Thái Thượng Cảm Ứng Thiên – Tập 111/195

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN –  Tập 111/195 (64A – bộ 128 đĩa)

Các vị đồng tu, xin chào mọi người.

Xin mời mọi người xem đoạn thứ 48 của Cảm Ứng Thiên, quyển thứ ba của sách Vựng Biên. “Khinh miệt thiên dân, nhiễu loạn quốc chính.  (Khinh miệt quần chúng, làm rối loạn, quấy nhiễu quốc chính)

Đây là điều ác thứ tư của người làm quan. Trong phần chú giải nói rất hay “Sứ mệnh của trời, chính là ở lòng dân, phàm là người dân thì đều là con của trời, nên gọi là con trời, trời rất thương yêu dân chúng vậy”.

Những câu nói này chúng ta phải thường xuyên đọc tụng, thường xuyên để ở trong tâm. Trong Phật pháp, mối quan hệ giữa chúng ta với hết thảy chúng sanh được nói thấu triệt hơn. Đạo lý này, người xưa hiểu rất rõ ràng. Chúng ta thường nghe câu nói: “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”, ta và người là một, đều cùng một pháp thân. Nhà Phật gọi là pháp thân, nghĩa là cùng một thể với tất cả chúng sanh trong hư không pháp giới, người và ta đều là một thể. Nói cách khác, nếu chúng ta xem thường người khác tức là xem thường chính mình, tôn trọng người chính là tôn trọng mình, phải hiểu đạo lý này, đây là chân tướng sự thật.

Con người không thể không có sự tôn nghiêm, sự tôn nghiêm này kiến lập từ đâu? Tôn nghiêm chính là tôn trọng người khác, tôn nghiêm không phải là ngông cuồng tự đại, như vậy thì sai rồi. Tự cho mình là đúng, tự cao tự đại, khinh thường người khác thật ra là phá hoại nghiêm trọng sự tôn nghiêm của chính mình. Một người ở nơi nào cũng khiến người khác khiếp sợ thì người này coi như xong rồi. Nếu một người nơi nơi đều nhận được sự tôn kính của người khác thì người đó thành công rồi. Sự tôn kính từ đâu mà đến, tuyệt đối không phải có được từ việc ra oai tác quái mà có được từ sự chân thành tôn trọng người khác. Người xưa nói rằng: “Kính người thường được người kính”. Bạn không tôn kính người thì người làm sao tôn trọng bạn chứ? Nếu đắc tội với tất cả chúng sanh, cho dù là cố ý hay vô ý thì hậu hoạn vô cùng.

Những đạo lý này nói ra chúng ta đều có thể lý giải, cũng có thể tiếp nhận, nhưng trong cuộc sống, khi chúng ta đối nhân xử thế tiếp vật vẫn tái phạm lỗi cũ, nguyên nhân do đâu? Là do chưa hiểu thấu triệt, chưa đủ triệt để. Khi cảnh giới hiện tiền thì chính mình không xoay chuyển được. Cho nên, chúng ta phải rõ việc này, chúng ta cần phải học. Chúng ta hiện nay cầu học, chính là lời người xưa nói “mất bò mới lo làm chuồng”. Lúc nhỏ không được học, không có người dạy, đến tuổi thanh niên cũng không được học, hiện tại học đã quá muộn rồi nhưng không thể không học, nếu không học thì sẽ tạo nghiệp trùng trùng, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm thảy đều tạo nghiệp, như vậy làm sao được? Cho nên không thể không học.

