THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN GIẢNG GIẢI
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng từ ngày 11/05/1999 đến 20/04/2000
Giảng tại Singapore, Australia, Hồng Kông.
Tổng cộng 195 Tập (AMTB)
Chuyển ngữ: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
Mã AMTB: 19-012-0001 đến 19-012-0195
THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN – Tập 105/195 (59B – bộ 128 đĩa)
Các vị đồng học, mời mời xem đoạn thứ bốn mươi bốn của Cảm Ứng Thiên:
“Cang cường bất nhân, ngận lệ tự dụng” (Ương bướng bất nhân, sử dụng những thủ đoạn độc ác, tàn nhẫn)
Trong chú giải nói với chúng ta: “ Khổng Tử chủ trương cương nghị là chú trọng nơi lý. Thái Thượng răn nhắc về “cang cường” (cứng cỏi, ương ngạnh) là nói đến sự dẫn khởi từ tánh khí “. Đây là chúng ta trước tiên phải phân biệt rõ ràng, nhất định không được hiểu sai ý này. Cũng như con người bị bệnh, bộ phận trên thân thể bị tê dại thì gọi là bất nhân. Khi tê dại thì không biết đau xót, cũng giống như người say. Đây là cách giải thích đơn giản. Như thế nào thì gọi là “cương cường bất nhân”? Phàm hễ là loại người cương cường bất nhân, cũng chính là nói hoàn toàn là dùng tính khí để làm việc, dùng tình cảm để làm việc, không nói đạo lý, tùy thuận hỉ nộ của chính mình mà đối nhân, tiếp vật. Nếu như không hợp với mình thì không những bài trừ, mà còn luôn luôn nghĩ kế hãm hại. Trong đây viết rất hay, Ngài nói: “ Vì thế, kẻ ưa ương bướng, hành sự thuận theo tình cảm xung động khi đãi người tiếp vật, sẽ chẳng có chút thông cảm nào, thuần là ý niệm cạn tàu ráo máng, thế tục gọi là “tấm lòng sắt đá”, làm sao có thể nhân từ cho được? “. Chúng ta bình lặng mà suy nghĩ, chúng ta có phạm phải lỗi lầm này hay không? Không phải không nghĩ hại người, mà là không có cơ hội hại người, không có quyền bính hại người. Nếu như chính mình đương quyền, chính mình có cơ hội thì không biết là sẽ hại bao nhiêu người tốt, không biết là chướng ngại bao nhiêu việc tốt. Tại vì sao chúng ta biết chính mình có? Phiền não tập khí của chính mình chưa đoạn, khởi tâm động niệm đều là tự tư tự lợi, luôn là nghĩ đến tổn người lợi mình. Chỉ cần có cái ý niệm này tồn tại thì bên trên Thái Thượng đã nói là “bội nghịch đại ác”, hết thảy bảy điều này đều đầy đủ. Mặc dù chúng ta không có quyền hành trong tay, không có cơ hội hãm hại người, thế nhưng có cái ý niệm này thì đáng sợ rồi.
Ý niệm thiện ác luôn luôn ngay cả chính mình đều không thể nào phát hiện ra, thế nhưng thiên địa quỷ thần thấy được rõ ràng, chư Phật Bồ-tát thì càng không cần phải nói. Cho nên, một niệm thiện khởi lên thì thiên thần ủng hộ, một niệm ác khởi lên thì yêu ma quỷ quái vây quanh bạn, làm trợ duyên cho bạn, thành tựu ác hạnh của bạn. Những chân tướng sự thật này quá nhiều quá nhiều, chỉ cần chú ý quán sát, đều thấy ở chung quanh chúng ta. Xã hội hiện đại này, thiện tri thức ít, ác tri thức nhiều. Thiện tri thức thành tựu việc tốt cho người, ác tri thức giúp người làm ác. Thế nhưng, người xưa nói: “Cương cường rồi cũng có ngày bị chiết phục”, đây là nói quả báo. Nếu như loại người cương cường bất nhân này bị qua mấy lần thua thiệt to lớn, nhận qua các thứ giày vò, sự ương ngạnh của họ dần dần hạ thấp, dần dần biết quay đầu, đó là may mắn ngay trong bất hạnh, có thể tránh khỏi đọa ba đường ác.
Ngay ở chỗ này nêu ra một thí dụ, Bao Công triều Tống, mọi người đều biết, Bao Công cương cường, thế nhưng ông hiểu lý (đây là Phu Tử đã nói). Ông phán xử các vụ án hình sự. Nếu như có người bẩm cáo với ông, thỉnh cầu với ông, ông luôn luôn là trách mắng ngay mặt, thế nhưng nếu có người nói đạo lý với ông, nói rất có đạo lý thì ông cũng hoan hỉ tiếp nhận. Ông không phải là người không nói lý. Ông là người không nói đến tình, mà là người rõ ràng đạo lý, cho nên mọi người bội phục đối với ông, tôn trọng đối với ông. Đây là một người cương cường rõ lý, cho nên ông có trí tuệ có thể phá án, đây gọi là “nhân giả chi dũng dã” (cái dũng của người nhân). Thế nhưng ngày nay, người rõ lý thì không nhiều, lý mà họ hiểu là tự mình cho là đúng thì đó là lý. Tại vì sao có thể rơi vào tình trạng này? Vẫn là một câu nói cũ, “lỗi là do không đọc sách Thánh Hiền”.
