Thái Thượng Cảm Ứng Thiên – Tập 73/195

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN –  Tập 73/195 (38B – bộ 128 đĩa)

Các vị đồng học. Hôm nay chúng ta xem Cảm Ứng Thiên, đoạn thứ 30:

Thọ nhục bất oán (chịu nhục không oán)

Đây là đoạn thứ ba mươi. Đoạn này là nói “không sân”, đoạn tham sân si.

“Nhục”, người Trung Quốc từ xưa đến nay rất là xem trọng, cổ nhân nói là “sĩ khả sát, bất khả nhục”. Thời xưa, cái mà người có học coi trọng là đạo nghĩa. “Sĩ”, cách nói hiện nay chính là phần tử tri thức. Thời xưa, người học sách Thánh Hiền dù bị chém đầu cũng chẳng sao, nhưng bị lăng nhục là không thể chấp nhận, họ xem việc bị lăng nhục là vô cùng nghiêm trọng. Phật pháp truyền vào Trung Quốc, Phật dạy Bồ-tát (dạy Bồ-tát chính là dạy học trò. Thuật ngữ của nhà Phật, Bồ-tát chính là học trò của Phật), dạy học trò tu dưỡng đức hạnh, có sáu điều cương lĩnh, trong Kinh điển gọi là Lục Độ, Lục Ba-la-mật. Ba-la-mật là tiếng Phạn, dịch thành tiếng Trung Quốc là “Độ”. Sáu cương lĩnh này chính là quy tắc chung của học trò. Bạn đã làm học trò của Phật thì nhất định phải tuân thủ sáu điều này. Sáu điều này là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, trong đây có điều nhẫn nhục này. Trên thực tế, ý Phật nói hoàn toàn không phải nhẫn nhục, ý Phật nói là nhẫn nại, “nhẫn” nghĩa là “nhẫn nại”. Đại đức dịch Kinh thấy tình hình nước Trung Quốc, tập quán người Trung Quốc xem nặng việc bị lăng nhục như vậy, liền thêm chữ “nhục” vào phía sau chữ “nhẫn”, cho nên dịch thành “nhẫn nhục”. Đây là chỉ chuyên nói với người Trung Quốc. Cách phiên dịch này phù hợp với tổng nguyên tắc dạy học của Thế Tôn, chính là ứng cơ thuyết pháp. Cách dịch này thích hợp với căn cơ của người Trung Quốc, cũng chính là nói, thích hợp với nguyện vọng của xã hội Trung Quốc. Dịch hay vô cùng! Nhục còn có thể nhẫn được thì có gì không thể nhẫn được? Không có việc gì không thể nhẫn được. Hơn nữa, “nhẫn” là điều kiện tất yếu để tu học thành công.

Trong Kinh Kim Cang Phật nói: “Tất cả pháp có thể thành tựu từ nhẫn”. Người xưa nói: “Không nhẫn được việc nhỏ thì hỏng việc lớn”. Từ đó cho thấy, pháp thế xuất thế gian thành tựu được lớn hay nhỏ hoàn toàn dựa vào công phu nhẫn nhục của bạn. Công phu nhẫn nhục của bạn lớn thì thành tựu của bạn sẽ lớn, công phu nhẫn nhục nhỏ thì thành tựu của bạn cũng nhỏ. Người không thể nhẫn nhục thì chẳng thể có thành tựu gì. Những sự thật này đều bày ngay trước mắt chúng ta. Các bạn chỉ cần bình tĩnh quan sát những nhân vật xung quanh chúng ta đây, những người nào là người có thành tựu và những người nào là người không thể thành tựu? Đều ở ngay trước mắt. Lời giáo huấn của Phật Bồ-tát, chúng ta đọc rồi, nghe rồi, tư duy tỉ mỉ, quan sát thật kỹ xem những nhân vật thành công hay thất bại xung quanh chúng ta. Thử xem trong lịch sử ghi chép những nhân vật thành bại đó, chúng ta sẽ chứng thực lời dạy của Phật Bồ-tát, lời dạy của cổ Thánh tiên Hiền là chân thật, có lợi ích lớn đối với chúng ta. Nhất là ở chỗ này dạy rất hay; “Thọ nhục bất oán” (oán là oán hận). Đây là đức hạnh chân thật. Người bình thường bị người khác lăng nhục, mặc dù họ nhẫn được, không tiến hành trả thù, nhưng ý niệm oán hận nhiều ít vẫn có. Loại ý niệm oán hận này là nguồn gốc, là nghiệp nhân của sự trả thù tương lai; đời này chưa trả thù, vì đọc sách Thánh Hiền nhẫn được rồi, lần sau gặp phải thì lại phát tác. Học Phật, quí vị đều có thể tin, con người quyết không phải chỉ có một đời, con người còn có đời sau. Con người nếu chỉ có một đời, đời sau không còn nữa, thế thì việc này dễ làm. Phiền phức chính là con người có đời sau.