Hôm nay tôi thực sự không sợ đắc tội với người khác, tuy tôi nói những lời hơi khó nghe nhưng lại hữu ích với mọi người. Năm xưa khi tôi cầu học, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam là thầy của tôi. Lúc tôi học với thầy, tôi chỉ mới 31-32 tuổi, thầy đã 71-72 rồi, thầy dạy chúng tôi thật ý tứ dè dặt. Thầy nhiều lần nói với tôi, dạy người chưa đến 20 tuổi thì có thể nghiêm khắc dạy dỗ, đối với người 20 tuổi trở lên thì không thể như vậy, người hơn 20 tuổi thì dạy bằng cách nào? Phải khuyên bảo một cách dè dặt, uyển chuyển, chỉ nói me mé mà thôi, để họ nghe rồi sẽ giác ngộ. Còn người 40 tuổi trở đi thì không dạy được nữa, họ có lỗi gì mình cũng không được nói ra, họ đã có tuổi rồi, không thể dạy được nữa. Cho nên, trước đây thầy dạy người thì dạy những người 20 tuổi trở xuống, còn đối với người 30-40 tuổi thì đều dùng cách ám chỉ gợi ý, tuyệt đối không nói thẳng ra. Hiện nay, đừng nói người 40 tuổi, đối với người 60-70 tuổi có ám chỉ gợi ý họ cũng không hiểu, phải làm thế nào? Đành phải nói thẳng, mà nói thẳng thì đắc tội với người ta, nhưng không nói thì không được, vì quá khứ họ không được học. Người khác ám chỉ gợi ý cho tôi thì tôi hiểu. Do đó có thể biết, bất luận là thế gian pháp hay Phật pháp, nói đến việc học là phải học từ nhỏ. Lúc còn trẻ mà thất học đến trung niên không gặp được thiện tri thức, sau 40 tuổi là tuổi xế chiều rồi, “người sống đến 70 xưa nay hiếm có”, có bao nhiêu người chưa đến 60 đã chết rồi. Nếu mọi người lưu ý một chút thì có thể hiểu rõ, mỗi ngày các bạn xem các cáo phó đăng trên báo, các bạn thấy những người qua đời là bao nhiêu tuổi, các bạn thống kê thì sẽ biết thôi. Cho nên 40 tuổi trở đi là đã già rồi.

Tuổi già cầu học thì nhất định phải tự động tự giác, chân thật giác ngộ hồi đầu, gặp được thiện tri thức thì người ta mới thấy được sự kiền thành cầu học của bạn. Ấn Tổ có nói “họ có một phần thành kính thì dạy họ một phần, có hai phần thành kính thì dạy họ hai phần”, lời nói, giáo hóa đều phải có chừng mực. Dạy học trong thế gian pháp và Phật pháp, nói đến cùng thì chính là sự chân thành, tâm yêu thương. Cho nên nhà Phật nói “từ bi là gốc, phương tiện là cửa”, đây là tâm từ bi hết sức chân thành, một tấm lòng từ bi, từ bi đối với hết thảy. Niệm niệm vì hết thảy chúng sanh, cái tâm này chính là tâm Bồ-đề, mỗi việc làm đều vì tất cả chúng sanh, đây chính là Bồ Tát hạnh, nhất định không được khinh thường một chúng sanh nào.

Nếu kết oán thù với một chúng sanh nào thì về sau rắc rối không bao giờ dứt. Tôi nghe Đỗ cư sĩ nói với tôi, em trai của ông xem thường quỷ thần, kết quả là bị quỷ thần đánh cho một trận, đánh đến bị thương phải vào bệnh viện. Tôi từ chỗ này mà tỉnh ngộ ra, kiếp nạn hiện nay trên thế gian vì sao lại nghiêm trọng như vậy? Là do chúng ta xem thường quỷ thần, lúc nào cũng nói việc này là mê tín, nhưng họ thật sự tồn tại. Khi vận khí của chúng ta còn thịnh, họ không dám đến gây rối, vận khí của chúng ta suy rồi thì họ liền đến. Cho nên, khi bạn đang ở lúc vận may thì quỷ thần cũng nhường bạn ba phần, cũng sẽ tránh né bạn. Nhưng khi bạn gặp vận xui rồi thì họ sẽ tìm đến gây rắc rối cho bạn. Việc này tôi đã nói với các bạn nhiều lần rồi, có đồng tu khuyên tôi nên công khai nói cho đại chúng biết, nhắc nhở mọi người. Đại địa chấn ở Đài Loan nhất định có liên quan mật thiết đến những oan quỷ này.

