Thái Thượng Cảm Ứng Thiên – Tập 177/195


THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN –  Tập 177/195 (116A – bộ 128 đĩa)

Kính thưa các vị đồng học, xin chào mọi người. Xin mời xem Cảm Ứng Thiên đoạn thứ 107:

 “Mỗi háo căng khoa. Thường hành đố kỵ(Thường thích khoác lác, kiêu căng. Thường hay ganh tỵ). Trong chú giải dẫn dụng lời của cổ đức. “Lão Tử nói: Chẳng tự cho là đúng mà sự thật đúng sai được phơi bày rõ rệt. Chẳng tự cho là mình đã bỏ công tốn sức mà tự nhiên là có công lao. Chẳng tự kiêu căng tự đại mà sẽ được kẻ khác xem trọng”. Kinh Dịch chép: “Đạo trời khiến cho những gì quá tràn đầy sẽ bị hao hụt, để bù đắp cho sự khiêm tốn. Đạo đất khiến cho những gì viên mãn sẽ được chuyển sang chỗ khiêm hạ. Quỷ thần phá hoại sự kiêu căng tràn đầy hòng tạo phước cho người khiêm tốn”. Do khiêm tốn mà được mọi người tôn kính, thanh danh, phẩm đức tỏa rạng. Người giữ phận nhún nhường, không ai có thể vượt hơn được! Bậc quân tử luôn giữ trọn phẩm đức khiêm tốn, nhún nhường. Đại Vũ chẳng kiêu căng, chẳng kể công, luôn nói “hàng ngu phu ngu phụ ai nấy đều có một điểm tài năng tốt đẹp hơn ta”. Vua đục đẽo Long Môn, dẹp trừ Y Khuyết, đất đai được sửa sang tề chỉnh, ứng hợp theo lẽ trời, công lao phủ trùm muôn đời. Châu Công chẳng kiêu căng, chẳng tiếc tài năng, nhọc lòng khiêm hư tiếp đãi bậc hiền sĩ, búa mẻ Đông chinh, rốt cuộc giữ yên nhà Châu”. Đây là trích dẫn những sự tích từ cổ thư và của người xưa để chứng minh. Phía sau là kết luận. “Vì thế nói: “Bậc đại Thánh đại Hiền chân chánh luôn dè dặt, kiêng sợ như vào vực sâu, như đi trên băng mỏng, dốc trọn hết tinh thần để thực hiện”.

Đoạn này cũng là lỗi lầm thường hay phạm phải ở trong cuộc sống thường ngày. Bản thân chúng ta có phạm phải hay không? Không thể không có. Chỉ là có sự khác biệt ở trên mức độ mà thôi. Nếu chân thật có thể tiêu trừ những thói hư tật xấu thì đức hạnh của chính mình liền có nền tảng. Nếu trong tâm vẫn còn có sự bất bình thì chúng ta phải biết ở trên đức hạnh đã không còn gốc rồi, không có gốc rễ. Nói cách khác, bất luận là cầu học hay tu đạo thì đều có một chướng ngại nghiêm trọng. Tóm lại mà nói là chúng ta phải khiêm hư cung kính. Từ trong khiêm kính mới có thể chân thật có thành tựu.