Chúng tôi hoằng pháp ở Mỹ và Canada nhiều năm. Người nước ngoài đối với đời trước, đời sau họ đã tin rồi, đối với lục đạo luân hồi mà trong Kinh Phật nói, họ thừa nhận. Những người nào thừa nhận vậy? Tín đồ Cơ Đốc giáo, tín đồ Thiên Chúa giáo. Trước đây họ không tin có lục đạo, hiện nay thì họ tin. Tại sao tin vậy? Thông qua thôi miên ở mức độ sâu, họ tin rồi. Hiện nay ở nước ngoài, những vụ thôi miên này nhiều đến mấy chục vạn, sách mà họ xuất bản cũng khá phong phú. Thông qua thôi miên, người này nói ra đời trước của họ. Khi họ nói ra, có ghi chép lại, sau đó đi điều tra. Họ nói đời trước, phần lớn hầu như đều là việc của một vài trăm năm trước. Ở trong chính phủ của họ, những dữ liệu hồ sơ này vẫn được lưu trữ, quả nhiên điều tra ra được. Họ ở trong đời này, xưa nay chưa từng đi qua khu vực đó, hoàn toàn xa lạ đối với nơi này, hoàn toàn không biết, nhưng họ lại có thể nói ra tình trạng xã hội ở nơi đó của một vài trăm năm trước, nói được tên của họ là gì, họ sống ở nơi nào; khi hỏi tên đường, thành phố của họ ở, tiền tệ họ sử dụng, họ đều có thể nói ra chính xác. Trải qua điều tra xác minh, quả nhiên không sai. Hỏi họ tình trạng sống chết, khi họ chết tình trạng như thế nào, khi đầu thai ra đời tình trạng ra làm sao, họ đều nói rất rõ ràng, rất minh bạch. Những sách này, chúng ta có phiên dịch sang Trung văn, nhưng phiên dịch không nhiều, tôi đã từng thấy qua. Có người đời trước là súc sanh, là chim, là mãng xà, là động vật, vậy đã chứng minh từ cõi súc sanh chuyển đến thân người. Còn có một số người (số lượng cũng không quá nhiều), họ không phải là người trên trái đất chúng ta, đời trước họ ở tinh cầu khác. Từ chỗ này chứng minh có sinh vật cấp cao, quyết không phải chỉ có một tinh cầu như trái đất. Người ở trên tinh cầu khác, ngôn ngữ họ nói, chúng ta hoàn toàn không hiểu. Từ tinh cầu khác đầu thai đến trái đất chúng ta. Trải qua những thí nghiệm khoa học này, đã chứng thực con người có đời trước. Đã có đời trước thì đương nhiên chắc chắn sẽ có đời sau. Phật ở trong Kinh điển đã nói rất rõ ràng, rất minh bạch sự việc này rồi. Vũ trụ bắt nguồn từ đâu? Mạng sống bắt nguồn như thế nào, diễn biến ra sao? Rốt cuộc kết thúc như thế nào? Chỉ có ở trong Kinh điển Phật là nói thấu triệt. Chúng ta đọc rồi, có thể thật sự hiểu rõ hay không? Rất khó!

