THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN GIẢNG GIẢI
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng từ ngày 11/05/1999 đến 20/04/2000
Giảng tại Singapore, Australia, Hồng Kông.
Tổng cộng 195 Tập (AMTB)
Chuyển ngữ: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
Mã AMTB: 19-012-0001 đến 19-012-0195
THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN – Tập 41/195 (19B – bộ 128 đĩa)
Các vị đồng học, hôm qua giảng đến hai chữ “trung hiếu”. Hai chữ này bất luận là ở trong văn hóa bản địa Trung Quốc hoặc là ở trong Phật pháp Đại Thừa, đều thuộc về môn học về tâm tánh. Trong sáu cách tạo chữ viết của Trung quốc (lục thư) thì hai chữ này đều thuộc về chữ hội ý. Cũng tức là nói, chúng ta nhìn thấy cái ký hiệu này, liền lĩnh hội được ý nghĩa mà nó biểu hiện.
Chữ “tâm”, cái ý của nó rất khó lĩnh hội, rất khó hiểu được. Trong Kinh Lăng Nghiêm, mọi người đã xem qua rồi, vừa mở đầu, Thế Tôn nhìn về A-nan hỏi ngài tâm ở đâu? Hoàn toàn không nói là chân tâm hay là vọng tâm. A-nan thông minh hơn chúng ta, đã nói ra được bảy chỗ, thế nhưng đều bị Thế Tôn bác bỏ. Đoạn văn này rất dài, cổ nhân phân đoạn đặt thành “thất xứ trưng tâm” (nêu tâm ở bảy nơi), cũng có người phân nó thành “thất phiên phá xứ” (bảy phen phá chỗ sai), đều có đạo lý của nó. Không những tìm không thấy được tâm mà cũng không có cách gì có thể nghĩ tưởng ra tâm. Cho nên trong kinh Phật thường dùng tám chữ để hình dung nó là: “Không thể nghĩ bàn, dứt hết mọi ý niệm”. Tám chữ này có thể nói được gần giống một chút.
Tâm mà nhà Nho, nhà Phật nói, đều là nói chân tâm, đều là nói bổn tánh. Chân tâm bổn tánh ở khắp mọi nơi. Trong Phật pháp thì nói tâm bao trùm cả hư không. Kinh Lăng Nghiêm đặc biệt nói được thấu triệt: Tất cả chúng sanh trong hư không pháp giới đều là từ tâm mà hiện ra. Cho nên tâm là năng hiện, tất cả chúng sanh trong hư không pháp giới là cái mà tâm hiện ra. Giống như chúng ta nằm mộng vậy, mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm về nằm mộng. Ở trong mộng có hư không, có pháp giới, có tất cả chúng sanh. Từ đâu mà có vậy? Người hiện nay nói từ trong tâm ý thức biến hiện ra cảnh mộng này. Không sai. Tâm ý thức là vọng tâm. Trong Phật pháp nói tâm thức biến hiện ra cảnh mộng, mà chúng ta gọi là hoàn cảnh hiện thực, hư không pháp giới trùng trùng chúng sanh hiện thực. Có mấy người biết vật là do chân tâm bổn tánh chúng ta biến hiện ra, việc này không ai nhận biết được.
Tâm không có tướng nhưng tâm có thể hiện tướng. Khi tâm khởi tác dụng thì có thể mặc tình biến hóa các cảnh tượng, cho nên nói là theo thức mà biến thành y báo, chánh báo trang nghiêm của mười pháp giới. Thức là gì? Thức là ý niệm. Ý niệm là tác dụng của tâm. Tâm khởi tác dụng thì gọi là niệm, chữ “niệm” này cũng là chữ hội ý. Trong văn tự Trung Quốc, chữ “niệm” (念) gồm chữ “tâm” (心) và chữ “kim – hiện nay” (今), có nghĩa là “tâm hiện nay’ của bạn, tâm của bạn hiện tại đang động. Cho nên Phật nói: “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh” (tất cả pháp từ tâm tưởng mà sanh ra). Tâm tưởng chính là niệm, là ý niệm.
