Thái Thượng Cảm Ứng Thiên – Tập 130/195

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN –  Tập 130/195 (74B – bộ 128 đĩa)

Các vị đồng học. Kinh văn phần trước của Cảm Ứng Thiên có  nói:

Xạ phi trục tẩu, phát trập kinh thê. Điền huyệt phúc sào, thương thai phá noãn (Săn bắt chim thú; Phá lỗ hang loài vật, làm kinh động chỗ chim đậu; Lấp lỗ hang và lật úp tổ chim; Phá thai hại trứng). Bốn câu này là nói tội ác sát sanh.

Thế gian có rất nhiều tôn giáo, những tôn giáo từ xa xưa trong lịch sử dường như không có tôn giáo nào không khuyên người giới sát (đừng giết hại). “Sát đạo dâm vọng” không những là giới điều căn bản của nhà Phật mà có thể nói là giới điều căn bản của hết thảy tôn giáo trên thế giới, trong đó không sát sanh đứng ở vị trí thứ nhất. Chúng ta nhất định phải tôn trọng cổ Thánh tiên Hiền thế xuất thế gian, tôn trọng đức hạnh, học vấn và công phu tu học của các Ngài, đó là những điều mà chúng ta không sánh kịp.

Trong tôn giáo cấp cao, không ai không tu thiền định. Chúng ta biết được trong định có cảnh giới, cũng giống như người bình thường nằm mộng, trong mộng có cảnh giới. Cảnh giới trong mộng là chủng tử tập khí trong A-lại-da thức khởi hiện hành, đó là hư huyễn không thật. Thế nhưng cảnh giới trong định và cảnh giới trong mộng hoàn toàn khác nhau. Trong định có thể nhìn thấy được quá khứ, thấy được tương lai, thấy được thế giới này của chúng ta, cũng thấy được thế giới khác.

Nhà Phật nói lục đạo luân hồi, thực ra lục đạo luân hồi là kiến giải chung của hầu hết tôn giáo thời Ấn Độ xưa. Họ làm thế nào phát hiện ra? Là ở trong thiền định mà nhìn thấy, không phải là một người thấy mà rất nhiều người thấy. Chúng ta có thể nhìn thấy hay không? Đáp án là khẳng định, chỉ cần các vị tu định, tu tâm thanh tịnh, không cần thời gian dài, nửa năm đến một năm thì các vị có thể nhìn thấy cõi ngạ quỷ.

Tôi trước đây xuất gia có một bạn đồng tu là pháp sư Minh  Diễn, ông là người bạn rất thân với tôi. Những năm đó ông học Mật tông với lão cư sĩ Khúc Lương Quang. Đại khái sau thời gian một năm, ông ấy nói với tôi, lúc ông ngồi thiền, lúc dụng công nhìn thấy cõi quỷ, tình trạng cuộc sống ở cõi quỷ cũng giống với cõi người vậy. Ông nói buổi chiều 5-6 giờ là trên đường có quỷ đi lại, lúc đó là buổi sáng ở cõi quỷ, số lượng không nhiều, đến sau 10 giờ đêm thì rất nhiều, rất náo nhiệt. Người và quỷ sống chung lẫn lộn, người không nhìn thấy quỷ, quỷ không nhìn thấy người, ông nhờ công phu tu trì này mà nhìn thấy. Lúc mới gặp cũng cảm thấy sợ hãi, sau này thì quen rồi, cũng thấy bình thường, đôi bên không làm phiền đến nhau nhưng cùng sống chung một chỗ. Khi đó ông sống ở một nơi, nơi đó có xây một tòa tháp, tháp vẫn chưa xây xong, chỉ mới được hai tầng, có lẽ là do thiếu hụt kinh phí nên đã đình công, ông sống trong cái tháp đó, tôi gọi nó là bán tháp. Tòa tháp đó có mấy con quỷ sống bên trong, họ cũng yên bình không có việc gì, đôi bên đều dụng công. Thế nên qua lại với quỷ cũng không khó, còn dễ dàng hơn những cõi khác nhiều, chỉ cần có một chút công phu định thì có thể đột phá cảnh giới này. Đó không phải là nằm mộng, nằm mộng không thể nào ngày ngày đều nằm mơ một chuyện giống nhau, công phu định của ông có thể nhìn thấy quỷ, ngày nào cũng nhìn thấy, đây là thật không phải giả.