Phật pháp, nói thực ra, vô cùng phù hợp với tinh thần khoa học. Thậm chí là ngày nay, trong khoa học xảy ra rất nhiều sai lầm, nhưng ở trong Kinh Phật không có. Trong Kinh Phật, mỗi một câu nói, mỗi một sự việc mà Phật nói ra đều bảo chúng ta thông qua thực chứng, cho nên nhà Phật nói “tín, giải, hành, chứng”, cuối cùng bạn phải đem nó chứng thực. Nếu bạn chưa chứng thực mà bạn đã tin thì đây gọi là mê tín. Thông qua chứng thực “sự việc này quả thật đúng là như vậy”, niềm tin này mới gọi là chánh tín. Nhưng nếu bạn muốn nhìn thấy quá khứ, muốn nhìn thấy vị lai, bạn cần phải có năng lực đột phá không gian. Không gian quả thật có phạm vi, giống như có một bức tường vậy. Ngày nay nhà khoa học biết, đối với không gian, dần dần họ phát hiện không gian không phải chuyện đơn giản. Họ phát hiện không gian ba chiều, không gian bốn chiều, không gian năm chiều, hoặc là nói không gian ba độ, bốn độ, năm độ. Từ trên lý luận mà suy, không gian là vô hạn chiều. Nhưng hiện nay, nhà khoa học quả thật đã chứng thực có sự tồn tại của không gian mười một chiều. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ ở phần sau chú giải Kinh Vô Lượng Thọ có kèm bài báo cáo của họ. Đây là bài báo cáo nghiên cứu khoa học của người phương Tây, có điểm tương đồng với điều trong Kinh Phật nói, cho nên ông đính kèm nó vào phần sau của bản Kinh này. Khi chú giải Kinh, ông không có viết vào. Khi tôi đến Bắc Kinh, ông bỗng nhiên nghĩ đến sự việc này, ông còn có mấy bài viết nữa, đã giao cho tôi vào lúc đó. Tôi đem chúng in vào phần sau của bản Kinh này, cung cấp cho mọi người làm tham khảo. Không gian đã được phát hiện rồi, có loại tình hình này, nhưng rốt cuộc làm sao đột phá thì hiện nay vẫn chưa có kỹ thuật, vẫn chưa có năng lực này. Thế nhưng ở trong Kinh Phật, không gian đã được đột phá từ sớm. Phật dùng phương pháp gì? Dùng thiền định. Đạo lý này, tôi đã nói với quý vị rồi. Nhiều chiều không gian như thế từ đâu mà có? Người không học không biết. Phật nói cho chúng ta biết, thời gian không gian vốn dĩ không có.

Chúng ta học Bách Pháp Minh Môn Luận, tôi không biết các bạn có nghĩ đến những sự việc này hay không. Bách pháp chính là giải thích vũ trụ nhân sanh, nói rõ toàn bộ chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Bồ-tát Di Lặc rất tuyệt vời, đem những điều mà Phật đã nói ở trong Kinh luận tổng quy kết lại thành 360 pháp trong Du Già Sư Địa Luận. Du Già Sư Địa Luận là trước tác của Bồ-tát Di Lặc. Bồ-tát Thiên Thân đọc đến bộ sách này, nhìn thấy 360 pháp vẫn là quá nhiều, không tiện cho người mới học, cho nên Ngài đem 360 pháp quy nạp lại thành 100 pháp, tiện cho việc dạy học. Một trăm pháp này được phân thành năm loại lớn. Thứ nhất là Tâm Pháp, thứ hai là Tâm Sở Pháp, thứ ba là Sắc Pháp, thứ tư là Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp, thứ năm là Vô Vi Pháp. Năm loại lớn này chính là nói rõ toàn bộ vũ trụ nhân sinh. Cho nên, Ngài giải thích một câu của Thích-ca Mâu-ni Phật nói: “Hết thảy pháp đều vô ngã”. Tất cả pháp chính là quy nạp một trăm pháp này. Vô ngã chính là nói nhân vô ngã, pháp vô ngã. Bạn cần phải hiểu thấu triệt chân tướng sự thật, mới thật sự biết được tại sao gọi là vô ngã. Nói rõ ràng, nói thấu triệt, chiều của thời không ở trong “Bách Pháp” thuộc vào loại nào vậy? Ngài quy nạp, xếp vào trong “Bất Tương Ưng Hành Pháp”. Bất Tương Ưng Hành Pháp tổng cộng có 24 điều, trong đó có thời phân. Thời phân chính là nói thời gian. Phương phân là nói không gian. Thời phân với phương phân (thời gian với không gian) là giả, không phải thật.