Tôi nhớ đến lão cư sĩ Chu Kính Trụ. Nhiều năm trước ông đã kể cho tôi nghe một câu chuyện. Lúc đó tôi vừa mới học Phật, năm đó tôi 26 tuổi, lúc đó lão cư sĩ đã gần 70 tuổi rồi. Ông nói với tôi, vào năm cuối thời vua Tuyên Thống (Phổ Nghi), ở vùng quê ông, ông là người Ôn Châu tỉnh Triết Giang, ông sống ở vùng quê. Một thôn gần quê ông, cách đó không xa có một thôn trang. Trong thôn đó có một người đọc sách thi đậu cử nhân, cuộc sống trong gia đình cũng tạm ổn, mặc dù ông đã thi đậu nhưng không ra làm quan. Ông rất hiếu thuận với cha mẹ. Vị cử nhân này một hôm ngủ trưa đã nằm mộng, mộng thấy có người dắt ngựa đến. Phương tiện giao thông thời đó thì đi ngựa là tốt nhất. Người đó gửi cho ông một thiếp mời, phía trên ghi tên của ông, đến gõ cửa nhà ông. Ông ra mở cửa, thấy có người cầm thiếp mời ông, ông hỏi: “Người nào mời tôi vậy?”. Người đó nói: “Đại tướng quân nhà tôi mời ngài đó”. Ông nói: “Tôi trước giờ không quen đại tướng quân nào? Tôi ở chốn trường thi chưa hề giao du với những vị võ tướng, quan văn quan võ tôi chưa từng tiếp xúc qua, chắc là ông gửi nhầm người rồi!”. “Nhưng mà trên thiếp có ghi tên”. “Tên thì đúng rồi, đúng là viết như vậy, nhưng có thể là cùng họ cùng tên cũng nên.” Người kia nói: “Cái đó không quan tâm, nếu đã đúng tên của ngài thì mời ngài lên ngựa”. Sau khi lên ngựa, ông cảm thấy con ngựa này không chạy trên đất mà hình như đang bay trên không. Không bao lâu sau thì tới nơi, ông nhìn thấy một cung điện đường hoàng tráng lệ, có rất nhiều người đang ở đó nói chuyện, ở đó bàn tán, ông liền đến nghe ngóng xem tướng quân đó là người nào, người ta nói với ông đó là Nhạc Phi. Ông liền nghĩ, nếu là Nhạc Phi vậy thì mình chẳng phải đã chết rồi sao? Nhạc Phi là người đời nhà Tống. Nhạc Phi đến tìm mình vậy là mình đã chết rồi, như vậy không được, mình trên còn có cha mẹ, dưới còn có vợ và các con, như vậy sao được chứ? Một lúc sau Nhạc Phi xuất hiện, triệu tập mọi người đến họp, mời vị cử nhân này làm thư ký, họ bàn về việc chinh phạt phương Bắc, đánh quân Kim. Khi ông nhìn thấy Nhạc Phi thì trong lòng nghĩ, sớm muộn gì mình cũng phải chết, nếu chết mà có thể làm việc cho Nhạc Phi thì cũng vinh dự, cho nên ông đã quyết định đồng ý đi theo vị anh hùng dân tộc này. Ông nói với Nhạc Phi: “Trong nhà tôi còn có cha mẹ, vợ và con nhỏ, tôi phải dặn dò họ”. Nhạc Phi đồng ý, nói: “Ta sẽ tiễn ông về, đợi đến ngày chúng ta xuất quân, ta sẽ cho người đến mời ông, trong khoảng 4 tháng nữa thôi, 4 tháng sau ta sẽ cho mời ông, ông hãy về nhà lo hậu sự đi”, rồi tiễn ông ấy trở về. Về rồi thì ông ấy tỉnh mộng, sau khi tỉnh mộng ông cảm thấy cảnh giới này quá rõ ràng, không giống như đang nằm mộng. Ông đã kể cho cha mẹ nghe về việc này, cha mẹ ông nói: “Việc này là nằm mộng thôi, sao có thể xem thành thật được chứ?”, nhưng bản thân ông không xem việc này là mộng, ông bắt đầu chuẩn bị tất cả những việc hậu sự trong nhà. Đến ngày ước hẹn, quả nhiên không sai, ông biết rất rõ, đến ngày ước định đó ông đều thông báo cho người thân bạn bè biết. Lão cư sĩ Chu Kính Trụ năm đó mới 15-16 tuổi, ông cũng đến xem cảnh náo nhiệt, ông nhìn thấy một người vẫn đang sống khỏe mạnh, vì sao mà chết vậy? Người đó cũng không bị bệnh. Ngày hôm đó, trong nhà ông ấy tụ tập đầy những người thân và bạn bè đến tiễn ông. Sau khi ăn cơm xong thì ông nói lời từ biệt với mọi người là ông sắp đi rồi, ông quay về phòng của mình, lúc đó cửa phòng mở, mọi người có thể nhìn thấy, ông nằm trên giường. Cha mẹ của ông ở bên giường rất đau lòng, không vui. Không lâu sau đó, ông nói: “Người đến đón con đã đến rồi! Họ đứng ở cửa”. Cha của ông mắng lớn, ông chỉ có một đứa con duy nhất mà lại bắt nó đi phục dịch, nên ông không cam tâm. Sau cùng ông đã khuyên cha của ông rằng: “Có thể đi theo Nhạc Phi cũng là điều vô cùng vinh hạnh”. Cha của ông đành cắn răng mà nói: “Được rồi! Vậy thì con đi đi!”, ông lập tức tắt thở, lúc đó mọi người đều tận mắt chứng kiến. Nửa năm sau đó, vào ngày 10 tháng 10, cách mạng Tân Hợi khởi nghĩa ở Vũ Xương thành công. Cho nên, lão cư sĩ nói, ở trên dương gian chưa bắt đầu có biến động mà quỷ ở dưới âm phủ đã đi đánh trận trước rồi, đã đi chinh phạt rồi. Câu chuyện này tuyệt đối không phải do lão cư sĩ Chu Kính Trụ sáng tác. Năm đó tôi mới học Phật, lão cư sĩ kể cho tôi nghe rất nhiều những câu chuyện này, thật sự việc này là có thật. Các bạn thấy đó, oán khí của Nhạc Phi hơn 1000 năm vẫn không tiêu được, ông vẫn làm quỷ vương trong cõi ngạ quỷ. Người học Phật chúng ta sau khi nghe xong thì biết ý niệm này của Nhạc Phi đã sai rồi. Nếu oán khí của ông tiêu trừ thì ông sẽ sanh thiên. Ông là người yêu dân yêu nước, tận trung báo quốc, công đức này nhất định sanh lên cõi trời, không đến nỗi đọa lạc vào quỷ thần đạo, chỉ vì ông không thể buông xuống được ý niệm [oán hận].

