THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN GIẢNG GIẢI
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng từ ngày 11/05/1999 đến 20/04/2000
Giảng tại Singapore, Australia, Hồng Kông.
Tổng cộng 195 Tập (AMTB)
Chuyển ngữ: Ban biên dịch Tịnh Không Pháp Ngữ
Giám định biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
Mã AMTB: 19-012-0001 đến 19-012-0195
THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN – Tập 195/195 (128B – bộ 128 đĩa)
Các vị đồng học!
Xin mời xem Cảm Ứng Thiên đoạn cuối cùng:
“Cố cát nhân, ngữ thiện, thị thiện, hành thiện, nhất nhật hữu tam thiện, tam niên thiên tất giáng chi phúc.” (Do vậy, người cát tường nói lời lành, nhìn điều lành, làm điều lành, mỗi ngày có ba điều lành thì ba năm trời ắt sẽ ban phước cho”.
Hôm qua chúng ta đã nói đến câu này, hôm nay chúng ta tiếp tục nói đến câu tiếp theo:
“Hung nhân, ngữ ác, thị ác, hành ác, nhất nhật hữu tam ác, tam niên thiên tất giáng chi họa.” (Còn kẻ ác nói lời ác, xem điều ác, làm điều ác, mỗi ngày có ba điều ác, ba năm trời ắt sẽ giáng họa.)
Đến đây là một câu, câu cuối cùng là nhằm động viên: “Hồ bất miễn nhi hành chi.” (Sao không cố gắng thi hành vậy thay?)
Tổng kết cát hung họa phước là do chính bản thân mình tạo ra, nhất định không có sự chi phối của quỷ thần, cũng nhất định không phải do Thượng Đế, Thiên Đế chi phối, lại càng không liên quan gì đến Phật Bồ-tát, mà hoàn toàn là do bản thân mình tạo tác. “Ba năm” là một ngàn ngày, trong một ngàn ngày này, những nghiệp tích lũy lại sẽ hình thành quả báo rõ ràng, một ngàn ngày mà quả báo rõ ràng như vậy thì một ngàn năm sẽ thế nào đây? Cho nên chúng ta nhìn thấy rất nhiều tôn giáo nước ngoài đều nói về ngày tận thế. Ngày tận thế được hình thành như thế nào vậy? Là tổng kết của một ngàn năm, điều này vô cùng đáng sợ. Đặc biệt là đến cuối thế kỷ thì hiện tượng này vô cùng không tốt, hết thảy chúng sanh, không những là bản thân chúng ta mà chúng sanh lục đạo từ trong vô lượng kiếp đến nay, tập khí mà chúng ta tích lũy quả thật là thiện ít ác nhiều. Nếu là thiện nhiều ác ít thì chúng ta sẽ không đến thế gian này, mức độ thấp nhất là bạn sanh lên cõi trời hoặc là tứ thánh pháp giới, đây là đạo lý tất nhiên. Phàm là ở dưới cõi người thì nhất định là ác nhiều thiện ít. Chính vì sự thật như vậy nên cổ Thánh tiên Hiền, chư Phật Bồ-tát đại từ đại bi ứng hóa tại thế gian để dạy chúng ta. Những vị đại Thánh đại Hiền này đều dùng thân phận thầy giáo để xuất hiện tại thế gian này, làm nghề dạy học. Thế nhưng chúng ta đều biết thầy giáo dạy có tốt thế nào đi nữa cũng không thể đi ngược lại chính sách giáo dục của nhà nước, cho nên công đức hộ pháp của quốc gia rất lớn. Chúng ta gọi là quân vương, thời xưa Trung Quốc khi nhắc đến quân vương đều gọi là cổ thánh tiên vương, họ gọi đế vương đều gọi là