Phía sau còn một đoạn nói đến “đố kỵ”. “Đố kỵ thì nam lẫn nữ đều có”. Đây là thường tình của con người. “Nam nhân nhìn thấy người khác có công danh thì đố kỵ, nhìn thấy người khác giàu sang cũng đố kỵ. Địa vị mà gần với mình thì tâm đố kỵ cũng sinh ra. Sợ người khác chen lấn mình. Tài năng cao hơn mình cũng đố kỵ”. Trong chú giải cũng có tổng kết rằng: Đều là do tâm lượng quá nhỏ, đều là do lòng dạ nông cạn, hẹp hòi mà ra. Chúng ta ngày nay nói là tâm lượng quá nhỏ, không thể bao dung người khác. Đây đều là do việc học chưa có căn bản, học mà không được thọ dụng. Nếu chân thật học vấn có nền tảng và thọ dụng thì sẽ giống như lời Phật nói: Không những không đố kị, không ngạo mạn; khiêm hư mà còn có thể tu tùy hỷ công đức. Nhìn thấy người có tài năng cao hơn mình thì nhất định có thể nhường lại cho người tài, không có chuyện đi cạnh tranh. Anh làm tốt hơn tôi thì tôi phải nhường cho anh, chức quyền địa vị đều nhường cho anh. Vì sao vậy? Như vậy thì nhân dân mới được phước, xã hội mới được phước. Có thể vì chúng sanh mà suy nghĩ, vì xã hội mà suy nghĩ, vì nhân dân mà suy nghĩ thì bạn sẽ nhường. Đạo lý này chúng ta phải hiểu. Đây là đức lớn, là đại thành tựu. Vì sao vậy? Thành tựu của người khác chính là thành tựu của chính mình. Bản thân ta không bằng người, nếu chức quyền địa vị này không chịu nhường cho người khác là đang hại chúng sanh. Các vị hãy nghĩ đến nhân quả, nhân quả chính là đọa địa ngục. Ta có thể nhường cho người khác, người khác làm tốt hơn ta, có thành tựu hơn ta thì đây chính là thành tựu của ta. Trong nhà Phật. Ấn Tông và Lục Tổ chính là một tấm gương rất tốt. Ấn Tông ở phương Nam là một cao Tăng đại Đức đương thời. Đồ chúng tín ngưỡng Ngài không biết bao nhiêu mà kể. Sau khi gặp được Lục Tổ, Ngài thế độ cho Lục Tổ. Ấn Tông là thầy thế độ cho Lục Tổ. Ngài biết Đại sư Lục Tổ Huệ Năng có đức hạnh và sự tu trì cao hơn mình. Sau khi thế độ xong, Ngài ngược lại còn bái Lục Tổ làm thầy. Đem địa vị nhường lại cho Lục Tổ để Đại sư Huệ Năng có thể giáo hóa hết thảy chúng sanh ở Phương Nam. Các vị hãy nghĩ xem, thành tựu đó rốt cuộc là thành tựu của Huệ Năng hay là thành tựu của Ấn Tông? Thực tại mà nói, từ trên hình thức là thành tựu của Đại sư Huệ Năng, nhưng từ trên thực chất mà nhìn thì là thành tựu của Ấn Tông. Thành tựu của Ấn Tông quyết không thể thấp hơn của Huệ Năng. Đây là một đức lớn, người thông thường không thể làm được. Không phải là người có đức hạnh chân thật thì làm không được. Trong thế pháp thì chúng ta xem vào thời xưa có Quản Trọng và Bào Thúc Nha. Thành tựu của Quản Trọng kỳ thực là thành tựu của Bào Thúc Nha. Đó là việc nhường thành tựu lại cho người Hiền, mà bản thân mình không phải tốn công sức, người khác làm thay mình, đây chân thật là thành tựu. Cho nên Phật dạy chúng ta tu “tùy hỷ công đức”. Tùy hỷ công đức chính là đối trị với những lỗi lầm ngạo mạn, đố kỵ. Trong xã hội hiện tại của chúng ta, bất luận là trong thế pháp hay Phật pháp, vẫn luôn khư khư giữ lấy chức vị của mình, đến chết cũng không nhường cho ai. Đây là lỗi lầm của tuyệt đại đa số.

Khi tôi mới bắt đầu học Phật, vừa mới bước ra giảng kinh, tôi ở trên giảng đài thường hay nói. Trước 40 tuổi là giai đoạn chúng ta chăm chỉ nỗ lực học tập. Từ 40 tuổi đến 60 tuổi là phải nên tu phước, vì Tăng đoàn mà ra sức phục vụ. Cũng chính là nói đảm nhiệm việc chấp sự trong Tăng đoàn, vì đại chúng mà phục vụ. Sau 60 tuổi thì phải tu huệ, phải nhường lại chức vụ của mình cho người khác. Lo cho đại sự sanh tử của chính mình. Nhiều nhất là giảng kinh dạy học mà thôi. Hết thảy những sự vụ hành chính hoàn toàn đều phải buông bỏ. Khiến cho nhân viên trong ban hành chính ban lãnh đạo luôn luôn được trẻ hóa. Vào thời xa xưa ở Trung Quốc, tuổi về hưu là 70. Trong các cổ thư chúng ta thường nhìn thấy “thất thập trí sĩ”. Thế nhưng đối với người tu đạo mà nói thì 70 tuổi là quá trễ, 60 tuổi thì nên nghỉ hưu rồi, toàn tâm toàn lực mà làm sự việc của chính mình. Có thể làm những việc truyền đạo, dạy học, giảng kinh. Tự mình tu hành cho tốt, phải vì đời sau mà suy nghĩ, nhất định không thể cứ ở trên chức vị của mình mà không chịu nhường cho ai. Việc không chịu nhường này, ý niệm này, hành vi này sẽ đọa vào tam ác đạo. Ngạn ngữ thường nói “trước cửa địa ngục có nhiều tăng đạo”.