Bất Tương Ưng Hành Pháp, dùng cách nói hiện nay để nói, chính là khái niệm trừu tượng, không phải sự thật. Khái niệm phát sinh từ đâu? Từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của tất cả chúng sanh vô lượng vô biên, cho nên biến thành vô lượng vô biên tầng không gian. Điều này chỉ có Phật mới có thể nói ra. Bạn đã biết nó hình thành như thế nào, vậy bạn mới có thể nghĩ cách đột phá nó. Làm sao đột phá? Bạn chỉ cần buông xả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì liền đột phá ngay. Cho nên khi người đang nhập định, ý chí của họ tập trung, họ không có vọng tưởng. Ý chí tập trung thì sẽ dần dần đột phá được, từ ba chiều nhìn thấy bốn chiều, từ bốn chiều nhìn thấy năm chiều, tùy theo định công của bạn sâu hay cạn mà mức độ đột phá của bạn lớn nhỏ khác nhau.

Nhà Phật nói đột phá thời không là có đạo lý, có căn cứ lý luận. Lý luận với sự thật hoàn toàn kết hợp thành một thể. Mọi người đều biết Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn (pháp là phương pháp, môn là con đường), phương pháp và con đường tuy nhiều, nhưng nguyên lý nguyên tắc của nó là một, đó chính là tu định. Cho nên quí vị đồng tu cần phải nhớ kỹ, tuyệt đối không phải chỉ có Thiền tông là tu thiền định, những pháp môn khác không phải tu thiền định. Chúng ta niệm Phật “nhất tâm bất loạn” chẳng phải là thiền định sao? Giáo hạ đề xướng “chỉ quán”, chỉ quán chính là thiền định. “Tam mật tương ưng” của Mật tông, tương ưng chính là thiền định. Cho nên chúng ta phải biết, tám vạn bốn ngàn pháp môn là dùng tám vạn bốn ngàn phương pháp khác nhau, thảy đều tu thiền định. Đây mới là điều mà trong Kinh nói “pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Phương pháp, cách thức mà bạn dùng không giống nhau, nhưng mục tiêu, phương hướng của bạn là một, thành tựu hoàn toàn như nhau. Phương pháp, cách thức khác nhau là bởi vì căn tánh mỗi người không như nhau, tập nhiễm khác nhau. Thuận theo căn tánh của mình tu học thì dễ dàng thành tựu, không thuận căn tánh của mình thì tu học sẽ khó khăn. Cho nên chúng ta nhất định phải hiểu rõ, Phật pháp mãi mãi là thuận theo căn tánh chúng sanh mà chỉ dạy. Loại phương pháp này là thuận theo tự nhiên, không thêm vào mảy may miễn cưỡng. Chúng ta hiện nay nói “miễn cưỡng”, trong Kinh Phật gọi là “ý”, không thêm mảy may ý nào. Cho nên nói, Phật không độ chúng sanh, Phật đối với tất cả chúng sanh không có mảy may miễn cưỡng, không có mảy may ý nào. Bạn nói, điều này tự tại biết bao!