 Trong Phật pháp, chư vị thường đọc đến kinh Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, các vị thấy oan gia của quốc sư Ngộ Đạt, trong mấy trăm năm đã đầu thai mười lần rồi nhưng oan thân trái chủ vẫn thường xuyên ở đó đợi cơ hội, nhất quyết không bỏ qua. Cho nên, cổ đức dạy chúng ta “oan gia nên giải không nên kết”, việc kết oán thù, bất luận là vô tình hay cố ý đều rất dễ tạo thành oán kết. Nhưng để hóa giải những mối oán kết đó thì không dễ dàng, không đơn giản, oan oan tương báo không bao giờ ngừng dứt. Không thể đắc tội với người, cũng không thể đắc tội với quỷ thần, không những không thể đắc tội với quỷ thần mà chư vị đồng tu cũng không thể đắc tội với động vật, chúng đều là người đầu thai cả. Nếu bạn bắt nạt chúng, tâm báo thù của chúng, ý niệm báo thù của chúng vĩnh viễn tồn tại. Do đó trên đường Bồ-đề có rất nhiều ma chướng, ma chướng từ đâu mà đến? Đều là do chúng ta nhiều đời nhiều kiếp đã đắc tội với tất cả chúng sanh nên tạo thành ma chướng. Sau khi giác ngộ thì phải dùng tâm chân thành, tâm từ bi mà đối đãi tốt đẹp với tất cả chúng sanh. Bồ Tát Phổ Hiền dạy chúng ta lễ kính, xưng tán, cúng dường. Cúng dường chính là vì chúng sanh phục vụ, vô tư phục vụ, phục vụ vô điều kiện thì mới có thể khiến cho oan thân trái chủ nhiều đời nhiều kiếp nhìn thấy bạn mà bình tâm trở lại, tâm bình khí hòa thì sẽ không gây phiền phức cho bạn nữa, phải hiểu đạo lý này.