Chúng ta phải nghĩ đến ý nghĩa trong từ “xuất gia” là gì? Buông bỏ tự tư tự lợi, buông bỏ danh văn lợi dưỡng, buông bỏ tham sân si mạn, đây gọi là xuất gia. Xuất gia rồi mà lại đi xây dựng đạo tràng. Chúng tôi ở bên cạnh bình lặng mà quan sát thì quả thật như một chuyện cười. Bạn ra khỏi cái nhà nhỏ, kết quả lại đi xây một cái nhà lớn hơn thì bạn làm sao có thể giải thoát? Tâm của bạn làm sao có thể thanh tịnh được? Nói cách khác, bạn làm sao có thể tương ưng với đạo? Cho nên trong thời đại trước mắt của chúng ta không những người chứng quả không có mà người khai ngộ cũng không có. Bởi vì người tu học như pháp không nhiều. Nguyên nhân là gì? Do bị cái “gia” này ghì chặt lại. Cho nên xuất gia nhưng thực tế lại không xuất gia. Tiếp nhận một số đồ tử đồ tôn thì cái nghiệp đó còn lớn hơn cái nghiệp của những người tại gia thông thường. Nếu bạn tại gia thì bạn chỉ có mấy đứa con, vài người thân và bạn bè. Xuất gia chưa được mấy năm thì gia nghiệp càng ngày càng lớn, càng ngày càng phải bận tâm. Đạo tràng hiện nay không giống với đạo tràng ngày xưa. Đạo tràng ngày xưa là đạo tràng mười phương, chân thật là tuyển chọn hiền tài. Chúng ta xem quy củ của người xưa, nhiệm kỳ chấp sự là một năm. Vào ngày 30 tháng Chạp, những người chủ trì chấp sự trong các tự viện, thường gọi là 108 đơn vị chấp sự, đồng loạt rời khỏi chức vụ, bắt đầu tuyển chọn lại. Cho nên trong nhà Phật dùng chế độ tuyển cử sớm nhất. Thật sự là dân chủ. Sau khi tuyển chọn xong, đến ngày mùng 1 năm mới thì bắt đầu chuyển giao. Nhiệm kỳ là một năm, không giống như hiện nay, hiện nay rất nhiều hình như là nhiệm kỳ cả một đời. Gọi là chùa của con cháu. Gia lớn thì là nghiệp cũng lớn. Cho nên thành phần xuất gia cũng phức tạp, có rất nhiều người vì sao lại đến xuất gia? Nhìn thấy cái gia nghiệp của bạn quá lớn, sau khi xuất gia mục đích là muốn được kế thừa tài sản này, là vì việc này mà đi xuất gia. Nếu vị lão Hòa Thượng này của bạn cái gì cũng không có, ngay cái chòi tranh cũng không có, e là sẽ không có ai chịu xuất gia với bạn rồi. Vì sao vậy? Vì xuất gia đi theo bạn là chịu khổ chịu nạn. Cho nên ngày nay chùa miếu xây càng lớn, càng xa hoa tráng lệ thì người theo bạn xuất gia càng nhiều. Bạn hãy suy nghĩ xem vì sao họ đến? Thế nhưng chúng tôi không nghe có ai hỏi họ vì sao họ lại muốn xuất gia? Chúng tôi ngày ngày đọc kinh, ngày ngày niệm Phật, đã có được chút giác ngộ này. Đây không phải là đại triệt đại ngộ, đây chỉ là một sự giác ngộ nho nhỏ mà thôi. Chúng tôi sâu sắc tin tưởng nhân quả báo ứng tơ hào chẳng sai.

Đạo tràng này của chúng ta đắc lực là nhờ có cư sĩ Lý Mộc Nguyên hộ trì. Ông thực sự đã buông bỏ cái “gia”, tất cả vì Phật pháp, tất cả vì chúng sanh, toàn tâm toàn lực mà phục vụ. Đây là việc mà phàm phu không làm được. Vì sao không làm được? Vì không buông được danh lợi, không buông được quyền vị, không buông được sự hưởng thụ ngũ dục lục trần. Trước mắt thì có được một chút danh văn lợi dưỡng, nhưng tương lai thì vấn đề sẽ rất lớn.