Khi tâm khởi tác dụng, làm thế nào để cái tác dụng này thuần chánh? Thánh nhân thế xuất thế gian dụng tâm là thuần chánh, Phật Bồ-tát dụng tâm là thuần chánh. Thuần chánh chính là trung. Chữ tâm này nếu như không thêm bất kỳ ký hiệu nào thì biểu thị đó là tâm, thêm vào ký hiệu chính là biểu thị tác dụng của nó. Trung là chánh dụng, một chút lỗi lầm, sai lầm cũng không có, đây gọi là trung, chúng ta phải biết, cái ý nghĩa này sâu rộng vô hạn. Sách Đại Học của nhà Nho dạy người “thành ý, chánh tâm”. “Thành ý” là thể của tâm, “chánh tâm” chính là tác dụng của tâm, phải dùng cho chánh, chánh chính là trung. Phàm phu chúng ta hiện nay đâu có nhận biết được tâm! Thiền tông nói rất hay: “Nếu người biết được tâm, đại địa không tấc đất”, chư Phật Như Lai dạy người không có gì khác, chính là dạy người nhận biết được cái tâm mà thôi. Nhận biết được tâm thì bạn liền thành Phật. Từ đó cho thấy, ngoài chư Phật Bồ-tát ra, không có ai nhận biết được tâm. Thanh Văn, Duyên Giác chưa minh tâm kiến tánh. Hay nói cách khác, họ vẫn chưa nhận biết được tâm, huống hồ từ cấp độ đó trở xuống.
Tâm khởi tác dụng, chính là tư tưởng, là kiến giải. Những tư tưởng, kiến giải này sai rồi! Sai ở chỗ nào vậy? Nhà Phật nói là có vô minh đã làm chướng ngại mất rồi, phiền não đã khuấy nhiễu mất rồi. Phật nói như vậy, nhà Nho cũng nói như vậy. Cho nên Nho, Phật bàn đến tu hành đều là trước tiên phải đoạn phiền não, sau đó khai mở trí huệ. Trí huệ khai mở rồi thì bạn liền nhận biết được tâm. Cương mục của nhà Nho dạy người cũng là cách nói như vậy: “Cách vật, trí tri” (ngăn trừ cám dỗ của dục vọng thì mới có nhận thức đúng). Việc “cách vật” này (ngăn trừ cám dỗ của dục vọng) quan trọng biết bao!
Chúng ta ngày nay công phu tu học không đắc lực chính là vì không bắt tay làm từ chỗ này, không thật làm. “Vật” là gì? “Vật” là dục vọng, vật dục. Hết thảy chúng sanh tham luyến, chấp trước vật dục rất sâu. Quả báo của họ là đời đời kiếp kiếp tạo tác luân hồi, tạo tác ba đường ác. Cho nên tu hành nếu muốn thành tựu, bạn cần phải xả cho thật sạch sẽ ngũ dục lục trần thì bạn mới được cứu. Không những không được phép tham pháp thế gian mà cũng không được tham Phật pháp. Trong Kinh Kim Cang nói rất hay: “Pháp còn phải xả, huống hồ phi pháp”. Chúng ta thử nghĩ vì sao mình không thể thành tựu vậy? Vì sao vẫn tạo nghiệp địa ngục? Người học Phật tạo nghiệp địa ngục nhiều, tôi đã thấy quá nhiều.
Hiện tại tạo nghiệp địa ngục, tương lai nhất định bị quả báo ở địa ngục. Không biết được quả báo là đáng sợ nên họ mới dám tạo nghiệp, khởi tâm động niệm là tự tư tự lợi, là lừa gạt chúng sanh, lừa gạt Phật Bồ-tát, lừa mình dối người. Tâm họ dùng là tâm gì? Tâm như vậy làm sao có thể thành tựu? Dùng cái tâm như vậy làm một chút việc tốt thì cũng có một chút quả báo. Quả báo ở đâu vậy? Là đi hưởng thụ ở trong tam đồ lục đạo. Nếu làm không đầy đủ ngũ giới, thập thiện. Nói lời thành thật, người tu đầy đủ ngũ giới, thập thiện không nhiều. Thứ nhất là không thành thật, ở trong ngũ giới có không vọng ngữ, ở trong thập thiện cũng có không vọng ngữ, không ác khẩu, không lưỡng thiệt, không ỷ ngữ. Chúng ta tự thử nghĩ có phạm hay không? Nếu phạm rồi, trong Kinh Địa Tạng nói rất hay: “Địa ngục kéo lưỡi”. Bạn có thể trốn nổi không? Không cần nói bạn có cái hành vi này, mà khởi một ý niệm là đã tạo nghiệp rồi. Chúng ta ở trong phần trước đã học không ít, khởi tâm động niệm đều đang tạo nghiệp. Bản thân nếu còn muốn có được quả báo tốt thì đâu có cái chuyện này chứ.
