Thái Thượng Cảm Ứng Thiên – Tập 83/195

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN –  Tập 83/195 (45B – bộ 128 đĩa)

Các vị đồng học. Xin xem tiếp Cảm Ứng Thiên đoạn thứ 35 và 36 này.

Đoạn 35 là:

 “Sở tác tất thành, thần tiên khả ký.” (Việc làm ắt thành, có thể mong thành thần tiên)

Đoạn 36 là:

Dục cầu thiên tiên giả, đương lập nhất thiên tam bách thiện. Dục cầu địa tiên giả, đương lập tam bách thiện” (Muốn cầu thành thiên tiên, hãy nên làm một ngàn ba trăm điều lành. Muốn thành địa tiên, hãy nên làm ba trăm điều thiện.)

Kinh văn đến chỗ này là giảng xong phần thiện báo. Từ đây trở xuống là phần ác báo, là đoạn lớn thứ tư. Trước đây chúng ta có phân đoạn, đem đoạn văn tự này đặt tên là “Thành Sở Tác”, tức là thành tựu việc mà mình làm.

“Sở tác tất thành”, câu nói này vô cùng khẳng định, nói rõ với chúng ta thiện nhân thiện quả. Phạm vi của câu nói này vô cùng rộng lớn. Ở trong tiểu chú nói: “Thế gian không có việc gì không thành. Người trong thiên hạ đều có thể làm được”. Hai câu nói này hay. Mỗi người đều có thể hành thiện, mỗi người đều có thể thành tựu sự nghiệp mà họ kỳ vọng, gọi là “hữu nguyện tất thành”. Đây là Thánh Hiền, chư Phật Bồ-tát từ xưa đều nói như vậy. Nhưng theo kinh nghiệm bản thân trong một đời này của chúng tôi, dường như là muốn làm một việc tốt thì đều gặp rất nhiều khó khăn, gọi là “việc tốt thường lắm dày vò”, đây là sự thật. Hai cách nói này rốt cuộc có mâu thuẫn hay không? Cách nói nào là chính xác? Chúng ta cần suy xét thật kỹ, người hiện nay nói là nghiên cứu tỉ mỉ. Việc tốt thường lắm dày vò là sự thật, dày vò từ đâu mà ra, điều này chúng ta phải biết. Nếu không thể khắc phục ma chướng thì việc tốt cũng không thể thành tựu, đặc biệt là ở xã hội hiện tại. Tại sao vậy? Bạn làm một việc tốt, chắc chắn có hại đến lợi ích đang có của một số người, cho nên những người này nhất định gây ra chướng ngại, chúng ta thường nói đố kỵ chướng ngại. Lời nói này có ý nghĩa rất sâu rộng. Nhưng mà Thánh nhân nói: “Gieo nhân thiện được quả thiện, thiện hạnh nhất định có thành tựu”, lời nói này cũng là chính xác. Vấn đề là bạn phát tâm có thuần hay không, có chánh hay không? Nếu bạn phát tâm thuần chánh, gọi là “Người có đạo thường được giúp đỡ”. Ma chướng chắc chắn có. Thế Tôn thị hiện thành Phật còn có ma chướng. Bồ-tát tu hành chứng quả đâu có ác ý gì, tâm địa các Ngài thật là thuần thiện, vậy mà vẫn có ma chướng. Chúng ta biết ma chướng có từ vô thỉ kiếp đến nay, kết ân oán nợ nần với chúng sanh, ân báo không hết, oán cũng không có cách gì dứt hết được, nợ nần trả không xong, như vậy bạn mới biết sự vướng víu ân oán nợ nần là nguyên nhân vẫn phải gặp ma chướng của Bồ-tát thành Phật. Chúng ta trong quá khứ đời đời kiếp kiếp, vô lượng kiếp đến nay cũng làm những việc này, cho nên ngày nay trên đường Bồ-đề, mặc dù muốn làm sự nghiệp lợi ích tất cả chúng sanh, không có mảy may ý nghĩ tự tư tự lợi, nhưng vẫn không thể tránh khỏi ma chướng. Bồ-tát có trí huệ, người học Phật chính là phải học trí huệ này. Khởi dụng của trí huệ là làm thế nào tiêu trừ ma chướng, làm sao chuyển ma chướng thành trợ lực. Đây là trí huệ, là điểm mà chúng ta phải học ở Thế Tôn. Thế Tôn có thể khiến ma vương trở thành hộ pháp, chân thành cảm hóa nhân tâm. Chỗ chúng ta thiếu sót chính là chỗ này, không có thành ý. Tâm tốt là rất hay, nhưng tâm của chúng ta vẫn chưa đủ tốt, cho nên vẫn không có cách gì cảm hóa tâm chúng sanh. Đây là điểm chúng ta cần cố gắng, cần nỗ lực.