Chúng ta biết được các lãnh đạo của mỗi tôn giáo, Đại đức giáo chủ đều có công phu tu định ở một mức độ nào đó, thế nên họ đối với tình trạng của lục đạo vô cùng hiểu rõ, cho đến tận cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ. Thế nhưng những người này chỉ hiểu được bề ngoài mà không hiểu được bản chất. Thế Tôn vì chúng ta xuất hiện mà giảng kinh thuyết pháp, nói rõ tất cả đạo lý bản chất cho chúng ta.

Tại sao có lục đạo? Lục đạo từ đâu mà có? Không những có lục đạo mà còn có mười pháp giới. Tứ Thánh pháp giới trong thập pháp giới, các tôn giáo khác ít nói tới, việc này phải có công phu định cao hơn [mới biết được], công phu định của thế gian đạt không tới. Công phu định của thế gian trong Phật pháp gọi là tứ thiền bát định. Nếu muốn đột phá lục đạo, hiểu được tình hình bên ngoài lục đạo, trong Kinh Lăng Nghiêm có nói, công phu định của các vị phải nâng cao hơn nữa, công phu định đạt đến tầng thứ chín thì mới siêu vượt lục đạo, mới có thể nhìn thấy pháp giới Tứ Thánh.

Năng lực này Phật nói rất hay, là bản năng vốn có của hết thảy chúng sanh chúng ta, không phải là đặc quyền của riêng Ngài, chỉ có Ngài mới nhìn thấy còn người khác thì không nhìn thấy, không phải như vậy. Phật nói mỗi một người đều có thể nhìn thấy, hiện nay các vị nhìn không thấy là do năng lực của các vị đã bị chướng ngại rồi, chướng ngại này chính là phiền não, tập khí, thị phi nhân ngã, tham sân si mạn. Các vị có những tập khí này thì bản năng của các vị bị chướng ngại rồi, đạo lý là ở chỗ này. Nếu như chúng ta buông bỏ được hết phiền não tập khí thì năng lực của chúng ta sẽ khôi phục, sẽ hiểu được tình hình của lục đạo, biết được quan hệ nhân quả trong lục đạo, mới hiểu được những giáo huấn mà cổ Thánh tiên Hiền dạy cho chúng ta, câu nào cũng đều là lời chân thật.

Sát sanh thì phải đền mạng, đời đời kiếp kiếp, oan oan tương báo bao giờ mới dứt. Phật nói với chúng ta, hết thảy chúng sanh đều có nghiệp duyên với nhau, duyên rất phức tạp chứ không hề đơn thuần. Phật đem nhân duyên phức tạp đó quy nạp thành bốn loại lớn: thân nhân duyên, sở duyên duyên, vô gián duyên và tăng thượng duyên. Mỗi một điều trong đó đều là vô lượng vô biên. Trong kinh điển Phật nói rất rõ ràng, nói rất thấu triệt, quan hệ giữa người với người, quan hệ giữa người và hết thảy mọi vật đều không rời bốn cái duyên này, có duyên thì ắt sẽ gặp. Thế nhưng duyên có thiện duyên, có ác duyên, oan oan tương báo.

Người giác ngộ làm thế nào chuyển ác duyên thành thiện duyên, chuyển thiện duyên thành pháp duyên, việc này cần có trí huệ, không có trí huệ thì làm không được. Oán kết cần phải hóa giải, Thánh Hiền của hết thảy tôn giáo đều khuyên người rằng “oan gia nên giải không nên kết”. Cha con, anh em đều là duyên phận, khi gặp phải duyên phận thì lúc này cả nhà đoàn tụ, cho dù đời này không gặp được thì còn có đời sau, hoặc là đời sau nữa, “khi nhân duyên hội tụ, quả báo vẫn tự mình nhận lấy”.