Một hơi thở ra mà không trở vào thì sẽ đi về đâu, có từng nghĩ qua hay chưa? Nếu có thể nghĩ đến sự việc này thì người này trong Phật pháp có thể nói là đã bắt đầu khai ngộ, bắt đầu giác rồi. Không giác thì là mê, vĩnh viễn là mê. Việc này có thể được sao? Nhân sinh rất ngắn ngủi. Trong kinh thường nói “mạng người trong hơi thở”. Khai thị này của Phật là nhắc nhở chúng ta có sự cảnh giác cao độ, để cho chúng ta phải quý tiếc mỗi một giây, một phút thì chúng ta mới có thể được độ. Nên buông xuống thì nhất định phải buông. Tự mình nhất định phải nhìn thấu “sanh không mang đến chết không mang đi”. Ta vì người khác mà làm, khổ cực mà làm, có đáng hay không? Thế Tôn năm xưa còn tại thế đã làm tấm gương cho chúng ta. Thế Tôn không xây một đạo tràng nào, cả đời Ngài trải qua đời sống vật chất ở mức thấp nhất. Ngày ăn một bữa, đêm ngủ dưới gốc cây. Những đệ tử đi theo Ngài, thân cận Ngài, những người đó chân thật là mộ đạo mà đến, nhất định không phải do tham hưởng thụ mà đến. Cũng giống như Thích-ca Mâu-ni Phật, cũng là ba y một bát, ngày ăn một bữa, đêm ngủ gốc cây, chân thật là mộ đạo mà đến. Giảng đường tịnh xá là do các cư sĩ xây dựng. Chúng ta phải có thể thể hội từ những chỗ này. Vào thời đó đệ tử tại gia của Thế Tôn có quốc vương, đại thần. Họ lễ thỉnh Phật đến giảng kinh thuyết pháp, cúng dường nơi ở. Là nơi ở của người khác, chính mình không có, chính mình thì một lòng lo cho đạo. Có người cúng dường, chúng ta có thể tiếp nhận, an tâm mà lo đạo. Như vậy chúng ta mới không phụ lòng những thí chủ cúng dường. Chúng ta đạo nghiệp không thể thành tựu, vậy thì mắc nợ thí chủ rồi. Thiếu nợ thì tương lai phải trả nợ. Cho nên cư sĩ Giang Vị Nông ở trong Kinh Kim Cang Giảng Nghĩa đã nêu ra: Người xuất gia nếu không thể khôi phục lại chế độ Thác Bát (ôm bát khất thực), chánh pháp nếu muốn trụ ở tại thế gian này thì sẽ vô cùng khó khăn. Ông đề xuất chế độ Thác Bát. Chúng tôi đọc giảng nghĩa của ông mà cảm động sâu sắc, không có ai đề xướng việc này. Năm xưa tôi ở Đài Loan, Pháp sư Tẩy Trần ở Hồng Kông đến thăm tôi. Đây là một vị Pháp sư thông minh tài cán và tràn đầy sinh lực. Tôi đã động viên ông, tôi nói Pháp sư có muốn làm người dẫn đầu hay không. Ông dẫn đầu còn chúng tôi sẽ đi theo, không cần nhiều, chúng ta tìm 5 người, 5 vị Tỳ-kheo. Hiện nay nếu ngủ dưới gốc cây thì sức khỏe chúng ta không được rồi, hiện tại chúng ta có thể trong lều. Các vị xem lều dã ngoại hiện nay họ làm rất bền chắc, chất lượng cũng rất tốt, rất gọn nhẹ, có thể xếp gọn lại thành một cái túi mang trên vai. Buổi tối dưới gốc cây chỉ cần mở lều ra là xong, rất là tốt. Tôi nói chúng ta sẽ áp dụng Thác Bát, Pháp sư dẫn đầu còn tôi sẽ theo Ngài. Ông nghe xong thì cũng gật đầu, “Được thôi!” Thế nhưng sau khi trở về Hồng Kông thì không còn tin tức gì nữa. Phải chân thật có người dẫn đầu để làm, đây là một việc tốt. Việc Thác Bát đừng nên sợ là không xin được cơm, tôi tin tưởng nếu chân thật phát tâm đi Thác Bát, nếu không có người cúng dường thì chư Phật Bồ-tát sẽ hóa thân đến cúng dường bạn. Tôi có lòng tin này. Phật pháp nếu thật sự muốn hưng vượng, chân thật có thể hưng khởi lên thì những lời này của cư sĩ Giang Vị Nông nói là có đạo lý.

Hãy kiềm chế sự ham muốn hưởng thụ. Nếu tham muốn danh lợi thì không những không thể hưng giáo, e rằng lỗi lầm còn khó tránh khỏi. Xuất gia và tại gia học Phật không như nhau. Tại gia học Phật thì vấn đề không lớn, xuất gia học Phật thì không dễ rồi, sẽ tương đối gian nan.