Chúng ta ngày nay nói “chân thiện mỹ tuệ”, điều này chỉ có ở trong hành nghi đời sống một đời của Phật-đà, ở trong phương pháp dạy học mà Ngài sử dụng, chúng ta mới có thể thể hội được “chân thiện mỹ tuệ”. Trí tuệ cao độ mà người hiện nay nói, chúng ta quả thật không thể hội được, cũng không nhìn thấy, nhưng ở trong Kinh điển nhà Phật quả thật là thể hội nhìn thấy được trí tuệ cao độ. Đây là điểm mà chúng ta cần học tập.

Có thể thuận theo tự nhiên thì khỏe mạnh nhất. Bản thân thêm một chút ý, đây là gốc bệnh. Cho nên Phật nói tam độc “tham sân si”. Tam độc là gì vậy? Cách nói hiện nay là vi-rút. Trong tâm bạn đã có vi-rút nghiêm trọng, bên ngoài phong hàn cảm nhiễm, bạn sẽ dễ dàng bị bệnh. Ở bên trong không có tham sân si, ở bên trong bạn không có vi-rút thì những thứ này bên ngoài sẽ không có cách gì cảm nhiễm được. Lăng nhục là cảnh giới bên ngoài, bên trong nếu có sân hận, bên ngoài vừa bị một chút lăng nhục, thế là bạn lập tức liền phát tác. Cái phát tác này là bệnh phát tác rồi. Bệnh này không thể xem nhẹ, không thể xem thường. Tại sao vậy? Trong hữu ý hay vô ý đã kết oán thù sâu nặng với người, điều này chúng ta nhìn thấy rất nhiều trong lịch sử. Vô ý đắc tội với người, sau này người ta có sức mạnh trả thù thì chống đỡ không nổi, thậm chí là dẫn đến họa mất mạng. Vào thời xưa, họa diệt tộc, tai họa đều do không nhẫn việc nhỏ, vô ý đã đắc tội với người. Trong lịch sử, những ví dụ này rất nhiều. (Phần chú giải phía sau nêu rất nhiều ví dụ, tôi vẫn chưa xem kỹ).

Chúng ta ở trong đời sống thường ngày, nhất là đối với người ác, người tâm lượng nhỏ hẹp, nhất định đối với họ phải khiêm tốn, phải cung kính, không kết oán. Phật dạy chúng ta mười nguyện Phổ Hiền, trong đó nguyện thứ nhất là dạy chúng ta “lễ kính chư Phật”, nguyện thứ hai là “xưng tán Như Lai”, nguyện thứ ba là “quảng tu cúng dường”, nguyện thứ tư là “sám hối nghiệp chướng”. Chúng ta có thể làm được bốn câu mười sáu chữ này thì cả đời chúng ta thọ dụng không hết. Bất luận đối với người như thế nào đều phải khiêm tốn, đều phải cung kính, nhất định không được phép có hành vi ngạo mạn, không nên tự cho là đúng, không nên tự cho rằng mình tài giỏi. Bất kỳ vị Phật nào, vị Bồ-tát nào, thậm chí là vị A-la-hán, Tu-đà-hoàn nào, chúng ta đều không thể sánh bằng các Ngài, vậy thì có gì đáng kiêu ngạo chứ? Thường xuyên nhìn về Phật Bồ-tát thì tâm ngạo mạn của chúng ta sẽ không còn nữa, một cách tự nhiên sẽ trở nên khiêm tốn.