Năm xưa khi tôi diễn giảng ở Houston, gặp được lão cư sĩ Thái. Con trai của lão cư sĩ là ông Thái Niệm Sinh, chúng tôi cùng nhau ăn cơm, bàn đến nguyên nhân tu học không thể thành tựu. Ông nói một câu rất hay, người công phu không thể thành tựu, nguyên nhân chính là không biết xấu hổ. Tôi nghe xong câu nói này có cảm tưởng rất sâu. Thật vậy, không biết xấu hổ. Nhà Nho nói: “Tri sỉ cận hồ dũng” (biết xấu hổ là gần với dũng). “Dũng” là tinh tấn, không giải đãi. Vì sao không thể tinh tấn vậy? Vì không biết xấu hổ. Chúng tôi hôm đó nói chuyện cũng rút ra một kết luận cụ thể, hy vọng chúng ta hãy thúc đẩy cuộc vận động biết xấu hổ. Chúng tôi có ý nghĩ lập ra những “học xã biết xấu hổ”. Người biết xấu hổ chính là nền tảng của Thánh Hiền thế xuất thế gian. Bồ-tát biết xấu hổ cho nên họ có thể thành tựu. Thanh Văn, Duyên Giác biết xấu hổ, cho nên họ có thể tinh tấn.
Sao gọi là biết xấu hổ? Không bằng người là điều xấu hổ. Phải lấy ai làm tiêu chuẩn? Lấy Phật Bồ-tát làm tiêu chuẩn. Chúng ta mọi thứ đều không bằng Phật Bồ-tát, chính là điều xấu hổ lớn của chúng ta. Học tập theo Phật Bồ-tát. Thân tâm Phật Bồ-tát thanh tịnh, tất cả các pháp thế xuất thế gian đều buông thật sạch sẽ. Họ có thể làm được, tại sao chúng ta không thể làm được? Vì sao chúng ta vẫn muốn tham đắm, vẫn muốn dốc sức mưu cầu. Vậy là sai rồi!
Phật pháp nói về việc dụng tâm đều khuyên người phát tâm Bồ-đề. Trong tâm Bồ-đề thì nói đến trực tâm, tâm chí thành, đó là “hiếu”. Chân thành đến cực điểm, đây là chân tâm, là bổn tánh, là thể của tâm Bồ-đề. Tâm tánh khởi tác dụng, có cái đối với bản thân, có cái đối với người khác. Tác dụng đối với bản thân là thâm tâm, thâm tâm là tâm tự lợi. Tác dụng đối với người khác là tâm đại bi, tâm đại từ bi, đây là lợi tha. Cho nên thâm tâm cùng với tâm đại bi là ý nghĩa của “trung”. Tâm của bạn khởi tác dụng đúng đắn này là thuần chánh, không tà. Thâm tâm là gì? Cổ đức giải thích là “hiếu đức, hiếu thiện”, cách nói này rất hay, cái tâm ưa đức mến thiện. Thế nào gọi là đức? Phần trước đã giảng. Giữ tâm là đức. Giữ cái tâm gì vậy? Chúng tôi quy nạp giáo huấn của Thánh Hiền thế xuất thế gian thành mười điều: “Chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”. Trong tâm thường giữ mười điều này chính là thâm tâm, đây là tự thọ dụng.
Các vị thật sự có thể thường giữ mười điều này thì tự nhiên khỏe mạnh trường thọ, tâm trạng vui vẻ, người thế gian gọi là hạnh phúc mỹ mãn, liền hiển hiện ra ngay. Sự lo nghĩ của bạn, phiền não của bạn, nghiệp tội của bạn có thể được tiêu trừ. Nếu làm trái ngược lại mười điều này là bạn tạo nghiệp, bạn không thể xa lìa phiền não, không thể xa lìa lo nghĩ, không thể xa lìa nghiệp ác. Tâm giữ được mười điều này chính là có đức. Trong phần văn trước có nói đến “tích đức”, mỗi niệm không quên mười điều này là tích đức. Còn tâm đại bi lợi tha là “lũy công”. Bạn thật sự tích đức, đức biểu hiện ở đâu vậy? Đức là biểu hiện ở trên hình tướng của bạn. Cổ nhân gọi là: “Thành ư trung nhi hình ư ngoại” (tâm chân thành tất sẽ thể hiện ra hình dáng”. Tướng mạo của bạn, thái độ của bạn biểu hiện hoàn toàn mười chữ này ra ngay trên vẻ mặt của bạn. Phật pháp nói: “Lục căn môn đầu, phóng quang động địa” (từ cửa sáu căn phóng hào quang chấn động cõi đất). “Phóng quang” là sao? Mười điều này là phóng quang. “Động địa” là làm cảm động người khác.