Thánh nhân. Thánh nhân có ý nghĩa gì? Là đối với chân tướng của vũ trụ nhân sanh, hết thảy lý sự nhân quả, các Ngài hiểu rõ, các Ngài minh bạch, người như vậy được gọi là “Thánh”. Cho nên chính sách giáo dục mà họ đặt ra có thể hoàn toàn phối hợp với chư Phật Bồ Tát, chúng ta gọi là “hoằng hộ”. Những vị Thánh nhân, Phật Bồ-tát hoằng pháp còn đế vương thì hộ pháp, hộ pháp so với hoằng pháp còn quan trọng hơn. Nếu không có những người hộ pháp như thế thì Phật Bồ-tát có trí huệ thế nào đi nữa, có năng lực thế nào đi nữa cũng không thể phát huy, sức ảnh hưởng không lớn, các Ngài có thể dạy được mấy người chứ? Muốn ảnh hưởng đến xã hội, ảnh hưởng đến quốc gia, ảnh hưởng đến thế giới thì nhất định phải là người lãnh đạo Thánh Hiền hộ trì chánh pháp. Những quân vương vào thời xưa của Trung Quốc không ai mà không xem trọng giáo dục, không ai mà không hộ trì việc dạy học. Chính thức được liệt vào chính sách quốc gia là thời kỳ Hán Võ Đế. Hán Võ Đế đưa học thuyết Khổng Mạnh đặt thành chính sách giáo dục quốc gia, đặt thành đường lối giáo dục. Sau khi đặt ra chính sách này thì kéo dài cho đến cuối đời nhà Thanh, hầu như trong hai ngàn năm những quân vương của các triều đại đều tuân thủ theo. Tuy có thay triều đổi đại nhưng chính sách giáo dục này luôn luôn không thay đổi, cho nên học thuyết Nho gia Khổng Mạnh trở thành trào lưu chủ yếu của giáo dục Trung Quốc. Thời kỳ Hán Minh Đế, Phật giáo truyền đến Trung Quốc. Do sự giáo học của Phật giáo và sự giáo học của Khổng Mạnh được xây dựng trên cùng một nền tảng, đó là hiếu đạo, cho nên Phật giáo sau khi truyền đến Trung Quốc nhận được sự đón nhận phổ biến của triều đình và dân chúng. Đế vương đích thân chủ trì giáo dục Phật-đà, thế là giáo học của Khổng Mạnh và giáo học của Phật-đà đồng thời phát triển ở Trung Quốc. Hiệu quả của giáo học Phật giáo đã vượt qua nhà Nho, nguyên nhân ở đâu? Là vì giáo dục của nhà Nho thuộc về một bộ phận phụ trách dưới quyền của thừa tướng, gọi là bộ Giáo Dục, thuộc về sự quản lý của thừa tướng. Sự giáo dục của Phật giáo do đích thân đế vương nắm giữ, người Trung Quốc luôn cung kính hoàng đế hơn so với thừa tướng. Vì đích thân hoàng đế chủ trì phổ biến nên hiệu quả hơn sự giáo học của nhà Nho. Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Nhà nhà Quán Thế Âm, hộ hộ Di Đà Phật”, điều này là do sự hộ pháp của đế vương. Nhà Nho và nhà Phật dạy người điều gì ? Đều là dạy cho người hiểu rõ quan hệ giữa người với người, hiểu được thế nào là thiện, thế nào là ác, thế nào là cát, thế nào là hung, dạy bạn có năng lực, có trí huệ phân biệt chân vọng, phân biệt tà chánh, phân biệt thiện ác, phân biệt đúng sai lợi hại, là dạy chúng ta điều này. Ngày nay chúng ta đọc Cảm Ứng Thiên của Đạo giáo, sự giáo học của ba nhà Nho Thích Đạo đã đặt nền móng cho văn hóa Trung Quốc.