Sách Thánh Hiền thì rất nhiều. Sách nhà Nho, ít thì như Ngũ Kinh, Thập Tam Kinh, còn Kinh điển của nhà Phật chân thật là mênh mông như biển cả. Từ nhỏ không học, hiện tại muốn học thì không kịp nữa. Cho nên, sống ở thế gian, làm thế nào để chính mình có năng lực biết rõ phải quấy, biết rõ tà chánh, chân vọng, thiện ác, lợi hại. Chỉ cần bạn có năng lực phân biệt, đây là chân trí tuệ, đây chính là học vấn chân thật. Thế nhưng không đọc Kinh, không đọc sử thì trí tuệ của bạn từ đâu mà có? Đại Sư Ấn Quang từ bi, Đại Sư Ngài hiểu rõ, hiện tại khuyên người thế gian đọc Kinh, đọc sử thì không thể nào được, họ không làm được, cho nên Ngài đưa ra một phương thuốc cứu mạng, cứu vãn thế giới ngày nay. Ngài chọn ra ba quyển sách là Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, An Sĩ Toàn Thư. Ba quyển sách này có thể giúp chúng ta có được năng lực biện biệt tà chánh, phải quấy, lợi hại. Đại Sư cả đời cực lực đề xướng, đã lưu thông với số lượng lớn ba loại sách này, mục đích là cứu vãn kiếp nạn toàn thế giới trước mắt chúng ta. Có mấy người có thể hiểu được nỗi khổ tâm của Đại Sư chứ?
Vào năm 1977, lần thứ nhất tôi tiếp nhận lời mời của đồng tu Hong Kong đến nơi đó để giảng Kinh Lăng Nghiêm. Lần đó tôi đã ở Hong Kong bốn tháng. Hai tháng đầu tôi ở trong Thư viện Phật Giáo Trung Hoa, xem thấy thư viện có cất giữ những Kinh sách Hoằng Hóa Xã đã lưu thông của Đại Sư Ấn Quang. Tôi xem thấy từ trong tờ tác quyền, Đại Sư cả đời đem ba loại sách này ấn hành lưu thông không dưới ba triệu quyển. Ngay lúc đó tôi cảm thấy rất kinh ngạc, Đại Sư là Tổ Sư Tịnh Tông của nhà Phật, đối với Kinh luận Phật giáo vì sao không ra sức đề xướng, mà lại đem ba loại sách này in ra số lượng lớn đến như vậy? Tôi bình lặng tư duy, càng nghĩ càng có đạo lý. Kinh luận rất hay, nhưng không còn kịp, không cách gì cứu cấp kịp nữa, nhất là nhiều người không tin tưởng Phật giáo, tín đồ tin tưởng các tôn giáo khác trên thế giới thường có hoài nghi, có bài xích đối với Phật giáo. Ba loại sách này không phải Phật giáo nên có thể vượt qua lằn ranh của tôn giáo, khiến cho tất cả chúng sanh đều có thể tiếp nhận. Đây là phương tiện khéo léo, mục đích chính là cứu vãn chúng sanh lần đại kiếp nạn, thiên tai nhân họa ngay trước mắt này.
Làm sao đem sự việc này làm cho được tốt, làm có hiệu quả? Then chốt chính là có phương pháp hay không, để khiến tất cả chúng sanh tỉnh ngộ ra, không còn mê hoặc, không còn điên đảo, chính là vừa rồi đã nói, có năng lực phân biệt chân vọng, có năng lực phân biệt tà chánh, phân biệt phải quấy, phân biệt thiện ác, phân biệt lợi hại. Chỉ cần họ có được năng lực này thì kiếp nạn này liền được cứu. Ấn Tổ vào thời đại đó, với kỹ thuật in ấn vào lúc đó mà lưu thông được với số lượng lớn đến như vậy. Thế nhưng theo cách nhìn của người hiện tại, số lượng đó vẫn là quá ít. Nếu lấy Trung Quốc mà nói, hiện tại nhân khẩu có đến một tỉ ba, có thể sắp đến một tỉ tư, thì ba triệu quyển có thấm vào đâu, nhất là một số kinh sách này đều là lưu thông vào nửa thế kỷ về trước. Nửa sau thế kỷ này có thể lưu lại, còn có thể giữ lại, tôi thấy nhiều nhất chỉ có một phần mười. Cho nên, chúng ta hiểu rõ đạo lý này thì chúng ta phải tiếp tục làm, phải lưu thông số lượng lớn. Nửa thế kỷ trước, người có học còn có thể đọc Văn Ngôn Văn. Người hiện đại xem thấy những kinh sách mà Ấn Tổ lưu thông thì bị chướng ngại về mặt văn tự. Đây là hiện tượng rất đau lòng. Thế là chúng ta phải dùng văn nói để giảng giải. Hiện tại chúng ta lưu thông băng ghi hình, băng ghi âm, đĩa CD để mọi người có cơ hội nghe.