Khiêm tốn là thuộc về tánh đức. Phật dạy chúng ta, Khổng Lão Phu Tử cũng dạy chúng ta như vậy. Một bộ Lễ Ký, nội dung của nó chẳng qua là dạy chúng ta “hạ mình mà tôn người”. Đây là tinh thần nội dung của bộ Lễ Ký, dạy bản thân chúng ta đối nhân xử thế tiếp vật phải hạ mình, phải tôn kính người khác. Khổng Lão Phu Tử làm được rồi. Chúng ta thấy trong Luận Ngữ, Phu Tử tiếp kiến bất kỳ người nào cũng đều khiêm tốn. Trong Kinh Phật chúng ta nhìn thấy rồi, Thích-ca Mâu-ni Phật bất kể gặp người như thế nào, thái độ cũng là khiêm tốn. Đại Thánh đại Hiền thế xuất thế gian còn như thế thì chúng ta có gì đáng kiêu mạn chứ? Người vừa có ý nghĩ kiêu mạn này thì xong rồi.

Khổng Lão Phu Tử nhìn người, trong Luận Ngữ có một câu nói, đó là Phu Tử quan sát đối với con người. Ngài nói giả thiết, chưa chắc là thật có. Nói thực ra, Ngài cũng là dạy học trò, khích lệ học trò. Giả như có người mà đức hạnh và tài hoa của họ tốt đẹp như Chu Công. Người mà Khổng Phu Tử khâm phục nhất chính là Chu Công, ở trong ghi chép của Ngài tán thán về Chu Công rất nhiều. Chu Công thật sự tuyệt vời. Trong lịch sử Trung Quốc, ông là nhà chính trị vĩ đại nhất. Triều Chu lập quốc có thể 800 năm không suy là nhờ vào chế độ của Chu Công. Chu Công viết sách lưu truyền đến ngày nay chính là Chu Lễ. Chu Lễ là gì vậy? Dùng cách nói hiện nay để nói, đó là hiến pháp của triều Chu. Hiến pháp đó là do Ngài đặt ra. Khi tôi còn trẻ, ưa thích đọc sách. Tiên sinh Phương Đông Mỹ hỏi tôi: “Anh đã từng đọc qua Chu Lễ chưa?”. Tôi nói tôi chưa từng đọc qua. “Phải đọc”, thầy đã nói với tôi trước sau tổng cộng đến mười mấy lần, khuyên tôi đọc Chu Lễ. Nhưng tôi thích đọc Lễ Ký. Chu Lễ lật ra được một chút, Nghi Lễ lật ra một chút, không hứng thú lắm, cho nên tôi chưa đọc sách này. Thầy nói với tôi, đây là bộ hiến pháp tốt nhất của toàn thế giới. Nếu như con cháu đời sau của triều Chu thảy đều làm theo những điều này thì triều Chu vạn vạn năm cũng sẽ không thay đổi triều đại. Tiên sinh Phương đối với bộ sách này tán thán đến mức như vậy. Thế nhưng chúng tôi không có hứng thú đối với chính trị, chúng tôi vẫn tìm học Phật pháp. Sở dĩ chúng tôi biết đây là một bộ sách hay là nhờ sự giới thiệu của thầy.

Phu Tử rất mực tán thán về Chu Công. Ngài nói, giả như có người có đức hạnh và học vấn tốt đẹp như Chu Công, nhưng ngạo mạn lại keo kiệt thì những cái còn lại không cần xem xét nữa. Ngài nói, người mà có hai tật xấu là kiêu ngạo và keo kiệt thì không cần xét đến người này nữa, đó đều là giả, đều không phải thật. Bạn mới biết, kiêu mạn đối với đức hạnh của một người tổn hại lớn cỡ nào. Keo kiệt chính là phiền não tham. Kiêu ngạo chính là phiền não sân. Nho gia tuy không nói đây là tam độc, nhưng nhà Phật nói thấu triệt. Tam độc phiền não của bạn vẫn chưa đoạn thì đạo đức và học vấn của bạn đều là giả, không phải thật. Khổng Tử nói câu này, chúng ta từ chỗ này mà thể hội, ý nghĩa đã rất rõ ràng.