Từng câu từng chữ được nói trong Cảm Ứng Thiên đều là tiêu chuẩn của cát hung họa phước. Hôm nay chúng ta học đến đây là đoạn tổng kết rồi. Chỗ này nói đến thiện và ác chính là những điều mà kinh văn phía trên đã nói đến, văn tự không quá nhiều, chỉ có hơn một ngàn bảy trăm chữ, nên dễ dàng thọ trì, cần phải học thuộc lòng. Mỗi khi khởi tâm động niệm, lời nói việc làm cần phải nghĩ xem có tương ưng với tiêu chuẩn thiện ác được nói trong Cảm Ứng Thiên hay không? Nếu là ác thì không được phép nghĩ đến, không được phép nói, không được phép làm. Nếu là thiện thì nên nghĩ đến, nên nói ra, nên thực hiện. Thế giới ngày nay loạn rồi, sau khi nhà Mãn Thanh bị lật đổ, nhà nước Quốc Dân được thành lập nhưng vô cùng bất hạnh là chính sách giáo học truyền thống mấy ngàn năm của Trung Quốc cũng bị xóa bỏ theo, học theo mở cửa tự do dân chủ của người phương Tây. Mở cửa tự do dân chủ là gì? Là mọi người có thể nghĩ ngợi lung tung, có thể nói xằng nói bậy, có thể làm xằng làm bậy, đây chính là mở cửa tự do dân chủ. Đó chính là điều hôm nay chúng ta đọc “Nói ác, nhìn ác, làm ác”. Không chỉ là ba năm, sau khi nhà Thanh bị lật đổ đến nay đã gần một trăm năm rồi, sắp phải tính tổng nợ rồi. Khi tôi còn là trẻ nhỏ còn được tiếp xúc một chút với giáo dục Thánh Hiền, còn có vài cụ già giảng nói cho chúng tôi về hiếu đễ trung tín, còn giảng vài câu về ngũ luân bát đức. Thế nhưng sau kháng chiến thì không có người giảng nói nữa rồi. Trước khi kháng chiến còn có một vài cụ già nói những giáo huấn này, khi đó chúng tôi học tiểu học, học trung học, thầy giáo vẫn còn thường xuyên giảng, chúng tôi còn nghe được một chút, ngày nay ở trường học không còn nữa rồi, trong gia đình cũng không có, bị hủy diệt triệt để rồi. Vì vậy rất nhiều nhà tôn giáo nói đến ngày tận thế. Đây chính là dấu hiệu của ngày tận thế, có thể tránh khỏi được không? Có tai họa lớn ở ngay trên đầu rồi, tai họa này từ đâu đến vậy? Chính là từ “Nói ác, nhìn ác, làm ác” của chúng ta, là từ đây mà có. Tai nạn lớn có thể tránh khỏi được không? Người xưa nói rất hay: hoàn toàn nhìn ở sự chuyển biến ở nhân tâm chúng ta, nếu nhân tâm có thể chuyển ác thành thiện thì tai nạn này có thể được hóa giải. Nếu tiếp tục không ngừng làm việc ác, vậy thì tai nạn này không thể tránh khỏi rồi. Ấn Quang Đại sư, trong truyền thuyết đều nói Ngài là Đại Thế Chí Bồ-tát tái lai. Đại Thế Chí Bồ-tát có trí huệ nhất, các vị nhắc đến Bồ-tát đều biết Văn Thù Bồ-tát đại biểu cho trí huệ mà không biết đến Đại Thế Chí Bồ-tát. Đại Thế Chí đại biểu cho trí huệ thông minh tuyệt đỉnh, làm thế nào biết được vậy? Ngài đề xướng “Nhất môn thâm nhập, chuyên tu chuyên hoằng”. “Nhất môn” thì lựa chọn pháp môn nào? Là pháp môn niệm Phật. Ngài dạy người “Nhiếp trọn sáu căn tịnh niệm liên tục”, đó là trí huệ thông minh tuyệt đỉnh, đơn giản mà rõ ràng, đơn đao trực nhập, cầu lấy con đường thành Phật. Các vị cần phải ghi nhớ, Thích-ca Mâu-ni Phật trong Kinh Vô Lượng Thọ tán thán A Di Đà Phật “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”. Tay phải và tay trái của “Phật trung chi vương” có thể kém hơn so với người khác sao? Thế còn có thể gọi là “Vua trong các Phật” sao? Cho nên chúng ta có thể thể hội được Quán Thế Âm Bồ-tát và Đại Thế Chí Bồ-tát đều ở trên hết thảy các vị Bồ-tát khác. Phật là “Phật trung chi vương” nên hai vị Bồ-tát này là Bồ-tát trung chi vương. Điều này chúng ta có thể tượng tượng ra được. Văn Thù Bồ-tát và Phổ Hiền Bồ-tát không thể so sánh được. Trong hội Hoa Nghiêm chúng ta thấy Văn Thù Bồ-tát và Phổ Hiền Bồ-tát đều cầu nguyện vãng sanh thế giới Cực Lạc. Hai vị đại sĩ Quán Âm và Thế Chí này là người giúp đỡ A Di Đà Phật giáo hóa chúng sanh, là lão sư của thế giới Tây Phương Cực Lạc, Văn Thù Bồ-tát và Phổ Hiền Bồ-tát đến đó vẫn là học trò. Cho nên nhất định phải hiểu được chân tướng sự thật này thì tâm tôn kính của chúng ta đối với Phật Bồ-tát mới có thể sanh khởi được, tâm kính trọng và ngưỡng mộ, tâm học tập mới có thể phát ra được, mới biết được giáo huấn của các Ngài quan trọng. Những điều hai vị Bồ-tát dạy vô cùng đơn giản, càng đơn giản thì càng không thể nghĩ bàn, càng thâm sâu, có thể phổ độ hết thảy chúng sanh trong pháp giới. Vì vậy hai câu tổng kết này là hết lòng hết dạ khuyên bảo chúng ta, từ bi đến cực điểm.