Trong chú giải phía dưới có mấy câu nói rất hay. “Chỉ dùng thực tâm để làm lành”. Cái thực tâm này chính là tâm chân thành, ở trong Phật pháp gọi là tâm Bồ-đề, nhà Nho gọi là thành ý, chánh tâm. Câu này ý nói dùng thành ý, chánh tâm để hành thiện.

“Ắt việc người đã hợp lòng trời”. Chỗ này nói “thiên tâm”, nhà Phật gọi là tánh đức. Bạn khởi tâm động niệm, hành vi tạo tác tương ưng với tánh đức.

“Ý trời há có trái nghịch ước nguyện của con người ư?”. Chữ “thiên ý” này là chỉ trời đất quỷ thần. Bạn dùng chân tâm, dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm từ bi thì quỷ thần kính ngưỡng bạn, ngay cả oan gia trái chủ của bạn nhìn thấy rồi họ cũng khâm phục, cũng kính ngưỡng, cho dù không giúp đỡ bạn, họ cũng không làm hại bạn. Đây là đạo lý nhất định.

Nói thật ra, giáo dục vào thời xưa không giống với giáo dục hiện nay, người thời xưa hiểu được đạo lý này. Cho dù người này có mối thù giết cha của ta, mối thù không đội trời chung này nhất định phải trả thù, nhưng nếu người này đang làm việc cho xã hội, vì đại chúng mà phục vụ thì mối thù này hiện nay không được báo. Tại sao vậy? Nếu chúng ta báo thù, đem họ giết đi, chúng sanh sẽ không có phước, hiện nay họ thật sự đang làm việc vì chúng sanh. Đợi đến khi nào mới báo vậy? Đợi đến khi họ thôi làm việc, nghỉ hưu mới trả thù họ. Khi họ không vì đại chúng phục vụ, vào lúc này mới báo thù. Đây là lễ của người xưa. Ví dụ, họ hiện nay làm huyện trưởng phục vụ nhân dân cả một huyện thị, không những không được báo thù mà còn phải giúp đỡ họ, còn phải thành tựu họ. Tại sao vậy? Họ vì chúng sanh, vì xã hội, không phải vì cá nhân họ, vậy mới gọi là hiểu đạo lý. Thế nhưng người hiện nay không tiếp nhận loại giáo dục này, nên không biết đạo lý này, không biết rằng chướng ngại hành vi thiện, cử chỉ thiện của một người là gây nên sự tổn hại to lớn cho toàn bộ xã hội, cho tất cả chúng sanh. Bạn báo thù là đúng, nhưng trách nhiệm nhân quả này bạn phải gánh. Người thật sự có trí huệ, họ thấy rất rõ ràng, món nợ đó họ mới có thể tính được rõ ràng. Người ngu thông thường làm sao biết được? Những sự việc này, quy cho cùng vẫn là vấn đề giáo dục. Cho nên, sự gợi ý của Khổng Lão Phu Tử cho chúng ta là: “Học rồi không thể không giảng”. Hằng ngày dạy học chính là giáo hóa chúng sanh. Dạy học, không cần thiết phải có nơi chốn nhất định, cũng không cần thính chúng nhất định, tùy lúc tùy nơi, Phật pháp gọi là tùy duyên, tùy loại hiện thân, tùy duyên thuyết pháp; dùng cách nói hiện nay đó là cơ hội giáo dục cho ba người, năm người, bất kể ở chỗ nào. Khi tôi còn nhỏ, có nhìn thấy các cụ ngày xưa dạy học, phần lớn là ở quán trà. Ở quán trà, có năm, ba người bạn cùng nhau uống trà, họ ở nơi đó giảng đại đạo lý, người uống trà bên cạnh cũng đều đang nghe, vô cùng có ý vị; lắng nghe họ nói chuyện, tăng trưởng tri thức, tăng trưởng kiến thức, cho nên quán trà chính là phòng học. Nhưng ở những nông thôn khác có thể không có hiện tượng này. Văn phong quê hương tôi tương đối thịnh. Mọi người biết, triều Thanh có phái Đồng Thành, là xuất xứ từ quê hương tôi. Cho nên các bạn nhỏ ở nông thôn tôi đều đi học, đều biết viết chữ. Chúng tôi nghĩ rằng nông thôn khác cũng vậy, nhưng nghe nói nông thôn khác không giống như nông thôn chúng tôi. Văn phong của chúng tôi rất thịnh, mãi cho đến hiện nay, mặc dù ít rồi nhưng vẫn còn có chút gốc rễ. Cho nên Phu Tử nói ý nghĩa của hai câu này, chúng tôi đã có sự thể hội rất sâu. Cách làm này của người xưa rất đáng để chúng ta noi theo, chúng ta cần phải học tập theo họ.