Làm sao để đoạn tham? Bố thí. Tôi học Phật, ngày đầu tiên gặp Đại sư Chương Gia, chính thầy đã đem điều này dạy cho tôi. Người thế gian tiếc tiền của, không chịu từ bỏ. Phật nói với chúng ta giàu có do đâu? Từ bố thí mà có, càng thí càng nhiều. Nếu bạn không chịu bố thí, tiền tài của bạn đến đây là hết rồi, chỉ có bao nhiêu đó. Bạn chịu bố thí thì tiền tài giống như dòng nước vậy, sống động, vĩnh viễn hưởng thụ không hết, vậy tại sao bạn không làm? Tham lam, keo kiệt đã làm tắt nghẽn [dòng nước] rồi. Tắt nghẽn kín rồi thì phía sau sẽ không vào được, cái bạn có chỉ có chừng đó, dùng hết rồi sẽ không còn nữa. Những đạo lý này chúng ta đều phải biết. Càng thí càng nhiều, mãi mãi dùng không hết. Đạo tràng cũng là như vậy. Các bạn thấy Cư Sĩ Lâm Singapore, điều này chính mắt các bạn nhìn thấy. Cư Sĩ Lâm một chút keo kiệt cũng không có, bố thí lớn. Hiện nay mỗi ngày cúng dường ba bữa, cung ứng thêm hai bữa điểm tâm, cúng dường vô điều kiện, bất kể bạn có tin Phật hay không, bạn mắng Phật, phỉ báng Phật, lăng nhục Phật, đến đây để ăn cơm, họ đều hoan nghênh bạn đến. Mỗi ngày bình quân một ngàn người đến ăn cơm. Thời gian pháp hội, hiện nay tổ chức Phật thất, mỗi ngày ba, bốn ngàn người ăn cơm, nhưng không hề đi mua gạo, không hề đi mua rau, cũng không hề đi mua dầu, cái gì cũng chưa từng đi mua, vĩnh viễn ăn không hết, càng ăn càng nhiều. Nhưng mà số rau, gạo này lại không thể để lâu, để lâu sẽ hư hết, cho nên mỗi ngày xe tải từng chiếc từng chiếc chở ra ngoài, tặng cho cô nhi viện, tặng cho viện dưỡng lão. Không những tặng cho Phật giáo, mà những tôn giáo khác lập viện dưỡng lão, cô nhi viện, chúng ta cũng đều tặng. Phật dạy rất rõ ràng, càng thí thì càng được nhiều. Bạn không chịu bố thí thì nguồn không đến. Lời của cổ nhân nói đúng, cổ nhân hiểu đạo lý, cổ nhân có những kinh nghiệm này. Cho nên, nếu chúng ta muốn đời sống vật chất một đời không thiếu thốn thì có thể làm được. Chỉ cần bạn chịu bố thí, bạn chắc chắn sẽ không bị thiếu thốn, vĩnh viễn thọ dụng không hết. Nhưng bạn càng có nhiều thì vật mà bạn thí xả phải càng nhiều, cho nên nhà Phật nói “xả đắc”.

Xả đắc có hai ý nghĩa. Ý nghĩa cạn là bạn xả thì bạn mới có thể thật sự có được. Ý nghĩa ở mức sâu hơn, cái mà bạn có được phải mau mau xả, bạn vĩnh viễn sẽ hưởng thụ không hết. Có được rồi mà không chịu xả, vậy phước báo của bạn chỉ có chừng đó, phước nhỏ mà thôi. Cho nên cái có được thảy đều xả, tuyệt đối không lưu giữ. Của cải như vậy, trí tuệ cũng như vậy, mọi thứ đều như vậy. Cho nên Phật dạy Bồ-tát học tập sáu cương lĩnh, đầu tiên chính là bố thí, thứ hai là trì giới.