Câu cuối cùng “Sao không cố gắng thi hành vậy thay? ”. Chữ “hồ” có nghĩa là tại vì sao, vì sao chúng ta không động viên chính mình nỗ lực làm việc thiện, đoạn ác tu thiện? Người được tốt đẹp, được lợi ích là chính bản thân mình, không phải là người khác. Chúng ta đoạn ác tu thiện thì có phải Thái Thượng được lợi ích hay không? Không phải. Có phải Phật Bồ-tát được tốt đẹp không? Cũng không phải. Đều không liên quan đến bất kỳ ai, mà chính bản thân mình được tốt đẹp. Những vị đại Thánh đại Hiền, chư Phật Bồ-tát giáo hóa chúng sanh, đối với hết thảy chúng sanh đều không có một mảy may mong cầu. Đây mới gọi là Thánh nhân. Bản thân chúng ta cần phải thường xuyên đọc tụng Cảm Ứng thiên. Chúng tôi có in cuốn sách nhỏ chú giải đơn giản về Cảm Ứng Thiên, mọi người có thể thuận tiện mang theo bên mình. Trước đây tôi ở Đài Loan, khuyến khích các đồng học của chúng tôi, buổi tối hằng ngày đọc một lượt Cảm Ứng Thiên để làm thời khóa tối. Đọc cuốn sách này rồi nghiêm chỉnh phản tỉnh kiểm điểm, chúng ta trong cả ngày hôm nay, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm có tương ưng với thiện pháp hay không? Nếu tương ưng với thiện pháp thì điều thiện này của chúng ta cần phải duy trì, không được mất đi, nếu tương ứng với ác pháp thì nhất định phải sửa đổi làm mới, phải sám hối. Đây mới gọi là tu hành chân thật. Tu hành nhất định không phải là đọc kinh văn một lượt, đọc cho Phật Bồ-tát nghe, đó gọi là lừa người, việc đó không phải là tu hành chân thật. Tu hành chân thật là đối với giáo huấn của Phật Bồ-tát thật sự hiểu rồi, tin tưởng rồi, y giáo phụng hành, đây mới là chân thật tu hành, mới thật sự đạt được lợi ích. Lợi ích này chính là “Trời ắt ban phước cho”. Chính mình có lòng tin tràn đầy.