Hiện tại chúng ta nhìn xã hội này xem, thường xuyên nghe thấy con cái bất hiếu, anh em bất hòa, đây là duyên gì? Đương nhiên là duyên bất thiện, làm thế nào chuyển duyên bất thiện thành thiện? Đó là [thông qua] giáo dục, giáo hóa. Chúng ta nghe lời dạy của Thánh Hiền, trong lòng hiểu được rồi, giác ngộ rồi, cho dù trước đây có ác duyên, bình lặng mà nghĩ thì nên bỏ qua, buông xuống suy nghĩ báo thù, tiêu trừ ý nghĩ oán hận, như vậy mới có thể sanh khởi tâm từ bi lân mẫn. Dùng tâm từ bi đối xử với hết thảy chúng sanh, với hết thảy oan gia trái chủ thì chúng ta mới có thể siêu thoát, mới có thể không ngừng nâng cao tâm tánh của chính mình, đó là tự cầu đa phước.

Hôm nay tôi ở đây nhìn thấy tờ fax của cư sĩ Đồng Tiểu Anh ở Sơn Đầu Trung Quốc, nhà ông hiện tại gặp phải khó khăn, làm thế nào để giải quyết khó khăn? Phương pháp giải quyết khó khăn chân thật có hiệu quả là phải cầu Phật Bồ-tát. Khi tôi mới bắt đầu học Phật, Đại sư Chương Gia dạy tôi rằng “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng” (trong cửa Phật, có cầu liền có ứng), chúng ta phải thành tâm cầu nguyện, phải phát nguyện, tự nhiên sẽ có cảm ứng.

Phải phân biệt được cái gì là chân tâm, cái gì là vọng tâm. Cái tâm vì lợi ích hết thảy chúng sanh là chân tâm, cái tâm vì tự tư tự lợi là vọng tâm. Chúng ta học Phật nhiều năm như vậy, rốt cuộc phải hiểu rõ ràng, minh bạch việc này. Mọi người đều đọc Tứ hoằng thệ nguyện rất thuộc, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, chúng ta có chân thật suy nghĩ ý nghĩa của câu nói này hay không? “Chúng sanh vô biên” nhất định là không phân biệt chủng tộc, không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng, không phân biệt dân tộc, quốc gia, tất cả đều bình đẳng, hết thảy chúng sanh tận hư không khắp pháp giới đều bao gồm ở trong đó. “Độ” nghĩa là gì? Độ là vì chúng sanh phục vụ. Cho nên thật sự hiểu rõ rồi, chúng ta sống trong thế gian này, phải giống như chư Phật Bồ-tát, phải giống với Thánh Hiền xưa nay trong và ngoài nước, sống trên thế gian này là vì cái gì? Vì xã hội an định, vì thế giới hòa bình, vì hạnh phúc chúng sanh. Ước mong này phải thực hiện, chúng ta phải thực sự thật làm, vì nhân dân phục vụ, vì xã hội phục vụ, vì chúng sanh phục vụ, vì thế giới mà phục vụ; không có tư tâm, không có mong cầu, không có bất kỳ điều kiện gì, đó là Thánh nhân, đó là Hiền nhân, đó là những gì mà hết thảy tôn giáo đều công nhận.

Chúng ta dùng tâm nguyện như vậy mà cầu chư Phật Bồ-tát, cầu hết thảy Thần minh thì đều sẽ được giúp đỡ. Tuyệt đối không phải chúng ta phải tin tôn giáo này thì Thần mới giúp chúng ta, mới bảo hộ chúng ta, không tin tôn giáo này thì Thần không bảo hộ chúng ta, đó là quan niệm sai lầm của con người. Chúng ta hãy xem lại kinh điển của rất nhiều tôn giáo đều không có cách nói này. Người chân thật có thể quên mình vì người, người này có phước, không có nói nhất định phải tin vào tôn giáo thì mới được.