Trì giới chính là tuân thủ pháp luật. Nhất định phải hiểu ý nghĩa. Nhất định tuân thủ pháp luật của quốc gia, nhất định không làm việc phạm pháp thì tâm an lý đắc. Nếu đối với việc tốt mà họ có mệnh lệnh ngăn cấm, không cho làm thì không làm. Không phải ta không làm mà là chúng sanh không có phước. Bản thân ta vui vẻ thanh nhàn, an nhiên tự tại thì có gì không tốt chứ? Là việc tốt! Cho nên khi có duyên thì chúng ta phải tận tâm tận lực đi làm, không có duyên thì tự giữ mình cho tốt. Có duyên thì làm việc tốt cho thiên hạ, tuyệt đối không làm việc phạm pháp, chúng ta đến bất kỳ nơi nào cũng được mọi người hoan nghênh. Pháp luật thì có văn tự ghi chép, ngoài ra còn có những điều không có văn tự ghi chép như đạo đức, phong tục, tập quán. Vì vậy nhập gia phải tùy tục, vào cửa phải hỏi điều kiêng kỵ. Người ta có điều gì kiêng kỵ thì nhất định không được phạm. Đây là điều Phật dạy chúng ta.

Thứ ba chính là có tâm nhẫn nại, tâm bình khí hòa. Chúng ta lấy Thiền tông làm ví dụ, Tổ sư Đạt-ma đến Trung Quốc vào thời đại của Vua Lương Võ Đế, nói chuyện với Vua Lương Võ Đế không hợp ý, Lương Võ Đế không hộ trì Ngài, nên Ngài về Thiếu Lâm Tự để diện bích (quay mặt vào vách), chờ đợi cơ duyên, đợi đến khi có Huệ Khả, từng đời từng đời đơn truyền, truyền đến Đại sư Huệ Năng thì duyên mới chín muồi. Bạn nói, Ngài có tâm nhẫn nại cỡ nào. Ngài muốn đem Phật pháp truyền đến Trung Quốc, phải đợi đến đời thứ sáu mới có thể làm lợi ích tất cả chúng sanh. Đây là điển hình tốt nhất về nhẫn nhục. Chúng ta mặc dù có tâm lớn, có nguyện lớn, có đức lớn, có năng lực lớn, muốn lợi ích tất cả chúng sanh, nhưng duyên chưa chín muồi thì phải học Tổ sư Đạt-ma. Có thể có một truyền nhân, hai truyền nhân, từng đời truyền xuống, cuối cùng có một ngày cơ duyên chín muồi rồi thì có thể làm lợi ích tất cả chúng sanh. Hà tất phải tự mình một đời đi làm? Không cần thiết như vậy. Đây mới là trí huệ chân thật. Không nhất thiết tự mình phải đi làm, mà truyền cho học trò, học trò không có cơ hội, lại truyền cho học trò nữa. Từ chỗ này bạn nhìn thấy, tâm nhẫn nại của cổ Thánh tiên Hiền không phải người bình thường có thể sánh nổi, mới có thể làm rất viên mãn sự việc này, không có khiếm khuyết. Đây là điểm chúng ta phải học tập.

Bị nhục nhất định không có tâm oán hận. Câu này có ý nghĩa rất sâu, có quan hệ rất lớn đối với việc tu học của chúng ta. Điều mà tôi giảng với quí vị hôm nay chỉ mới được một nửa. Ngày mai tôi muốn nêu một số việc điển hình với quí vị để nói rõ. Chúng ta phải vô cùng coi trọng, nếu không thì không những có chướng ngại to lớn đối với đạo nghiệp, mà ngay cả đối với đọc Kinh, hiểu sâu nghĩa thú cũng sẽ có chướng ngại, chúng ta đọc Kinh sẽ không khai ngộ. Tại sao không khai ngộ? Do tồn tại những phiền não này, nó đang ở đây quấy phá, làm chướng ngại. Cho nên những điểm này nhất định phải giảng rõ ràng, giảng minh bạch.

Hôm nay thời gian đã hết, chúng tôi chỉ giảng đến đây thôi.

A Di Đà Phật!