Hôm nay trong số các vị có rất nhiều bạn đồng tu mới đến. Ở Singapore này có một vị thanh niên một trăm lẻ một tuổi, một trăm lẻ một tuổi rồi nhưng rất trẻ trung, không già, chúng tôi có băng ghi hình sẽ tặng cho các bạn, các bạn đều có thể mang về để xem. Vì sao bà đã một trăm lẻ một tuổi rồi mà vẫn trẻ trung như vậy, thân thể và thể lực của bà, tai mắt tinh tường rõ ràng, phản ứng nhanh lẹ giống như người mới ba mươi, bốn mươi tổi vậy? Hơn một trăm tuổi rồi nhưng chưa từng sanh bệnh, là nguyên nhân gì vậy? Là nói thiện, nhìn thiện, làm thiện. Bà làm được rồi, bà có tràn đầy lòng tin là ông trời sẽ phù hộ cho bà. Bà thường nói ông trời phù hộ cho bà, bà không lo không buồn, không vướng không mắc. Hằng ngày bà còn phục vụ người nghèo khổ, ngày ngày đều bôn ba khắp nơi, bà đã làm được rồi, không có lý do gì khác. Bà có thể làm được thì mỗi người đều có thể làm được. Bản lãnh của bà chính là cả một đời không nhìn thấy lỗi của người khác. Bà chỉ nhìn thấy điểm tốt của người khác, bà không nhìn lỗi lầm của người khác, tâm địa thuần thiện. Khi chung sống với người khác, gặp phải chướng ngại, bà thường quay đầu nghĩ mình không tốt, “bản thân tôi làm không tốt, vì sao lại khiến cho người khác không vui thích”. Từ trước đến nay bà chưa từng nói người khác không tốt, đây chính là lý do bà đã một trăm lẻ một tuổi rồi mà vẫn có thể giữ được thân thể trẻ khỏe như thanh niên vậy, nguyên nhân là ở chỗ này. Người xưa thường nói “Ưu phiền khiến người già nua”, một người có vọng tưởng phân biệt chấp trước, trong tâm chỉ ghi nhớ điều bất thiện của hết thảy chúng sanh thì người này sẽ già rất nhanh. Còn thiện tâm, thiện niệm, thiện hạnh thì vĩnh viễn không già. Tôi thường nói không những bà không già mà còn không bệnh, đây đều là sự thật. Tiếp theo sẽ thế nào? Là không chết. Bà chết rồi đi về đâu đều rất rõ ràng, nếu chết rồi bà không niệm Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc thì bà sẽ sanh lên trời. Có đồng học hỏi tôi, người giống như bà Hứa Triết nếu sanh thiên thì sanh lên tầng trời nào? Tôi nói với mọi người là mức độ thấp nhất là bà sanh đến cõi trời Đâu Suất. Vì sao tôi biết được bà sanh đến cõi trời Đâu Suất? Vì bà biết đủ, cõi trời Đâu Suất còn gọi là cõi trời Tri Túc, bà điều gì cũng biết đủ, một mảy may tham cầu đều không có, chỉ biết vì xã hội, vì người già, người bệnh, người khổ nạn mà phục vụ, bà không có ý niệm thứ hai. Người thế này sanh thiên thì nhất định sanh đến cõi trời Đâu Suất, cõi trời Tri Túc. Chúng ta quan sát, phán đoán từ trong hành nghi cả cuộc đời của bà, trong sáu tầng trời dục giới, bà sẽ sanh đến tầng trời nào? Sẽ cao hơn nhiều khi so với cõi trời Tứ Thiên Vương và cõi Trời Đao Lợi. Đến một trăm lẻ một tuổi bà mới quy y Tam Bảo, mới học Phật, bà quy y ở Cư Sĩ Lâm, ngày ngày đều niệm A Di Đà Phật, bà muốn cầu sanh thế giới Cực Lạc. Người thế này niệm Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc thì nhất định là thượng phẩm thượng sanh, đây là nhân vật mẫu mực của chúng ta, nhân vật điển hình của chúng ta. Cho nên cần phải khuyến khích thực hiện.
Đến hôm nay chúng tôi đã giảng Cảm Ứng Thiên viên mãn rồi. Lần này giảng tương đối tường tận, thế nhưng nội dung của chú giải quả thật là quá phong phú, chúng tôi không dựa vào chú giải để giảng vì dựa vào chú giải để giảng thì cần thời gian rất nhiều, kéo dài quá lâu, người ngày nay không có tâm nhẫn nại như vậy. Cho nên hôm nay chúng tôi kết thúc tại đây, giảng viên mãn rồi. Ngày mai chúng tôi sẽ thay đổi đề tài khác, chúng tôi sẽ cùng các đồng học cùng nhau học tập Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo.
Được rồi, hôm nay thời gian đã hết, chúng ta kết thúc viên mãn tại đây. A Di Đà Phật !