Tướng mạo của bạn, lời nói cử chỉ của bạn, biểu hiện ra một cách rất tự nhiên: “Nhìn thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên”. Tám chữ này chính là “phóng quang động địa”. Nếu lại thêm “niệm Phật”, thế thì càng không thể nghĩ bàn, như vậy mới đạt đến cứu cánh viên mãn. Mười điều này, tôi nghĩ mỗi đồng tu chúng ta đều nhớ rất rõ ràng, đều có thể nói được. Thế nhưng không để nó ở trong tâm, không để nó ở trong hành vi. Cho nên công phu của chúng ta vẫn không đắc lực như cũ, vẫn là đang tạo nghiệp lục đạo như xưa. Nói nghiệp lục đạo vẫn còn dễ nghe, trên thực tế là tạo nghiệp tam đồ, làm sao chịu thấu nổi đây?
Việc chúng ta học Phật trong mấy năm gần đây, hôm kia đại sứ Trần đã hỏi tôi cương lĩnh tu tập hiện nay là gì? Tôi liền nói với ông, chúng ta có tổng đề mục gồm tám chữ: “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm” (học để làm chuẩn mực cho người khác, hành động để noi gương cho đời). Mục đích của chúng ta là “tri ân báo ân”. Phải thực hành tri ân báo ân. Người học Phật chúng ta cứ nói ở ngoài cửa miệng “tri ân báo ân”, ngày ngày niệm: “Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ ba đường”. Thế nào gọi là bốn ân nặng thì không biết. Cha mẹ đối với chúng ta có ân gì, thầy cô đối với chúng ta có ân gì, quốc gia, xã hội đối với chúng ta có ân gì, tất cả chúng sanh đối với chúng ta có ân gì. Có được mấy người biết chứ? Không biết thì là đáng xấu hổ, biết mà không làm được cũng là đáng xấu hổ. Phải thật sự hiểu rõ nó.
Phật pháp dạy học có bốn bước là “tín giải hành chứng”. Vì sao bạn không làm được? Vì bạn hiểu chưa đủ thấu suốt. Nếu bạn hiểu thấu suốt thì bạn nhất định sẽ làm, không cần người khác cổ vũ, không cần người khác ép buộc mà tự động tự phát đi làm. Hiểu chưa đủ sâu, chưa đủ thấu suốt. Vì sao lại có hiện tượng này? Vẫn là một câu thường nói, không ham học, không chịu học, thế thì vô phương rồi. Ai có thể học được vậy? Người ham học sẽ học được. Năm xưa tôi ở Đài Trung, thân cận lão sư Lý. Lúc đó tôi còn là tại gia, vẫn chưa xuất gia. Tôi theo lão sư một năm ba tháng, sau đó đến Đài Bắc xuất gia. Lão sư Lý vào thời đó sống ở Đài Trung đã được mười năm, học trò mười mấy vạn người. Lão sư đã nói một câu rất cảm khái, ngài nói: “Nhiều người trong số các bạn đã theo tôi mười mấy năm rồi mà chưa học được gì. Người học được thì đã đi rồi”. Đồng tu Đài Trung chạy đến Đài Bắc để tìm tôi. Họ nói, thầy nói anh đã học được từ thầy. Anh học được cái gì vậy? Tôi nói, lão sư không hề đặc biệt dạy riêng cho tôi, khi lên lớp tôi chẳng phải học cùng với mọi người các anh sao? Đây là lời thành thật. Lão sư hoàn toàn không có đặc biệt dạy tôi. Vì sao tôi học được mà các anh không thể học được vậy? Tôi có tâm, các anh không có tâm. Tôi muốn học, chịu học, các anh thì tuy ngày ngày ngồi ở đó, nghe nhiều hơn tôi, có cơ hội nhiều hơn tôi, các anh nghe như gió thổi qua tai. Các anh nghe rồi không để ở trong tâm, cho nên không chịu học. Hằng ngày ở bên thầy, ở cả đời, nhưng vẫn là tạo tam đồ địa ngục, tạo nghiệp báo. Đó thật sự là đáng tiếc.
Hôm nay chúng ta nhìn thấy hai chữ “trung hiếu” thì cảm xúc của tôi thật vô cùng sâu sắc. Chú giải của đoạn văn này cũng nhiều, hơn 30 trang. Hy vọng các vị xem thật kỹ, xem rồi các vị tiếp tục nghe tôi giảng giải thêm. Quả thật chịu học, thích học, chăm chỉ học tập thì bạn nhất định sẽ có được thọ dụng, cái thọ dụng này không chỉ một đời, mà nhất định vãng sanh bất thoái thành Phật.
Được rồi, hôm nay thời gian đã hết, chúng tôi chỉ giảng đến đây thôi.
A Di Đà Phật!