Trong tứ vô ngại biện tài của nhà Phật, cái cuối cùng là “nhạo thuyết”, ưa thích nói, ưa thích dạy người. Người ta đến thỉnh giáo, đương nhiên bạn phải dạy họ. Người ta không có đến thỉnh giáo, Bồ-tát làm bạn không mời. Người ta không thỉnh mời, bạn không được kéo họ đến để dạy họ, việc đó không hợp lý. Bạn giảng cho người quen của bạn, khiến họ ở bên cạnh nghe, đây chính là vì họ làm người bạn không mời. Thực ra, hoài nghi của chúng sanh là vô lượng vô biên, có mấy người biết hướng về Phật mà thỉnh pháp? Chúng ta xem thấy trong Kinh điển, người hướng về Phật thỉnh pháp đều là Phật Bồ-tát hóa thân thị hiện. Từ đó cho thấy, Thế Tôn cũng thường xuyên làm người bạn không mời của chúng sanh. Thâm nghĩa, mật nghĩa ở trong đây (chữ “mật” này không phải bí mật mà là thâm mật), chúng ta phải có năng lực thể hội.

Tóm lại, niệm niệm hy vọng tất cả chúng sanh có thể phá mê khai ngộ, gợi mở trí tuệ chân thật của họ, niệm niệm mong cầu tất cả chúng sanh đoạn ác tu thiện. Phá mê khai ngộ là trí, đoạn ác tu thiện là đức. Phật Bồ-tát, các bậc Thánh Hiền ở thế gian, việc họ làm chính là mỗi một việc như vậy, ngoài sự việc này ra, họ đối với thế gian này quả thật là chẳng cầu mong gì cả, thật sự triệt để làm được “không tranh với người, chẳng cầu gì ở đời”. Đây là tấm gương tốt chân thật cho chúng ta tu học. Cho nên chúng ta phải thật sự phát tâm Bồ-đề. Nhà Phật nói tâm Bồ-đề, trên thực tế, nhà Nho cũng nói tâm Bồ-đề. Quí vị đem điều mà nhà Nho với nhà Phật nói so sánh thử thì sẽ hiểu ngay. Nhà Nho nói “thành ý”, trong Quán Kinh gọi là “tâm chí thành”, bạn thử nghĩ, “thành ý” với “tâm chí thành” có giống nhau hay không? Nhà Nho gọi “chánh tâm”, trong Kinh gọi là “thâm tâm”“hồi hướng phát nguyện tâm”. Nhà Nho chỉ nói một cái (là chánh tâm), còn Phật pháp nói hai cái. Thâm tâm là tự thọ dụng, hồi hướng phát nguyện tâm là tha thọ dụng. Cho nên, Thánh nhân thế xuất thế gian đều là lấy tâm Bồ-đề làm nền tảng. Tự thọ dụng của chánh tâm chính là thâm tâm. Thâm tâm là ưa thiện mến đức, ở trong tâm không có mảy may ác ý. Hồi hướng phát nguyện tâm thì trong Khởi Tín Luận gọi là “đại từ bi tâm”, dùng tâm từ bi đối xử với người. Chí thành là thể của tâm Bồ-đề, thâm tâm là tự thọ dụng của tâm Bồ-đề, hồi hướng phát nguyện tâm là tha thọ dụng của tâm Bồ-đề. Nhà Nho nói đơn giản, thành ý là thể, chánh tâm là khởi dụng, sau đó mới có thể làm được tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Chữ bình thiên hạ này là tất cả chúng sanh trong thiên hạ đều có được sự bình đẳng, là cái ý này. Dùng tâm thanh tịnh, bình đẳng đối xử tất cả chúng sanh, đây là ý nghĩa của bình thiên hạ.

