng rồi. Chúng ta không cần cúng dường thiên địa quỷ thần, không phải là hết thảy họ đều không có rồi hay sao, không cúng dường thì vẫn có, không phải là không có. Xem những kinh sách của nhà Đạo, xem những truyền thuyết cổ của người xưa, cửa thì có thần cửa. Nghĩa là trong hoàn cảnh đời sống của con người, nếu tính sơ qua những vị thần này thì còn nhiều hơn nhân khẩu trong nhà chúng ta. Mọi người cùng sống chung với nhau, con người sống xen lẫn với quỷ thần, cảnh giới của mỗi người không như nhau nhưng không thể nói là không có liên quan. Đích thực là có mối quan hệ vi diệu ở bên trong. Do đó cổ Thánh tiên Hiền dạy chúng ta phải kính.
Chữ “Lạp”, trong tập tục nói là có 5 loại. Ở đây cũng có ghi chép: “Ngày mồng Một tháng Giêng gọi là Thiên Lạp, mồng Năm tháng Năm là Địa Lạp (tiết Đoan Ngọ), mồng Bảy tháng Bảy là Đạo Đức Lạp, mồng Một tháng Mười là Tuế Lạp (Dân Tuế Lạp), mồng Tám tháng Chạp là Hầu Vương (Vương Hầu) Lạp”. Đây là 5 ngày Lạp của người Trung Quốc. Cách nói này hiện nay rất ít người biết, cũng không ai nói. Tôi nghĩ ngoài những người chuyên đoán mệnh xem tướng xem phong thủy còn bàn nói đến, còn lại hầu hết trường hợp khác có lẽ không còn ai nói đến nữa rồi. Chúng ta hôm nay đọc đoạn này, thông suốt được đại ý của nó. Nhà Nho dạy chúng ta, các vị xem trong Lễ Ký, Lễ Ký Tinh Hoa Lục mọi người cũng đều có. Bạn xem thiên đầu tiên, hàng đầu tiên, câu đầu tiên: “Khúc lễ viết, vô bất kính”. (Khúc lễ nói không gì chẳng kính). Trong Phật pháp, Phật dạy chúng ta đối với việc, đối với người, đối với vật, thiên địa quỷ thần bao gồm cả vật ở trong đó, phạm vi của vật rất lớn. Trong “vật” thì bao gồm thập pháp giới. Trong “nhân” thì chỉ khái quát một pháp giới mà thôi, là cõi người. Đối với người, đối với việc, đối với vật đều phải cung kính. Đạo giáo dạy người cung kính thiên địa quỷ thần, mục đích là cầu cát tránh hung, mong cầu thiên địa quỷ thần giáng phúc phù hộ. Trong Phật pháp Đại Thừa thì dạy chúng ta cung kính với hết thảy. Ở trong Sám Nghi các vị cũng thường đọc thấy: “Nhất tâm đảnh lễ, nhất thiết cung kính”. Những ý này là từ đâu mà có? Là từ nguyện thứ nhất của Phổ Hiền thập nguyện: “Lễ kính Chư Phật”. Ý nghĩa mà Phật pháp nói rất sâu, rất thấu triệt. Hư không vạn tượng hết thảy chúng sanh đều là lưu lộ của tánh đức. Cung kính là sự mở rộng của tánh đức. Chúng ta học Phật mục tiêu chung cực là minh tâm kiến tánh. Bạn không chăm chỉ tu học từ chỗ này thì khó minh tâm kiến tánh. Phổ Hiền thập nguyện là phương pháp, là điều kiện tối căn bản của minh tâm kiến tánh. Đến giai đoạn Phổ Hiền này thì mục đích chính là kiến tánh thành Phật. Giai đoạn của Đại Thừa vẫn chỉ dừng ở địa vị Bồ-tát, mục tiêu vẫn chưa định ở Phật quả viên mãn. Hầu hết Đại Thừa mong cầu là quả vị đăng địa, chính là 11 quả địa của Bồ-tát. Quả vị là ở trong đây không phải nói đến Phật quả cứu cánh viên mãn, nhưng mục tiêu của Ngài Phổ Hiền là Phật quả cứu cánh viên mãn. Nói cách khác, là phải dùng tánh đức rốt ráo viên mãn thì mới có thể hiện rõ Phật quả cứu cánh viên mãn. Đạo lý là ở chỗ này.
Chữ “Sóc đán”. “Sóc” là ngày mùng Một. “Đán” là buổi sáng sớm, lúc mặt trời vừa mới lên. Đây là sự cung kính đối với nhật nguyệt tinh tú. “Bắc” là thượng phương. Chúng ta sống ở khu vực bắc bán cầu, thượng phương của bắc bán cầu là hướng Bắc. Thượng phương của nam bán cầu là hướng Nam. Đây là chúng ta nhìn thấy trục chuyển động chính của địa cầu. Vào những đêm tối trời trong bạn quan sát hiện tượng của những ngôi sao, tất cả những ngôi sao đều đang quay xung quanh, chỉ sao Bắc Cực là không xoay. Chỗ bất động đó gọi là thượng phương. Đối với phương này cần phải tôn kính. Chữ “thế thóa” ở trong kinh văn là nói những hành vi bất kính. “Táo”, Táo Thần là vị Tư Mệnh Thần Quân. Con người dựa vào việc ăn uống để sống, ăn uống là việc quan trọng nhất để giữ gìn mạng sống của con người. Đây chính là sự tôn kính đối với việc ăn uống, không thể nào suồng sã hỗn xược, không thể nào xem thường. Nuôi dưỡng đức tánh tôn kính của chính mình, có thể tôn kính thiên địa vạn vật. Đối với thiên địa vạn vật bạn đều có thể tôn kính thì đương nhiên đối với người bạn cũng sẽ cung kính. Cung kính đối với người thì đối với cha mẹ trưởng bối của bạn, bạn đương nhiên cũng phải tôn kính, bạn sẽ hiểu được nghĩa thú tông chỉ giáo học của cổ Thánh tiên Hiền. Việc dạy học này rất hay, không nên đem nó xem thành mê tín. Dù là mê tín thì hiệu quả của nó cũng vô cùng thù thắng, huống hồ là trí huệ kinh nghiệm và thường thức của chúng ta vẫn chưa đạt đến. Sau khi đạt đến thì mới hiểu được chân tướng sự thật. Những gì Thánh Hiền đã nói là có đạo lý, không phải là không có đạo lý. Đạo lý rất sâu, đạo lý rất rộng, chúng ta phải tỉ mỉ mà thể hội, mà thực hiện. Đối với sự tu trì của chính mình, cái chúng ta gọi là công phu đắc lực, tự nhiên sẽ có hiệu quả. Ngày nay chúng ta tu hành công phu không đắc lực, nguyên nhân là ở đâu? Cứ xem đây thì liền hiểu được. Cho nên tôi thường nói chúng ta đều là tùy thuận cảm tình, tùy thuận tình chấp, không thể tùy thuận giáo huấn của Phật Bồ-tát. Lỗi lầm của chúng ta là ở chỗ này.
Được rồi, hôm nay thời gian đã hết. Chúng tôi chỉ giảng đến đây thôi. A Di Đà Phật!