Trên hội Lăng Nghiêm, Bồ-tát Văn Thù nói rất hay: “Thử phương chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn”. Chúng sanh Thế giới Ta-bà nhĩ căn nhạy bén. Chúng ta ngày nay muốn cứu kiếp nạn này thì phải từ căn bản mà bắt tay vào. Căn bản chính là làm thế nào khiến tất cả chúng sanh hồi tâm chuyển ý, làm một cuộc đại chuyển biến ở trên tâm lý thì kiếp nạn mới có thể hóa trừ. Đạo lý này, Phật ở trên Kinh điển nói được rất thấu triệt. Trong Đại Kinh thường nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”. Câu nói này chính là trong Kinh Hoa Nghiêm đã nói “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Tất cả pháp “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Tâm tưởng sanh, tâm chính là năng hiện. Tưởng chính là thức, năng biến. Chúng ta thấy, điều mà hiện tại đại chúng xã hội nghĩ là gì, nhớ đến là gì, nói ra là gì, và họ làm những gì? Nếu như tất cả việc này đều là bất thiện, thì cảm ứng chính là thiên tai nhân họa. Nếu như cái nhớ, cái nghĩ, lời nói, việc làm đều là thiện, đó chính là Thế giới Cực Lạc, chính là Thế giới Hoa Tạng. Việc này cần phải dạy, cho nên chư Phật Bồ-tát thị hiện ở thế gian đều là dùng thân phận sư đạo để xuất hiện. Thích-ca Mâu-ni Phật, dùng lời hiện đại để nói, Ngài thị hiện ra là người làm công tác giáo dục xã hội đa nguyên văn hóa. Khổng Lão Phu Tử thị hiện ra cũng là thân phận này. Chỉ có thân phận này mới có thể cứu người, mới có thể cứu đời.
Chúng ta phải hiểu được, tâm thiện thì hiện hảo tướng, ý thiện thì biến ra cảnh giới tốt, hạnh thiện thì tự lợi lợi tha. Người có đầy đủ ba cái thiện này, tiền đồ là một mảng quang minh, cho dù hiện tiền chịu những khổ nạn, nhưng đó là việc nhỏ, nhân sanh có là bao? Thời gian rất là ngắn ngủi! Phật dạy chúng ta tu nhẫn nhục Ba-la-mật. Mấy mươi năm nóng lạnh này, mấy mươi năm giày vò này, ai giày vò chúng ta vậy? Một số chúng sanh ngu si, mê muội, điên đảo, họ không hiểu lý. Phật Bồ-tát dùng thiện tâm, tâm thuần thiện, hạnh thuần thiện đối với họ, họ còn muốn lăng nhục Phật Bồ-tát, còn muốn hãm hại Phật Bồ-tát, Phật Bồ-tát không hề thoái tâm, Phật Bồ-tát không hề cúi đầu bỏ đi. Đây là Phật Bồ-tát làm ra tấm gương cho chúng ta, làm mô phạm cho chúng ta. Chư Phật Bồ-tát mà còn như vậy, chúng ta có tính vào đâu? Chịu một chút dày vò, chịu một chút tổn hại, đây là việc quá bình thường. Thời gian mấy mươi năm này qua hết, chúng ta có chỗ tốt để đi. Cho nên, không nên bỏ rơi chúng sanh khổ nạn. Chúng sanh càng khổ, càng ngu si, càng ngu muội thì chúng ta càng phải thương xót họ, càng phải giúp đỡ họ. Không nên bởi vì tâm hạnh của họ bất thiện, không ác nào không làm mà bỏ rơi, không quan tâm đến, vậy đây không phải là người nhân từ, đây cũng là người bất hiếu. Người mà bất hiếu, bất kính, bất nhân, bất nghĩa thì làm sao có thể học Phật, làm sao có thể thành Phật? Cho nên, chúng ta cùng với người đời không thể nào cùng một tri kiến. Không luận họ dùng thái độ gì đối với chúng ta, chúng ta nhất định phải giữ lấy nguyên tắc, chúng ta phải dùng tâm chân thành đối đãi họ, dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm trí tuệ, tâm từ bi để đối đãi tất cả chúng sanh, đó là chúng ta hành Bồ-tát đạo. Phải tu nhẫn nhục Ba-la-mật, phải tu lục độ vạn hạnh thời gian dài để cảm hóa những chúng sanh này. Họ có Phật tánh, họ sẽ quay đầu, chỉ nhất thời mê hoặc mà thôi. Cho nên, chính mình phải phản tỉnh, chính mình phải hành đạo. Chỉ có chính mình không đọa lạc thì mới có thể cứu giúp chúng sanh khổ nạn.
Ý nghĩa của hai câu này vẫn chưa giảng xong. Hôm nay thời gian đã hết rồi, ngày mai chúng tôi giảng tiếp. A Di Đà Phật!