“Tự nhiên ngấm ngầm giúp đỡ, không gì chẳng thực hiện suông sẻ, không gì chẳng làm thành công!”. Hai câu nói này, ở trong Phật pháp chúng ta gọi là chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần giúp đỡ bạn, không có gì khác, chính là một chữ “thành tâm”.

Cư sĩ Tề kể chuyện cho các vị nghe, đạo tràng Thiên Mục Sơn có một số quỷ ở nơi đó. Quỷ đó là quỷ vừa mới từ trong địa ngục ra. Các bạn phải biết, tạo tác tội nghiệp đọa địa ngục phải trải qua thời gian rất dài, rất dài. Họ từ địa ngục ra, cũng trú ở trên núi đó. Những quỷ thần này cũng hoàn toàn không phải rất thiện. Nhưng mà nhìn thấy bà hộ trì đạo tràng ở đó, một chút tư tâm cũng không có, cho nên những quỷ thần này hộ trì bà. Họ yêu cầu bà cho một căn phòng, bà đã kể với các bạn, đó là phòng số 8. Phòng số 8 đó cửa đóng lại, một năm mới mở một lần, chỉ cho phép một mình bà vào, người khác không được phép vào. Số quỷ từ địa ngục ra trú ở nơi đó tu hành, những người này cũng hộ trì đạo tràng. Cho nên, tâm địa của bạn chân thành, vì Phật pháp, vì chúng sanh, những quỷ thần này thấy rõ ràng, họ giúp đỡ bạn. Bạn không phải chân thật tu hành, khi sống ở trên núi, họ sẽ chọc phá bạn, bạn tuyệt nhiên không thể sống ở trên núi này. Tương lai các bạn có cơ hội thì hãy đến núi này ở, khảo nghiệm thử xem các bạn là tu thật hay là tu giả? Các bạn có được những quỷ thần này giúp đỡ hay không, hay là quỷ thần trêu chọc các bạn? Bà kể, có rất nhiều Pháp sư muốn đến núi đó để ở, nhưng ở không nổi, hai ba ngày tự mình phải xuống núi. Sự việc này chứng tỏ lục đạo luân hồi là sự thật. Thiên địa quỷ thần giúp đỡ người, quấy phá người, sự việc này cũng là thật. Chúng ta tự mình phải biết cảnh giác, phải biết quyết chí hướng thượng.

Cái mà Đạo gia mong cầu là hy vọng làm thần tiên. Cho nên, một câu sau cùng là “có thể trở thành thần tiên”. Người học Phật chúng ta chí không ở thần tiên, cũng không ở sanh thiên. Người học Phật chí ở làm Phật, chỉ cầu vãng sanh Tịnh Độ, không giống với chỗ mà họ mong cầu. Nhưng mà làm Phật, làm Tổ, vãng sanh thì thiện tâm thiện hạnh của chúng ta phải vượt qua họ. Ở chỗ này họ nói là cầu làm thiên tiên phải làm 1.300 điều thiện, làm địa tiên cũng phải làm 300 điều thiện. Điều này nói rõ với chúng ta một sự thật, thần tiên đều là người thiện. Tâm hạnh bất thiện thì chỉ có đi làm quỷ, thần tiên không có phần.

Được rồi, hôm nay thời gian đã hết, chúng ta tôi chỉ giảng đến đây. A Di Đà Phật!