Tuy trong kinh điển có rất nhiều lời chỉ dạy đặc sắc, nhưng ngay cả Phật pháp cũng không thể tránh khỏi việc thời gian truyền thừa lâu năm, người sau sẽ thêm ý của chính mình vào, đó là chuyện không tránh khỏi, chúng ta phải có trí huệ, phải có thể nhìn ra được. Làm sao có thể nhìn ra được? Nếu là lời đại công vô tư thì đó là lời dạy của Thánh Hiền. Nếu như trong đó có một chút tư tâm thì có thể là do người đời sau thêm vào, đó không phải là lời của chư Phật Bồ-tát, không phải là giáo huấn của Thần minh, chúng ta có thể từ phương pháp này mà quan sát tỉ mỉ.

Cho nên chúng ta gặp phải khó khăn, cầu Phật, cầu Thần minh bảo hộ, cầu phải có phương pháp, chúng ta phải có cùng thiện tâm, cùng thiện nguyện, cùng thiện hạnh với chư Phật Bồ-tát, với thiên địa quỷ thần. Thiện tâm, thiện niệm, thiện hạnh của con người sẽ được chư Phật Bồ-tát gia trì, long thiên thiện thần bảo hộ. Hết thảy vì chúng sanh, không vì chính mình.

Trong gia đình nuôi dạy con cái, nếu như nói “nuôi con để phòng khi về già”, người xưa thường nói câu này, cũng là tư tâm, như vậy không có được sự bảo hộ của Phật Bồ-tát. Các vị nuôi dạy con cái là vì xã hội, phải dạy bảo chúng thật tốt, tương lai chúng trưởng thành sẽ vì xã hội mà phục vụ, vì chúng sanh mà tạo phước. Nếu các vị có tâm nguyện như vậy, có thể làm được một cách nghiêm túc có trách nhiệm thì đó là đại hiền nhân. Ấn Quang Đại sư trong Văn Sao nói rất nhiều về sự an nguy của thế gian. Ấn Tổ nói phụ nữ là người nắm giữ hơn phân nửa [sự an nguy của thế gian], nhưng người chân thật hiểu được lời này không nhiều. Tổ sư nói rất hay, “trong nhà có vợ hiền thì mới dạy ra được người thiện lương”, có mẹ hiền mới có con cháu hiếu thuận. Người chồng là bậc hiền năng thì sẽ có hiếu tử hiếu tôn, nhất định là tạo phước cho xã hội, cho chúng sanh. Những bậc đại Thánh đại Hiền, chư Phật Bồ-tát từ đâu mà có? Từ người mẹ dạy mà ra, cho nên vợ hiền mẹ hiền là báu vật của xã hội, là báu vật của quốc gia, báu vật của chúng sanh.

Lời nói này chúng ta ở trong nhà Phật nghe được, trong nhà Nho nghe được, trong các tôn giáo khác cũng có cách nói này, đó là câu mà người xưa thường nói “Anh hùng sở kiến, đại lược tương đồng” (kiến giải của các bậc anh hùng thường tương đồng). Có rất nhiều lãnh tụ tôn giáo chưa từng gặp mặt nhau, cũng chưa từng họp với nhau, xã hội trước đây thông tin không thuận tiện, kinh điển của các tôn giáo khác chúng ta cũng không dễ gì xem được. Hiện nay khoa học phát triển, thông tin phát triển, chúng ta có duyên tiếp xúc với rất nhiều tôn giáo, vừa nhìn thấy thì mọi người đều có kiến giải giống nhau, cách nghĩ giống nhau, cách nhìn nhận giống nhau, cách làm giống nhau. Chúng ta lúc này mới khẳng định, lời dạy bảo của đại Thánh đại Hiền xưa nay trong ngoài nước đều là chân thật. Chúng ta muốn cầu pháp thì phải tìm tòi, hiểu rõ, tin sâu không nghi ngờ, y giáo phụng hành, tự cầu đa phước. Như vậy mới có thể lợi ích cho xã hội, lợi ích cho chúng sanh, đạt được mục tiêu mang lại hạnh phúc cho xã hội, cho thế giới, cho chúng sanh.

Được rồi, hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng tới đây thôi. A Di Đà Phật!